← Quay lại trang sách

- XXXV -

TÔI RỜI MISSOURI năm mười bảy tuổi, xoay xở tới Syracuse rồi sống qua ngày với khoản tiền học bổng ở trường đại học. Thật ra tôi sống khá ổn. Tôi có khiếu sắp xếp mấy câu văn vẻ mượt mà, lại biết loè ra một lát cắt của lịch sử Hoa Kỳ đúng nơi đúng lúc, và thế là - như một nhúm ít ỏi các thiếu nữ da màu cùng tuổi khác - chúng tôi được mời tới những căn phòng ốp gỗ tao nhã, có ánh nến lung linh và những chiếc cốc pha lê tuyệt đẹp để trình bày quan điểm về những gì đã xảy ra với những chàng trai chủng tộc chúng tôi ở mặt trận Anzio, rồi W. E. B. Du Bois là ai, ý nghĩa thực sự khi người da đen được giải phóng là gì, những phi công người Mỹ gốc Phi đã tạo nên những thay đổi ra sao, và Lincoln sẽ nghĩ gì về những thành tựu chúng tôi đạt được. Người ta lắng nghe câu trả lời của chúng tôi với ánh mắt đờ đẫn. Giống như họ thực sự muốn tin vào những gì đang được nói ra khi họ có mặt ở đây, nhưng lại không thể tin nổi mình đã có mặt ở đây vì điều đó.

Rồi đến cuối buổi tối tôi sẽ ra sức gõ đàn piano, nhưng hình như họ kỳ vọng giai điệu jazz nảy ra dưới những ngón tay tôi. Đây không phải kiểu Da đen họ vẫn hình dung. Đôi lúc họ nhìn lên, giật nảy người, như vừa choàng tỉnh từ một giấc mơ.

Chúng tôi được thầy trưởng khoa tiễn ra cửa. Và tôi dám chắc bữa tiệc chỉ thực sự bắt đầu sau khi cánh cửa đã đóng lại và chúng tôi đi hẳn.

Sau khi thăm những ngôi nhà nguy nga lộng lẫy ấy, tôi không còn muốn trở lại căn phòng tập thể chật chội của mình nữa. Tôi đi lang thang khắp phố, về phía công viên Thornden, rồi khu White Chapel, đôi lúc đi tới tận khi bình minh buồn thảm hé lên, trong đôi giày thủng lỗ.

Hầu hết những ngày tháng học đại học của tôi gắn liền với việc đeo khư khư ba lô trước ngực và giả bộ không nghe thấy những lời tán tỉnh của đám nam sinh không ngại coi phụ nữ da màu là chiến tích: bọn đó lúc nào cũng có máu đi săn.

Hẳn là tôi nhớ da diết những con đường làng trong thị trấn nhỏ bé của tôi ở Missouri, nhưng từ bỏ học bổng sẽ là một sự thất bại đối với người thân của tôi, những người chẳng hay biết gì về cuộc sống của tôi ở đó - họ nghĩ cô gái nhỏ của họ đang ở miền Bắc, nghiên cứu sự thật về Hoa Kỳ ở nơi mà một phụ nữ trẻ có thể bước qua ngưỡng cửa của người giàu. Họ nói với tôi rằng nét duyên dáng của người phương nam sẽ giúp tôi thích nghi được. Thư của bố tôi thường bắt đầu thế này: Ánh hào quang bé nhỏ của ta. Tôi viết thư hồi âm. Kể với họ tôi vô cùng yêu những buổi học lịch sử, đó là sự thật. Kể với họ tôi rất thích đi dạo trong rừng, cũng là sự thật. Kể với họ tôi luôn giữ những vật dụng bằng vải lanh trong phòng ở sạch sẽ, cũng là sự thật nữa.

Tôi nói với họ toàn sự thật, nhưng không một lời nào thật lòng.

Dù vậy, tôi vẫn tốt nghiệp với tấm bằng danh dự. Tôi là một trong những phụ nữ da màu đầu tiên ở Syracuse làm được điều này. Tôi bước lên bục, nhìn xuống đám đông rợp trong mũ áo tốt nghiệp, những tràng pháo tay vang dội. Một cơn mưa nhẹ thoảng qua sân trường. Tôi bước qua đám bạn học, sửng sốt. Bố mẹ tôi, từ Missouri cũng đến, ôm chầm lấy tôi. Họ già nua và tiều tụy nắm tay nhau như thể hai người là một thể. Chúng tôi tới nhà hàng Denny’s để ăn mừng. Mẹ nói chúng tôi lẫn chủng tộc mình đã tiến được một quãng đường dài. Tôi thu mình vào ghế. Mọi người đã cố thu xếp sao cho tôi vẫn có chỗ ngồi ở băng sau. Không, tôi nói với nhà. Con muốn ở lại thêm một thời gian ngắn nữa nếu mọi người không phản đối, con vẫn chưa sẵn sàng trở về. Ồ, họ nhất loạt nhếch mép cười, giờ thành dân Yankee chính hiệu rồi đó hả? Đó là nụ cười ẩn chứa nỗi đau, gọi đó là cái nhăn mặt thì phải hơn.

