← Quay lại trang sách

- XLIII -

Khi họ bước ra khỏi sân bay, anh nói rằng nếu cô không phản đối họ sẽ đi hướng qua cầu Queensboro. Anh sẽ thả cô xuống trước rồi mới đi tới khu trung tâm.

Như vậy là anh ấy biết thành phố này, cô thầm nghĩ. Hẳn là anh ấy đã từng ở đây. Nơi này cũng thuộc về anh ấy. Lại một sự ngạc nhiên khác. Cô luôn nghĩ rằng một trong những vẻ đẹp của New York chính là ở chỗ người ta có thể đến từ bất cứ nơi nào nhưng chỉ cần đặt chân tới đây thôi thì nó trở thành của ta.

Sabine Pass và Johnson’s Bayou, Beauregard và Vermilion, Acadia và New Iberia, Merryville và DeRidder, Thibodaux và Port Bolivar, Napoleonville và Slaughter, Point Cadet và Casino Row, Moss Point và Pass Christian, Escambia và Walton, Diamondhead và Jones Mill, Americus, America.

Những cái tên trong tâm trí cô, ngập tràn.

*

Bên ngoài trời đang mưa. Anh đứng dưới một gờ tường hẹp nhô ra, móc ra một bao thuốc từ túi áo trong. Anh gõ vào bao thuốc, lắc ra một điếu mời cô. Cô lắc đầu từ chối. Xưa cô có hút nhưng giờ thì đã thôi hẳn, một thói quen xấu từ những ngày còn ở Yale; cả trong rạp hát hầu hết mọi người đều hút thuốc.

Nhưng cô thích hành động rít thuốc rồi nhả khói về phía cô của anh, khói thuốc sẽ đậu lại trên tóc cô, rồi sau đó cô sẽ được sở hữu cái hương vị ấy.

*

Chiếc taxi lướt qua màn mưa. Dư âm còn lại của cơn bão đang thở hắt xuống thành phố, một cái cúi đầu kiệt sức, đợt trút nước cuối cùng. Anh đưa cho cô tấm danh thiếp trước khi taxi tấp vào mái hiên ở đại lộ Park. Anh đã viết vội tên và số di động của anh lên phía sau nó.

— Thật tuyệt, - anh nói khi ngắm nhìn đường phố.

Anh giúp cô lấy chiếc túi nhỏ ra khỏi cốp xe, nghiêng người qua và hôn lên hai má cô. Cô khẽ mỉm cười khi thấy anh đang trong tư thế một chân ghếch trên lề đường, một chân để dưới.

Anh dò dẫm trong túi tìm thứ gì đó. Cô quay đi và rồi bỗng nghe thấy một tiếng tách. Anh đã chụp một bức hình của cô bằng điện thoại di động. Cô bối rối không biết phải phản ứng ra sao. Xóa nó đi, lưu nó lại, hay đặt nó làm hình nền cho điện thoại của anh? Cô nghĩ về mình trong đó, đã biến thành vô vàn điểm ảnh, cùng với các con anh, được mang đi khắp nơi trong túi áo của anh, tới câu lạc bộ jazz, tới phòng khám của anh, về nhà anh.

Trước giờ cô chưa từng hành động thế này với một người đàn ông, nhưng giờ cô cũng lấy ra danh thiếp của mình và đút nó vào trong túi áo sơ-mi của anh, còn vỗ nhẹ cho nó lọt vào sâu. Cô cảm thấy khuôn mặt mình lại đang căng ra. Quá trơ tráo. Quá mời chào. Quá dễ dãi.

Hồi mới lớn, chuyện đó đã từng khiến cô day dứt không yên, chuyện mẹ và bà cô là gái bán thân. Cô đã nghĩ một ngày nào đó cái bản chất ấy rồi sẽ trỗi dậy trong cô, cô sẽ chìm ngập trong biển tình. Rằng chuyện đó thật bẩn thỉu. Rằng bạn bè rồi sẽ phát hiện ra. Hay tệ hơn, cô có thể sẽ đòi một anh chàng trả tiền cho chuyện đó. Cô là người cuối cùng trong đám bạn ở trường cấp ba chịu hôn con trai: một người bạn ở trường từng gọi cô là nữ hoàng Châu Phi Khó tính. Nụ hôn đầu của cô diễn ra ngay sau lớp khoa học, trước giờ vào tiết nghiên cứu xã hội. Anh chàng đó có khuôn mặt rộng và đôi mắt đen. Anh ôm cô ngay bên cửa, một chân anh đặt trên khung cửa. Chỉ tiếng gõ cửa không ngớt của một giáo viên mới tách được họ ra. Hôm đó cô đi về nhà cùng anh chàng đó, tay trong tay, qua những cái cây của Poughkeepsie. Gloria nhìn thấy cô từ mái hiên ngôi nhà nhỏ của họ và bà đã mỉm cười xúc động. Cô và anh chàng đó duy trì mối quan hệ suốt thời đại học. Cô thậm chí còn dự tính sẽ kết hôn với anh ta, nhưng rồi anh ta tới Chicago để nhận một công việc mảng kinh doanh. Cô đã trở về nhà với Gloria, khóc suốt một ngày ròng.

