← Quay lại trang sách

- XLIV -

Cô cầm bọc đựng thư bước ra ngoài tới bên hồ gần Natural Steps thuộc ngoại ô Little Rock. Trong ánh nắng cuối ngày, cô bước dọc bờ sông, giày lún trong đất sét. Đám chim chóc bay lên từng cặp, háo hức bay liệng, ấp ủ ánh mặt trời đỏ ối dưới những đôi cánh. Cô không biết phải làm gì với bọc đựng thư. Cô ngồi xuống thảm cỏ và phân loại đâu ra đó: tạp chí, tờ bướm quảng cáo, thư cá nhân được gửi đi với lời nhắn: Cái này đã bị thất lạc một thời gian trước. Tôi hy vọng giờ có thể gửi lại.

Còn những hóa đơn thì cô đốt sạch. Từ công ty viễn thông Verizon. Sở điện lực. Sở thuế vụ. Nỗi đau buồn ấy giờ không còn cần thiết nữa, không hề nữa.

*

Cô đứng bên cửa sổ, bóng tối buông xuống. Trong phòng có tiếng nói chuyện rì rào không ngớt. Cô nhớ đến những tiếng đập cánh của bầy chim trắng. Ly cocktail trên tay sao mà mong manh. Ngỡ như nếu cầm nó quá chặt là nó sẽ vỡ tan, cô thầm nghĩ.

Ban đầu cô dự định sẽ ở lại với Claire một hai ngày. Ngủ ở phòng dư dành cho khách. Ở bên bà khi bà mất, như bà đã làm thế với mẹ Gloria sáu năm trước. Một hành trình chậm rãi trở về Missouri. Nụ cười trên khuôn mặt mẹ Gloria. Chị gái cô, Janice, ngồi ở ghế trước lái xe. Những trò chơi với gương chiếu hậu. Rồi hai chị em cô cùng đẩy Gloria trên chiếc xe lăn đi dọc bờ sông. Trên con sông lười biếng nơi bài ca của chú chim oanh đánh thức buổi ban mai tinh khôi trong lúc chúng ta cùng nhau đi tới. Hôm ấy thực như một lễ mừng. Họ nhúng ngập chân vào trong hạnh phúc và không hề có ý rời đi. Họ ném những que củi vào chỗ nước xoáy và nhìn chúng quay tròn. Rồi trải tấm vải ra, cùng nhau ăn bánh sandwich hiệu Wonder Bread. Nhưng đến buổi chiều, chị gái cô bắt đầu khóc, cũng bỗng dưng như tiết trời thay đổi, dù chẳng có lý do nào khác trừ tiếng nổ bốp của nắp chai rượu. Jaslyn đưa cho chị một tờ giấy ăn dúm cả lại vì ẩm. Gloria bật cười cả hai chị em, nói bà đã vượt qua được nỗi đau buồn từ lâu lắm rồi, và đã phát chán trước chuyện ai cũng muốn lên thiên đường nhưng lại không ai muốn chết cả. Điều đáng buồn duy nhất, bà nói, là đôi lúc cuộc sống này chất chứa nhiều điều đẹp đẽ hơn sức chứa của cõi thế.

Gloria đã ra đi với nụ cười trên mặt. Họ vuốt mắt bà khi ánh nắng còn đậu trên đó, rồi họ đẩy chiếc xe lăn lên đồi, đứng trên đó nhìn khắp xung quanh cho tới khi lũ côn trùng buổi đêm kéo đến.

Hai ngày sau họ chôn cất bà trong khoảnh đất nhỏ gần sân sau ngôi nhà cũ của bà. Đã có lần bà nói với Jaslyn rằng tất cả ai cũng sẽ ý thức được họ từ đâu đến một khi đã nghĩ ra nơi họ muốn được chôn cất. Một lễ an táng êm ả, chỉ có hai chị em gái và thầy nói lễ. Họ đưa Gloria về đất cùng với một tấm biển sơn tay đã cũ của bố bà và chiếc hộp khâu vá do mẹ bà để lại mà lúc sinh thời bà luôn giữ gìn. Bà đã ra đi một cách tốt đẹp, nếu quả có cách ra đi nào được cho là tốt đẹp trên đời.