Mẹ tôi ngồi ghế trước, chỉnh gương chiếu hậu nhìn theo tôi khi xe rời đi, bà còn vẫy tay qua cửa sổ và hét to bảo tôi phải mau về nhà.

Tôi bước vào cuộc hôn nhân đầu tiên, hoàn toàn mù mờ về các thể loại tình ái. Chồng tương lai của tôi xuất thân từ một gia đình ở Des Moines. Anh là sinh viên cơ khí và là một nhà hùng biện nổi tiếng trong các buổi thảo luận về người da đen, nói về chủ đề nào cũng nắm chắc. Anh có nước da xấu và cái mũi gãy tuyệt đẹp. Tóc anh cắt theo kiểu của người da đen bảo thủ, rìa tóc thoáng màu nâu vàng. Anh là kiểu người hễ giơ tay chỉnh gọng kính là chỉ dùng đúng ngón giữa. Tôi gặp anh vào cái đêm mà anh nói rằng nước Mỹ không nhận ra ai cũng bị giám thị, mãi mãi về sau cũng vậy, trừ phi những quy định về quyền cơ bản được thay đổi. Quyền cơ bản, anh dùng cụm từ đó thay cho chữ quyền công dân. Nó khiến cả hội trường lặng đi. Niềm khao khát có được anh thít chặt cổ họng tôi. Anh đảo mắt khắp phòng, ánh mắt dừng lại ở tôi.

Anh vẫn còn vẻ trẻ con vì quá gầy còm, thêm cái miệng rộng. Chúng tôi hẹn hò trong sáu tuần rồi quyết định. Bố mẹ và hai người anh em còn lại của tôi đã lái xe tới dự cưới. Bữa tiệc được tổ chức trong một hội trường ọp ẹp ở ngoại ô thị trấn. Chúng tôi nhảy múa tới tận nửa đêm và rồi ban nhạc ra về, kéo lê những cái kèn trôm-bon. Chúng tôi lần lượt tìm áo khoác. Bố hầu như im lặng suốt. Ông hôn lên má tôi. Nói với tôi rằng giờ không còn nhiều người đặt làm biển vẽ tay nữa, họ chuyển sang dùng hộp đèn nê-ông, nhưng nếu ông có thể gắn một tấm biển lên thế giới này, thì ông sẽ đề rằng ông là bố của Gloria.

Mẹ thì dặn dò tôi đủ thứ, tới giờ tôi vẫn chẳng nhớ nổi một lời nào, và rồi chồng mới cưới vẫy gọi tôi ra về.

Tôi nhìn về phía anh và mỉm cười, anh cũng mỉm cười lại, và cả hai chúng tôi lập tức biết mình đã phạm sai lầm.

Có người nghĩ tình yêu ở cuối con đường, nếu may mắn tìm thấy nó thì ta sẽ dừng chân ở đó mãi mãi. Có người lại nói tình yêu sẽ trở thành một vách đá mà ta lao đầu xuống, nhưng hầu hết những người từng trải đều biết tình yêu chỉ là thứ thay đổi từng ngày, tùy thuộc vào mức độ ta đấu tranh vì nó, chiếm lấy nó, kiên trì níu giữ nó, hay mất nó đi bao nhiêu, nhưng cũng có khi ngay từ đầu vốn đã chẳng có tình yêu nào cả.

Tuần trăng mật của chúng tôi là cả một thảm họa. Ánh nắng lạnh lẽo hắt qua những ô cửa sổ nhà trọ ở một thị trấn miền quê nhỏ. Tôi từng nghe kể rất nhiều đôi không ngủ cùng nhau vào đêm tân hôn. Lúc đầu chuyện đó chẳng làm tôi lo lắng. Tôi nhìn anh cuộn mình lại trên giường, nhưng không ngủ mà run rẩy như lên cơn sốt. Tôi có thể cho anh thời gian. Anh cứ khăng khăng bảo mệt và nói quá lên về sự căng thẳng của việc cưới xin - sau này tôi mới phát hiện ra anh đã chi hết số tiền tiết kiệm của gia đình cho tiệc cưới. Tôi vẫn cảm thấy dư âm mạnh mẽ của niềm khao khát có anh khi tôi nghe anh nói, hay khi anh gọi điện cho tôi báo anh sẽ không về nhà. Dường như từ ngữ ưu ái anh, cái cách anh nói như có ma lực, nhưng sau một thời gian giọng anh nghe thành ra bẳn gắt, hễ nghe là tôi lại nhớ tới màu sắc mấy bức tường trong những phòng khách sạn anh ở: những màu sắc đã ngấm qua người anh và choán lấy anh rồi.

Thêm một thời gian, rồi chẳng mấy ai còn biết tới anh nữa.

Và rồi vào năm 1947, sau mười một tháng kết hôn, anh nói rằng anh vẫn đang tìm kiếm một cái thùng rỗng khác vừa với mình. Chính anh, chàng trai một thời là ngôi sao của đội hùng biện da đen. Một cái thùng rỗng khác. Tôi nghe như như hộp sọ của mình bị nhấc ra khỏi da thịt. Tôi bỏ anh.

