- XXXVII -
TÔI VẪN SỐNG TƯƠNG ĐỐI VUI VẺ vào cái ngày người chồng thứ hai của tôi nhận thấy anh ta chỉ là phiên bản trẻ trung hơn của con tàu đang đi vào quên lãng mà mình cầm lái. Dù sao thì cái mũ anh ta đội cũng luôn quá rộng so với cái đầu. Thế là anh cứ thế đi, bỏ mặc tôi với ba đứa con trai lại Deegan. Tôi chẳng bận tâm. Ý nghĩ cuối cùng của tôi về anh ta là không có ai đáng phải ra đi cô đơn đến như vậy. Nhưng tôi không đến nỗi quá đau buồn khi phải khép cửa nhìn anh ta đi, mà cũng không thấy quá tổn thương khi tháng tháng vẫn nhận tờ séc.
Khu Bronx mùa hè quá nóng mà mùa đông thì quá lạnh. Lũ con tôi đội mũ nâu có vành che tai. Trời ấm lên thì chúng ném mũ đi phô đầu tóc trần vừa quăn vừa rậm chính hiệu da đen. Chúng giấu được cả bút chì trong mớ tóc đó. Chúng tôi đã có những tháng ngày thật vui vẻ. Tôi nhớ có một chiều hè nọ, mấy mẹ con tới Foodland, đùa đuổi nhau dọc các quầy đựng đồ ăn đông lạnh cùng cái xe đẩy hàng, hưởng hơi mát phả vào người.
Chuyện ở Việt Nam mới thực sự khiến tôi ngã quỵ. Cuộc chiến ấy cứ thế bước vào và cướp đi mất cả ba đứa con ngay trước mắt tôi. Chừng như nó nhấc bổng chúng ra khỏi giường, giũ chăn rơi xuống, rồi nói, Những chàng trai này là của ta.
Có lần tôi hỏi Clarence sao nó tham chiến, nó cũng nói đôi điều về quyền tự do gì đó, nhưng chủ yếu nó muốn đổi không khí cho đỡ nhàm tẻ. Brandon và Jason cũng nói thế khi thẻ quân dịch của chúng được thả vào hộp thư nhà chúng tôi. Đó là loại thư tín duy nhất không bị đánh cắp ở khu nhà này. Người đưa thư quảy cái túi khổng lồ chứa đầy ảm đạm đó đi mọi nơi. Hồi đó chỗ nào trong khu nhà tôi ở cũng có thuốc phiện. Tôi nghĩ có lẽ lũ con tôi nói đúng, chúng đang tự giải thoát mình. Tôi đã chứng kiến vô số những đứa trẻ rũ xuống trong xó xỉnh với kim tiêm trong cánh tay, những cái thìa nhỏ thò ra ngoài túi áo.
Tôi chỉ còn biết mở cửa sổ tiễn chúng tung cánh và chúc chúng thỏa nguyện. Rồi chúng bay đi. Không đứa nào trở lại.
Mỗi khi có một cành nhánh của tôi trưởng thành, cơn gió ấy lại thổi đến và bẻ gãy nó.
Tôi ngồi trên ghế trong phòng khách, xem phim truyền hình dài kỳ buổi chiều. Liên tục ăn. Tôi nhớ khi đó chỉ biết làm có vậy. Tôi nhét vào miệng bất cứ cái gì có thể. Một mình. Xung quanh ngổn ngang những gói phô mai Velveeta và bánh mặn, tôi cố dằn lòng đừng nhớ gì hết, hết chuyển kênh rồi lại quay sang ăn bánh quy giòn kèm phó mát, cốt để kỷ niệm không tìm đến. Tôi quan sát mắt cá chân mình dần dần phù ra. Người đàn bà nào cũng có nỗi khổ riêng, và tôi cho là nỗi niềm của mình cũng không bất hạnh gì hơn họ.
Rốt cuộc thì mọi thứ cũng dịu đi dưới âm nhạc. Cách duy nhất cứu giúp tôi khi ấy là nghe nhạc thật to. Năm tháng tích tụ lại trong mỗi âm thanh. Chiều Chủ Nhật nào tôi cũng nghe đài, nhận được đồng phụ cấp tử tuất nào từ chính phủ là tôi tiêu hết vào những tấm vé nghe nhạc ở nhà hát Metropolitan. Tôi thích căn phòng ngập trong âm thanh. Tiếng nhạc trào cả ra khu Bronx. Có lúc tôi bật đài to đến nỗi hàng xóm phải phàn nàn. Tôi bèn mua tai nghe. Loại lớn chụp kín cả nửa đầu. Tôi thậm chí chẳng buồn soi gương xem nó thế nào. Nhưng cảm thấy được liều thuốc ở trong đó.