Đúng vậy, cô nghĩ, cô cũng muốn ở bên Claire, cùng trải với bà đôi chút thời gian, cảm nhận cái tĩnh lặng, để thời gian lê bước. Cô thậm chí đã mang theo bộ đồ ngủ, kem đánh răng, rồi lược. Nhưng rõ ràng là ở đây cô không được chào đón.

Cô đã quên mất rằng còn có những người khác nữa, rằng một cuộc đời được sống với nhiều khía cạnh khác nhau - có biết bao những bì thư chưa được mở.

— Tôi gặp bà được không?

— Tôi nghĩ không nên quấy rầy bà thì hơn.

— Tôi chỉ ló đầu vào chút thôi.

— Cũng đã muộn rồi. Bà ấy đã ngủ. Cô có muốn ly nữa không cô...?

Anh ta lên giọng ở cuối câu mời dở dang, như thể đang lục tìm tên cô trong óc. Nhưng anh ta biết tên cô rồi cơ mà. Thật ngớ ngẩn. Thật là một gã ngốc thô kệch. Anh ta những muốn độc chiếm nỗi buồn và sẵn dịp tiệc tùng đây mà.

— Jaslyn, - cô cười nhạt.

— Thêm ly nữa nhé, cô Jaslyn?

— Cảm ơn, tôi đủ rồi, cô đáp, tôi đã đặt phòng ở Regis.

— Regis à, tuyệt quá nhỉ.

Đó là khách sạn ngon lành nhất mà cô nghĩ ra, nơi đắt nhất. Cô thậm chí còn chẳng biết nó ở đâu, hẳn là gần đây thôi, nhưng cái tên đã Tom đổi hẳn nét mặt - anh ta mỉm cười để lộ hết hàm răng trắng bóng.

Cô bọc tấm giấy ăn quanh đáy ly, đặt nó xuống bàn kính.

— Thôi, đến lúc tôi phải nói lời tạm biệt rồi. Thật hân hạnh.

— Mời cô, tôi sẽ đưa cô xuống.

— Tôi đi một mình được, thật đấy.

— Không, không. Nhất định phải tiễn chứ.

Anh ta chạm vào khuỷu tay cô khiến cô co rúm lại. Cô nén lại cái thôi thúc muốn hỏi anh ta xem liệu anh ta đã bao giờ làm chủ tịch ngôi nhà chung của hội nam sinh đại học chưa.

— Thật mà, - cô nhắc lại khi ra tới thang máy, - tôi tự đi được.

Anh ta nghiêng người tới hôn lên má cô. Cô quay người, vai khẽ ẩy vào cằm anh ta.

— Tạm biệt, - cô dứt khoát chốt hạ, vẫn bằng chất giọng ngân nga như hát.

Xuống đến dưới lầu, Melvyn gọi taxi cho cô và thoáng chốc sau cô lại được một mình, như thể suốt buổi tối đã chẳng có việc gì xảy ra. Cô lục lại trong túi tìm tấm danh thiếp của Pino. Lật đi lật lại nó trên tay. Chừng như cô có thể cảm thấy chuông điện thoại đang réo trong túi anh.

*

Phòng đơn ở khách sạn St. Regis có giá bốn trăm hai mươi lăm đô một đêm. Cô nghĩ đến việc cố tìm một khách sạn khác, thậm chí nghĩ cả đến việc gọi điện cho Pino, nhưng rồi quyết định đẩy tấm thẻ tín dụng sang phía tiếp tân. Bàn tay cô run lên: chừng ấy gần bằng một tháng rưỡi tiền thuê nhà ở Little Rock. Cô gái đứng sau quầy hỏi giấy tờ tùy thân của cô. Giờ không đáng để cãi vã, mặc dầu cặp đôi nhận phòng ngay trước cô không hề bị hỏi giấy.

Căn phòng nhỏ nhắn. Chiếc ti vi được treo cao trên tường. Cô bấm điều khiển. Tin bão rớt. Năm nay không có bão lớn. Tỉ số bóng chày, tỉ số bóng đá, thêm sáu người chết ở Iraq.

Cô buông mình xuống giường, đầu gối lên hai cánh tay xếp lại.