Tôi tránh không về nhà. Tôi bịa ra cớ này cớ nọ, dựng lên những lời nói dối. Bố mẹ vẫn trông cậy vào tôi, sao phải làm tổn thương họ chứ? Ý nghĩ họ biết chuyện tôi thất bại cứ đeo bám tôi. Tôi không sao chịu nổi. Tôi thậm chí không kể với họ tôi đã ly hôn. Tôi vẫn gọi cho mẹ và nói chồng tôi đang tắm, hay ở ngoài sân bóng chày, hay tới buổi phỏng vấn cho một vị trí ngon lành ở hãng cơ khí Boston. Tôi còn kéo điện thoại ra tận cửa trước, tự bấm chuông và nói: Thôi con phải đi đây, mẹ ạ, anh Thomas có bạn đến chơi.

Giờ đây, khi anh ấy đã đi rồi, anh ấy có lại được cái tên. Thomas. Tôi lấy chì kẻ mắt màu xanh lá cây viết tên anh ấy lên gương nhà tắm. Tôi nhìn xuyên qua cái tên ấy ngắm bóng mình đằng sau.

Lẽ ra tôi nên trở lại Missouri, tìm một công việc tốt, ổn định cuộc sống cùng người thân, có khi còn kiếm được một anh chàng đủ bản lĩnh đối mặt với đời, nhưng tôi không trở lại; tôi luôn nói dối là tôi sẽ về, và chẳng bao lâu sau bố mẹ tôi qua đời. Đầu tiên là mẹ, còn bố khi ấy cũng suy sụp rồi, liền đi theo chỉ một tuần sau đó. Tôi đã nghĩ họ ra đi như những cặp tình nhân. Họ không thể sống thiếu nhau. Dường như họ đã dành trọn đời mình để thở hơi thở của nhau.

Nỗi mất mát thiêu đốt tôi, cả cơn thịnh nộ nữa, và tôi muốn nhìn thấy New York. Tôi nghe nói đó là một thành phố không lúc nào lắng dịu. Tôi đến trạm xe buýt với hai chiếc va li rõ đẹp, đi giày cao gót, có cả mũ. Cánh đàn ông muốn xách đồ cho tôi, nhưng tôi cứ tiếp tục đi, đầu ngẩng cao, về phía đại lộ số 8. Tôi tìm một phòng trọ và nộp đơn tới quỹ học bổng nhưng chẳng nhận được tin tức gì. Tôi nhận luôn công việc đầu tiên tìm được: một chân ghi sổ cho một hãng cá độ ở trường đua Belmont. Tôi là cô gái ngồi sau cửa sổ. Đôi khi chúng ta sa vào thứ chẳng thích hợp với mình chút nào. Chúng ta cố ngụy biện cho nó. Chúng ta nghĩ có thể giũ sạch nó như một chiếc áo choàng, nhưng nó đâu phải chiếc áo choàng, nó giống một lớp da khác. Tôi có thừa trình độ nhưng vẫn nhận việc đó. Tôi tới trường đua hàng ngày. Tôi nghĩ chỉ làm vài tuần thôi rồi bỏ, đó chỉ là việc tạm thời, một chút hài lòng lóe lên trong tôi, một cô gái biết rõ hài lòng là gì nhưng chưa từng được nếm trải nó một cách trọn vẹn. Tôi hai mươi hai tuổi. Tất cả những gì tôi muốn là làm cho cuộc sống của mình có chút phiêu lưu: đưa ra những mục tiêu thông thường và tạo nên những ý nghĩa mới từ đó, không mang nặng bổn phận gì với quá khứ. Hơn nữa, tôi cũng thích tiếng ngựa phi nước đại. Buổi sáng, trước các vòng đua, tôi đi dạo ở khu chuồng ngựa, hít hà hương thơm của cỏ khô, xà bông và da yên ngựa.

Có một phần trong tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ vẫn tồn tại ở nơi ta đã rời đi. Ở đường đua tại New York này, tôi thích nhìn những chú ngựa phi tới gần. Hai bên hông chúng xanh bóng lên như cánh côn trùng. Bờm bạt gió ép ra sau. Với tôi chúng giống như Missouri. Chúng có mùi của quê nhà, của những cánh đồng, những bờ sông.

Rồi có một anh chàng tay cầm bàn chải lông ngựa quanh quẩn gần đó. Anh ta cao, da đen, dáng thanh nhã. Anh ta mặc quần yếm. Nụ cười của anh ta thật rộng và trắng bóng.

Cuộc hôn nhân thứ hai và cũng là cuối cùng của tôi đã bỏ lại tôi trên tầng mười một khu chung cư ổ chuột tại Bronx với ba đứa con trai - và tôi cho là, ở một phương diện nào đấy, hai đứa bé gái đó nữa.

Đôi khi phải leo lên một tầng rất cao mới thấy được quá khứ đã làm gì với hiện tại.