Sau đó, Gloria đã nói với cô rằng yêu sự yên lặng là cần thiết, nhưng muốn làm được thế thì trước hết phải gây ra chút ồn ào đã.

— Anh sẽ gọi cho em chứ? - cô hỏi anh.

— Anh sẽ gọi em, hẳn rồi.

— Thật không? - cô hỏi lại với cái nhíu mày.

— Tất nhiên rồi, - anh đáp.

Anh ưỡn vai ra một cách khôi hài. Cô nhảy giật lùi về phía sau như trong phim hoạt hình, hai cánh tay cô dang rộng, lật bật. Cô cũng không hiểu vì sao mình làm thế, nhưng trong khoảnh khắc ấy cô chẳng buồn bận tâm - như có luồng điện trong đó, nó khiến cô bật cười.

Anh bước tới hôn cô một lần nữa, lần này là lên môi, nhanh và khéo. Cô thoáng mong những bạn đồng nghiệp có ở đây, để họ nhìn thấy cô nói lời chào tạm biệt một anh chàng người Ý, một bác sĩ, tại đại lộ Park, trong bóng đêm, trong giá lạnh, trong mưa, trong gió, trong đêm. Như là có chiếc máy quay bí mật phát đi hình ảnh này tới toàn bộ các văn phòng của Little Rock, mọi người ngẩng mặt lên từ những mẫu thuế làm dở để chứng kiến cô vẫy chào tạm biệt, để thấy anh ấy quay người lại từ ghế sau của chiếc taxi, cánh tay giơ cao, bóng đổ lên khuôn mặt anh, một nụ cười.

Cô nghe thấy tiếng rít của những lốp xe khi chiếc taxi lao đi. Rồi cô khum lòng bàn tay chìa ra ngoài mái hiên, hứng lấy những hạt mưa, vuốt lên tóc.

*

Người gác cổng mỉm cười, dù đã bao nhiêu năm cô chưa gặp lại ông. Một người đàn ông của xứ Wales. Ông ấy thường hát vào các ngày Chủ Nhật khi cô, Gloria, và em gái cô tới chơi. Cô không nhớ rõ tên ông. Ria mép ông giờ đã ngả bạc.

— Cô Jaslyn! Lâu ngày quá.

Và rồi cô nhớ ra: Melvyn. Ông ấy tranh cầm lấy cái túi nhỏ giúp cô và trong thoáng chốc cô chợt nghĩ chắc ông ấy sẽ nói là cô lớn nhanh quá. Nhưng tất cả những gì ông nói, một cách đầy biết ơn, chỉ là: Họ để tôi trực ca đêm.

Cô cũng không biết mình có nên hôn má ông hay không nữa - buổi tối của những nụ hôn chăng - nhưng ông đã giải quyết tình huống khó xử ấy bằng cách quay đi.

— Melvyn, - cô nói, - bác chẳng khác xưa chút nào.

Ông vỗ vỗ bụng, mỉm cười. Cô dè chừng nhìn thang máy, cô thích đi thang bộ hơn, nhưng một cậu thiếu niên đã đứng sẵn ở đó với chiếc mũ và đôi găng tay trắng.

— Mời bà, - cậu bé trực thang máy nói.

— Cô ở lại lâu không, cô Jaslyn? - Melvyn hỏi, nhưng cánh cửa thang máy đã khép.

Cô mỉm cười với ông từ bên trong.

— Tôi sẽ gọi cho bà Soderberg, - ông nói với qua tấm lưới sắt, - để báo cô đã đến.