Không lâu sau những đợt tấn công vào Afghanistan, cô tới Ireland. Coi như kỳ nghỉ lễ. Chị gái cô thuộc nhóm điều phối các chuyến bay từ Mỹ đáp xuống sân bay Shannon. Ở Galway, lúc rời một tiệm ăn bước ra phố, họ dính vào một vụ bực mình nhỏ. Bọn Mỹ khốn kiếp cút về đi. Dù sao thế vẫn không tệ bằng việc bị gọi là mọi đen, họ vẫn phải nghe thế khi lái xe hơi thuê và nhỡ đỗ bên lề đường không đúng quy định.

Ireland khiến cô kinh ngạc. Cô vốn mường tượng ra những con đường cấp phối, hai bên rợp bóng cây và những dãy hàng rào cao, rồi cánh đàn ông với mái tóc đen nhánh, những túp lều trắng đứng lẻ loi trên đỉnh đồi. Nhưng thay vào đó cô lại thấy những cầu vượt, dốc lên cầu và những màn lên lớp của những gã say rượu mặt phị về ý nghĩa đích thực của chính sách thế giới. Cô thấy co rút vào vỏ, không để lọt tai được gì. Trước nay cô từng được nghe kể chút ít về Corrigan, người đàn ông đã chết bên mẹ cô. Cô muốn biết thêm nhiều hơn nữa. Chị gái cô thì ngược lại - Janice chẳng muốn động chạm gì tới quá khứ. Quá khứ ấy làm chị ấy xấu hổ. Quá khứ ấy như chiếc phản lực đáp xuống mang theo những thi thể từ vùng Trung Đông.

Nên cô đã lái xe tới Dublin một mình. Cô cũng không hiểu tại sao những giọt nước mắt cứ đọng lại trên mi, cô đã phải ép cho chúng chảy xuống để không bị vướng tầm nhìn. Hơi thở của cô trở nên sâu và trầm tĩnh hơn khi những con đường rộng dần ra trước mắt.

Không khó tìm anh trai của Corriagan. Ông là giám đốc điều hành của một công ty kinh doanh dịch vụ internet đặt trụ sở tại một trong những tòa tháp cao ốp kính dọc sông Liffey.

— Hãy đến gặp ta nhé, - ông ấy ngỏ lời mời qua điện thoại như thế.

Dublin là một thành phố vụt phát triển nhanh. Ánh đèn nê-ông giăng dọc bờ sông. Những cánh mòng biển đan dệt. Ông bác Ciaran mới hơn sáu mươi tuổi, vầng trán hói còn doi tóc nhỏ xíu. Giọng pha chất Mỹ, ông kể hãy còn một văn phòng khác đang đặt tại thung lũng Silicon. Trông ông thật hoàn hảo trong bộ com-lê và áo sơ-mi cổ mở đắt tiền. Lông ngực màu xám thập thò. Họ ngồi trong văn phòng của ông và ông kể cho cô nghe về cuộc đời của người em quá cố, Corrigan, một cuộc đời đối với cô thật hiếm có và quyết liệt.

Ngoài cửa sổ, những cần trục vung tay cẩu về phía chân trời. Ở Ireland chừng như ánh ngày chậm tắt. Ông đưa cô qua sông, tới một quán rượu, phải rẽ vào hẻm nhưng đây là một quán rượu đích thực, bên trong toàn là gỗ cứng và hương bia. Một dãy thùng chứa bia bằng bạc đặt bên ngoài. Cô gọi một vại bia Guinness.

— Mẹ cháu yêu chú ấy có phải không?

Ông ấy cười. Ồ, ta không nghĩ vậy, không đâu.

— Bác chắc chứ?

— Ngày hôm đó chú ấy cho mẹ cháu đi nhờ xe về nhà, có thế thôi.

— Cháu hiểu rồi.

— Chú ấy đã yêu một người phụ nữ khác. Đâu như người Nam Mỹ, ta cũng không nhớ lắm, Colombia à, hay Nicaragua nhỉ.

— Ồ.

Cô nhận ra mình cần biết rằng mẹ từng yêu thương ai đó, ít nhất một lần trong đời.

— Thật tiếc, - cô nói, mắt rơm rớm nước.

Cô lấy tay áo lau mắt. Cô ghét cảnh khóc lóc, lúc nào cũng thế. Thật phô trương và ủy mị, cô không mong mình sẽ phản ứng như thế.