Và buổi chiều đó nữa, tôi ngồi trong phòng khách nhà Claire và để tiếng nhạc trôi bồng bềnh quanh người: không phải opera, mà là tấu khúc piano, nhưng nó đem đến một cảm giác dễ chịu rất khác, nó khiến tôi rùng cả mình.
Chúng tôi cứ thế nghe liền ba hay bốn đĩa gì đó. Chiều đã tàn hoặc đêm bắt đầu buông, tôi cũng không rõ nữa, khi tôi mở mắt ra thì đã thấy một cái chăn mỏng đắp trên gối mình. Chị ấy ngồi tựa vào đi-văng ở đằng sau, cốc rượu chạm hờ hững trên môi.
— Em biết chị thích làm gì không? - Claire hỏi.
— Gì vậy?
— Chị thích hút một điếu, ngay ở đây, ngay lúc này, trong căn phòng này.
Chị ấy lần sờ trên bàn tìm bao thuốc.
— Anh nhà chị không thích chị hút thuốc trong nhà.
Chị ấy moi lấy một điếu. Chị ấy đặt ngược điếu thuốc lên miệng và lúc đó tôi đã thoáng nghĩ chị ấy sẽ cứ thế mà châm lửa, nhưng chị ấy bật cười và xoay điếu thuốc lại. Những que diêm ẩm tắt rụi khi vừa quẹt.
Tôi nhỏm dậy lấy một hộp diêm khác trên bàn. Chị ấy chạm vào tay tôi.
— Chị thấy hơi chếnh choáng rồi, - chị ấy nói, nhưng giọng còn dễ nghe lắm.
Ngay lúc đó tôi tự nhiên có cảm giác kinh hoàng, biết đâu chị ấy sẽ ngả người qua hôn tôi, hoặc dựa dẫm đụng chạm gì đó, kiểu tình huống hay đọc trên tạp chí. Đôi khi chúng ta tự đánh mất mình. Tôi cảm thấy trống rỗng tận bên trong, dường như có cơn ớn lạnh luồn qua cơ thể tôi, không kém cơn gió buốt ngoài đường kia, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra - chị ấy lại ngồi ngả ra đi-văng mà nhả khói thuốc lên trần nhà, để tiếng nhạc dội khắp người chúng tôi.
Một lát sau chị ấy dọn bàn ăn cho ba người và hâm nóng lại cái bánh gà. Chuông điện thoại reo mấy hồi nhưng chị ấy không nhấc máy: Chắc anh ấy lại về muộn, chị ấy nói.
Chuông reo đến hồi thứ năm thì chị ấy nhấc điện thoại. Tôi nghe thấy giọng đàn ông nhưng không rõ ông ta đang nói gì. Chị ấy áp ống nghe sát quá, tôi chỉ nghe thấy chị thì thầm đâu như “Anh yêu” và “Solly” và “Em yêu anh”, nhưng cuộc chuyện trò diễn ra chóng vánh, như thể chị ấy là người duy nhất nói, và tôi có linh cảm kỳ lạ là câu trả lời từ đầu dây bên kia chỉ là sự im lặng.
Ông ấy đang ở nhà hàng yêu thích, chị ấy nói với tôi, liên hoan với phòng công tố quận.
Tôi thấy chẳng ảnh hưởng gì, tôi cũng đâu kỳ vọng ông ấy bước ra khỏi khung ảnh trên tường và thân thiện chào đón tôi, nhưng ánh mắt của Claire trông xa xăm, như mong tôi hỏi han thêm về chồng, nên tôi đã hỏi. Thế là chị ấy bắt đầu kể cả một câu chuyện dài về buổi đi dạo năm xưa, rồi một anh chàng trong chiếc quần vải flanen trắng tiến về phía chị ấy, rằng hóa ra anh là bạn của một nhà thơ nổi tiếng, rồi chuyện họ thường tới Mystic vào cuối tuần ra sao, tới một nhà hàng nhỏ nơi anh ấy thử các loại rượu martini ở đó; chị ấy kể liên hồi, mắt hướng về phía cửa, đợi ông ta trở về.
Tôi thoáng nghĩ hẳn khung cảnh nom lạ thường lắm, nếu giả có ai quan sát chúng tôi từ bên ngoài, thấy chúng tôi ngồi trong căn phòng lờ mờ ánh sáng bên ngoài hắt vào, để những câu chuyện trò giản đơn trôi đi.