Cậu bé trực thang máy nhìn thẳng về phía trước. Cậu ta chỉ quan tâm đến Otis[78]. Cậu chẳng buồn bắt chuyện với cô, đầu cậu khẽ gật gù như đang đếm nhịp. Cô có cảm giác mười năm nữa cậu vẫn ở đây, thậm chí là hai mươi, ba mươi năm. Cô những muốn bước lại gần và nói thầm vào tai cậu rằng Nhóc dễ thương quá, nhưng rốt cuộc cô lại nhìn ô cửa và những vòng sáng nhỏ báo tầng dịch dần lên.

Cậu ta kéo cái đòn bẩy, ngắm cho thang và sàn bằng phẳng tuyệt đối. Cậu ta còn di một chân ra ngoài để thử lại cho chắc ăn. Thật là một anh chàng chính xác.

— Thưa bà, - cậu lễ phép. - Cửa đầu tiên bên tay phải bà.

*

Ra mở cửa là một y tá nam cao lớn người Jamaica. Hai bên thoáng bối rối trong giây lát, lẽ ra họ đã nghe nói về nhau mới phải. Mấy trao đổi nhanh chóng. Tôi là cháu gái bà Soderberg. Ồ, tôi biết rồi, cô vào đi. Không phải cháu gái ruột, nhưng bà coi tôi như cháu. Mời vào đi ạ. Tôi đã gọi đến từ trước. Phải rồi, phải rồi, giờ bà ấy đang ngủ. Cô vào trong đi ạ. Bà ấy thế nào rồi? Khỏe... ông ta đáp.

Từ khỏe được kéo dài ra, ngập ngừng, không phải một lời khẳng định - Claire không hề khỏe; bà đang ở tận đáy sâu một cái giếng tối om.

Jaslyn nghe thấy những tiếng khác vọng ra: tiếng radio chăng?

Căn hộ như bọc trong món thịt đông. Khi xưa nó khiến hai chị em cô sợ phát khiếp mỗi lần vào thành phố cùng Gloria; lối hành lang u ám, tranh vẽ, mùi đồ gỗ cũ kỹ. Cô và chị gái phải nắm chặt tay nhau khi bước dọc hành lang. ghê nhất là bức chân dung của một người đàn ông đã chết treo ở trên tường. Bức tranh đã được vẽ theo cách nào đó mà đôi mắt của ông ta dường như luôn dõi theo chị em cô. Claire lúc nào cũng nói về ông ta, nào là Solomon từng thích cái này, nào là Solomon từng thích cái kia. Bà đã bán một vài bức tranh khác - thậm chí cả bức Miró, để trang trải cuộc sống - nhưng bức chân dung Solomon thì vẫn luôn ở đó.

Người y tá cầm lấy chiếc túi của cô và đặt nó dựa vào giá treo mũ ở góc.

— Mời cô, - ông ta nói, ra hiệu cho cô về phía phòng khách.

Cô choáng váng khi nhìn thấy sáu người, hầu hết đều trạc tuổi cô, ngồi quanh bàn và trên ghế sofa. Họ đều ăn mặc bình thường nhưng đang nhấm nháp những ly cocktail. Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực. Họ còn hơn cả sững sờ khi nhìn thấy cô. Ồ, ồ. Những cháu gái, cháu trai, họ hàng thực thụ đây chăng? Giai điệu nối dài của Solomon. Ông ấy đã mất được mười bốn năm nhưng cô vẫn nhìn ra ông trong nét mặt họ. Có một người cô dám chắc là cháu gái của Claire, tóc điểm vệt hoa râm.

Họ nhìn cô chằm chằm. Không khí quanh cô đặc như băng đá. Cô ước gì mình nhờ Pino lên cùng để anh ấy giúp cô làm chủ tình huống một cách bình tĩnh, trôi chảy, hoặc ít ra là giúp phân tán bớt sự chú ý. Cô như vẫn còn cảm nhận được nụ hôn trên môi. Cô chạm những ngón tay lên môi, như có thể giữ lại ký ức về nó mãi ở đó.

— Xin chào, tôi là Jaslyn, - cô giới thiệu và vẫy tay chào.

Một cái vẫy tay ngớ ngẩn làm sao. Cứ làm như tổng thống không bằng.

— Chào, - một phụ nữ tóc đen dáng cao ráo đáp lại.