Bác Ciaran không biết phải làm gì với cô. Ông bước ra ngoài gọi điện cho vợ. Jaslyn ngồi lại và uống thêm một cốc bia nữa, cảm thấy ấm lòng nhưng bắt đầu choáng váng. Có lẽ Corrigan khi đó yêu thầm mẹ, có lẽ họ đang trên đường tới điểm hẹn, có lẽ họ đã cảm nhận được một tình yêu sâu sắc vào thời khắc cuối cùng. Cô chợt nghĩ nếu mẹ còn sống thì giờ bà cũng chỉ bốn lăm, bốn sáu tuổi thôi. Hai mẹ con có thể thân thiết như bạn. Có thể tâm sự chuyện này, có thể cùng ngồi với nhau trong quán rượu, giết chút thời gian, cùng uống chung một cốc bia. Nói nghe thật nực cười, quả vậy. Làm sao mẹ cô có thể lết ra khỏi cuộc sống ấy và bắt đầu lại? Làm sao bà có thể thoát ra nguyên vẹn? Bằng những gì chứ? Chổi quét hay ki hốt rác? Nào, con yêu, vơ lấy đôi giày cao gót của mẹ, bỏ chúng vào xe đi, chúng ta cùng đi về phía tây. Thật ngớ ngẩn, cô biết. Mà vẫn. Chỉ một đêm thôi. Ngồi với mẹ và ngắm nhìn bà sơn móng tay, có lẽ, hoặc xem bà rót café vào cốc, hoặc nhìn bà đá giày ra khỏi chân, một khoảnh khắc của đời thường. Tắm giặt. Ngâm nga một giai điệu. Cắt bánh mì nướng. Bất kỳ điều gì. Trên con sông lười biếng, chúng ta có thể hạnh phúc biết bao.

Ciaran trở lại quán rượu và nói với cô bằng giọng Mỹ rành mạch: “Đoán xem ai sẽ tới ăn tối cùng cả nhà nào?”

Ông lái chiếc Audi màu bạc mới tinh. Ngôi nhà hướng ra biển, quét vôi trắng, có hoa hồng ở đằng trước và một hàng rào bằng thép sẫm màu. Đó chính là nơi anh em ông đã lớn lên. Ông đã bán đi và phải mua lại với giá hơn một triệu đô.

— Cháu có tin được không? - ông xuýt xoa. - Một triệu có dư cơ đấy.

Vợ ông, bà Lara, đang bận trong vườn, cắt tỉa những cành hồng bằng chiếc kéo lớn. Bà là một phụ nữ ân cần, dáng người mảnh dẻ, dịu dàng, mái tóc hoa râm được búi gọn ra sau. Bà có đôi mắt xanh nhất đời, trông như những giọt màu nhỏ rớt từ bầu trời tháng chín. Bà tháo đôi găng tay làm vườn ra. Trên tay bà còn dính mấy vệt màu. Bà kéo Jaslyn lại gần, ôm lấy cô hơi lâu hơn mức xã giao, người bà toát ra màu vẽ.

Bên trong có rất nhiều tranh vẽ treo trên các bức tường. Họ đi loanh quanh, mỗi người cầm một ly rượu trắng.

Cô thích những bức vẽ: những phong cảnh thuần chất Dublin, được truyền tải qua đường nét, bóng đổ, màu sắc. Lara đã xuất bản một cuốn sách hội họa và bán được vài bức tranh ở các cuộc trưng bày hội họa ngoài trời tại quảng trường Merrion, nhưng bà nói đã đánh mất nét vẽ đậm chất Mỹ của mình.

Ở con người bà phảng phất nét gì đó của một thất bại tuyệt đẹp.

Cuối cùng họ cũng trở lại sân vườn sau, ngồi ngoài hiên, ánh ngày hãy còn dùng dằng chưa chịu rời hẳn bầu trời. Ciaran nói về thị trường bất động sản ở Dublin: nhưng Jaslyn có cảm giác họ đang chuyện trò về những mất mát vô hình, chứ không phải lợi nhuận, những gì họ đã trải qua trong suốt những năm qua.