Cô cảm thấy như mình bị đóng đinh xuống sàn nhà, nhưng một trong những người cháu trai đã bước tới. Anh ta toát lên vẻ thư sinh trẻ con, khuôn mặt mũm mĩm, áo sơ-mi trắng, áo khoác ngoài màu xanh da trời, thêm chiếc khăn tay đỏ thòi ra từ túi ngực.

— Tom, - anh ta tự giới thiệu. - Rất vui khi cuối cùng cũng được gặp cô, Jaslyn.

Anh ta thốt ra tên cô như là một thứ gì đó mà anh ta muốn phủi ra khỏi chiếc giày của mình, từ cuối cùng kéo dài ra trong sự quở trách. Như vậy là anh ta biết cô. Anh ta đã được nghe kể về cô. Có lẽ anh ta nghĩ cô đến đây để đào mỏ. Thì cứ vậy đi. Một kẻ đào vàng. Thật ra cô chẳng buồn quan tâm tới di chúc; nếu quả cô có nhận được cái gì đó thì cô cũng sẽ cho đi.

— Cô uống gì nhé?

— Cứ mặc tôi, cảm ơn.

— Chúng tôi biết dì tôi sẽ không muốn chúng tôi hưởng thụ tí đỉnh dù là trong những thời điểm tồi tệ nhất mà. - Anh ta hạ thấp giọng: - Chúng tôi đang làm món cocktail Manhattan đấy.

— Bà ấy thế nào rồi?

— Bà đang ngủ.

— Đã muộn rồi... tôi thật sự xin lỗi.

— Cũng có soda nữa đấy, nếu cô thích.

— Bà ấy...?

Cô nghẹn nói không hết lời. Lời nói còn treo lơ lửng giữa cô và Tom.

— Bà không được khỏe, - anh ta đáp.

Lại cái từ ấy. Tiếng vọng trống rỗng dội xuống sàn nhà. Không bắn tung tóe. Chỉ liên miên đổ xuống. Khỏe khỏe.

Cô không thích họ uống rượu như thế, nhưng rồi cô hiểu mình nên hòa đồng với họ, không nên tách biệt làm gì. Đưa Pino trở lại đây, để chút duyên dáng của anh len vào giữa họ, để anh cuốn lấy cô vào buổi tối trong vòng tay ấy, để cô nép mình vào chiếc áo da của anh.

— Có lẽ cho tôi xin một ly, - cô nói.

— Vậy, - Tom nói, - chính xác là điều gì đưa cô đến đây thế?

— Anh hỏi sao?

— Ý tôi là, chính xác là cô đang làm gì? Không phải cô đang làm cho Đảng Dân chủ hay gì gì đó hay sao?

Cô nghe thấy những tiếng cười rúc rích vang lên khắp phòng. Họ quay về nhìn cô, tất cả bọn họ, săm soi nhìn ngó, như kiểu à, rốt cuộc nhân vật này cũng chịu lộ diện rồi đây.

Cô quý những ai bền bỉ kiên trì chịu đựng kiếp đời khổ nhọc, những người biết rằng nỗi đau là một thủ tục cuộc đời chứ không phải một tai ương. Họ dàn xếp cuộc đời họ ngay trước mặt cô, một vài tờ giấy, một cuống phiếu lương, một ngân phiếu trợ cấp, tất cả - những gì họ để lại. Cô cộng dồn những con số. Cô biết hết những khoản có thể khấu trừ thuế, những kẽ hở, đường ngang lối tắt, những cuộc điện thoại buộc phải gọi. Cô cố gắng làm vô hiệu khoản tiền phải trả góp cho ngôi nhà đã bị cuốn trôi ra biển. Cô tìm mọi cách đòi cho được tiền bảo hiểm cho những chiếc xe đã nằm dưới đáy sông. Cô cố ngăn chặn những hóa đơn đòi thanh toán cho những chiếc quan tài bé nhỏ sơn trắng.

Cô từng thấy những thành viên khác trong tổ chức Little Rock mới thoạt gặp đã khiến được những người này mở lòng mở dạ ngay, nhưng cô chưa từng làm được như vậy. Lúc đầu họ thường tỏ ra gượng gạo, nhưng rồi cô dần học được cách lắng nghe. Và chỉ sau độ nửa giờ đồng hồ là cô có thể chuyện trò cởi mở với họ.

Có cảm giác như họ đang tự nói chuyện với chính mình, còn cô chỉ là tấm gương đặt trước mặt họ, ánh chiếu vào họ một khía cạnh khác của đoạn đời đã qua.

Cô bị cuốn hút bởi hoàn cảnh tối tăm của những người cô trợ giúp, nhưng điều cô thích lại chính cái khoảnh khắc khi họ nhìn lại và bàng hoàng nhận ra thêm một một ý nghĩa nào đó từ chuyện cũ: Thật ra tôi thật lòng yêu cô ấy. Tôi đã cởi tuột áo sơ-mi của anh ấy trước khi anh ấy bị cuốn vào miệng cống xả. Khi xưa nhà tôi tính mua cái lò sưởi theo dạng đặt cọc giữ hàng trả góp.

Rồi trước khi họ kịp nhận ra, các khoản thuế đã được thu xếp ổn thỏa, đơn yêu cầu bảo hiểm đã có, thông báo gửi công ty cho mua nhà thế chấp đã thảo xong, tất cả giấy tờ được đẩy qua bàn chỉ chờ họ ký. Đôi lúc họ lần chần khá lâu ở khâu cuối này, bởi lẽ họ hãy còn điều muốn nói - họ chìm hẳn vào câu chuyện lan man về chiếc xe hơi đã mua, hay về những người thân yêu. Họ có nhu cầu mãnh liệt là phải nói ra, phải kể lại, cho dù câu chuyện của bản thân có nhỏ nhoi vụn vặt đến thế nào.

Lắng nghe những người này giống như lắng nghe những cái cây - sớm muộn gì cũng bị đốn phanh ra, phơi bày những vân vi nói lên tuổi tác của nó.

*

Cách đây chín tháng cô tiếp có một bà lão, bà ngồi trong phòng khách sạn ở Little Rock, chiếc váy trải rộng trên ghế. Jaslyn đang cố tính toán những khoản tiền mà bà đã không được nhận từ quỹ lương hưu.

— Con trai tôi là một người đưa thư, - bà kể. - Làm ngay phố số Chín đây. Nó ngoan lắm. Hai mươi hai tuổi. Có phải tăng ca cũng sẵn lòng. Nó làm việc ra trò đấy, tôi không nói dối đâu. Mọi người rất thích nhận được những lá thư nó phát. Họ chờ đợi nó. Họ thích nó tới gõ cửa nhà họ. Cô vẫn nghe đấy chứ?

— Vâng, thưa bà.

— Và rồi cơn bão ập đến. Và nó đã không trở lại. Tôi vẫn đợi nó. Bữa tối xong xuôi cả rồi. Hồi đó tôi sống trên tầng ba. Cứ thế đợi. Nhưng chẳng có tin gì. Nên tôi cứ đợi, đợi mãi. Hai ngày sau tôi ra ngoài tìm nó, tự lần xuống thang. Bên ngoài đám trực thăng bay khắp phố, chẳng để ý gì tới chúng tôi. Tôi bì bõm lội vào phố, nước ngập tới cổ, suýt chìm nghỉm. Chẳng có dấu vết gì hết, không gì cả, tới khi tôi lội xuống gần một quầy dịch vụ tiền mặt thì thấy một bọc đựng thư nổi lềnh phềnh, thế là tôi kéo nó vào trong. Khi đó tôi nghĩ thầm, tạ Chúa lòng lành.

Những ngón tay của người phụ nữ quắp chặt lại, siết lấy bàn tay Jaslyn.

— Khi đó tôi cứ chắc mẩm là thằng bé hãy còn sống, đang ở ngay sau khúc quanh kia thôi. Thế là tôi cứ kiếm tìm và kiếm tìm mãi. Nhưng chẳng bao giờ tôi được gặp lại con trai nữa. Tôi ước gì khi đó mình chết đuối trên phố luôn cho rảnh. Mãi hai tuần sau tôi mới biết là nó bị mắc lại tít trên ngọn cây, quắt queo cả vì cái nóng. Vẫn trong bộ đồng phục người đưa thư của nó. Cô có tưởng tượng được không, bị mắc kẹt trên cây.

Người phụ nữ đứng dậy, bước ngang phòng tới bên cái tủ quần áo rẻ tiền, giật mạnh ngăn kéo.

— Tôi vẫn giữ bọc thư của nó đây, cô thấy không? Cô có muốn thì cứ cầm.

Jaslyn cầm bọc đựng thư trên tay. Không một bì thư nào được mở ra.

— Làm ơn hãy mang nó đi, - bà khẩn nài. -Tôi chẳng thể chịu đựng thêm được nữa.