Sau bữa tối, ba người cùng nhau đi dọc bờ biển, qua tháp Martello rồi quay lại. Những ngôi sao ở Dublin trông như những vệt sơn trên bầu trời. Thủy triều đã rút ra xa từ lâu. Cát trải dài mênh mông rồi lẫn vào trong bóng đêm.

— Phía đó là nước Anh, - Ciaran nói. Không hiểu sao cô cũng cảm nhận được đúng điều đó.

Ông khoác cho cô chiếc áo ngoài của mình còn Lara thì nắm lấy khuỷu tay cô cùng sóng bước, len vào giữa hai bác cháu. Cô tế nhị cáo từ, việc đầu tiên là lái xe trở lại Limerick ngay sáng hôm sau. Khuôn mặt chị gái cô trông thật rạng rỡ. Janice mới gặp được một anh chàng. Anh ấy đi chuyến này là chuyến đi ba rồi đấy, - chị kể - thử tưởng tượng xem. Anh ấy đi ủng cỡ mười bốn, - chị nháy mắt đế thêm.

*

Chị gái cô đã được thuyên chuyển tới đại sứ quán ở Baghdad hai năm trước. Thỉnh thoảng cô vẫn nhận được bưu thiếp từ chị. Một trong số đó là bức hình một phụ nữ mặc áo burka[79]: Vui vẻ dưới nắng hè.

Ánh ngày mùa đông đã hé rạng. Cô mới phát hiện ra bữa ăn sáng không được bao gồm trong tiền thuê khách sạn. Cô chỉ còn biết cười. Bốn trăm hai mươi lăm đô, không kèm bữa sáng.

Trở lên phòng, cô gom tất cả xà phòng trong phòng tắm, cả nước thơm lẫn mút đánh giày, nhưng vẫn để lại tiền boa cho người phục vụ.

Cô đi dạo xung quanh tìm quán café, ngược lên phía bắc từ phố 55.

Hệ thống café Starbucks phủ khắp thế giới, vậy mà ở khu này cô chẳng tìm thấy nổi một quán.

Cô ghé vào một quán nhỏ. Thêm kem vàp ly café. Thêm chiếc bánh vòng với bơ. Rồi cô đi vòng lại về căn hộ của Claire, đứng bên ngoài nhìn lên. Tòa nhà bà ở tuyệt đẹp, được xây bằng gạch và có mái đua. Dù sao giờ mà ghé thăm thì hãy còn quá sớm, cô nghĩ. Cô quay đi và bước về phía đông tới ga tàu điện ngầm, chiếc túi nhỏ đung đưa trên vai.

*

Cô thích nguồn năng lượng tức thì của Village. Tưởng như tất cả đàn ghi-ta trên đời được đột ngột đưa tới những bậc cầu thang thoát hiểm. Ánh nắng chiếu trên tường gạch. Những chậu cảnh đặt trên bậu cửa sổ cao.

Cô đang mặc một chiếc áo rộng và quần jean bó sát. Cô cảm thấy thật dễ chịu, tựa như những con phố đang giải phóng con người cô.

Một người đàn ông đi qua với một chú cún rúc trong ngực áo sơ-mi. Cô mỉm cười nhìn theo. Chú cún nhoài lên vai người đàn ông ngoảnh lại nhìn cô, đôi mắt chú ta thật to và dịu dàng. Cô vẫy tay, nhìn chú cún lại biến mất vào trong áo anh ta.

Cô tìm thấy Pino trong một quán café ở đường Mercer. Thật dễ dàng đúng như cô đã tưởng tượng: không biết sao cô luôn tin chắc rằng việc tìm gặp anh rất dễ dàng. Cô có thể gọi điện cho anh nhưng quyết định không chọn cách đó. Tốt hơn hết là tự tìm ra anh, giữa cái thành phố hàng triệu người này. Anh đang ngồi một mình, cúi mình trước ly café mà đọc tờ La Repubblica. Cô chợt lo không biết có người phụ nữ nào quanh đây không, cũng có khi sắp có cô nào đến ngồi cùng anh bây giờ, nhưng rồi cô chẳng bận tâm nữa.

Cô gọi một ly café, kéo ghế lại ngồi chung bàn với anh. Anh đẩy kính lên trán, tựa người ra sau ghế, bật cười.

— Làm sao em tìm được anh?

— Hệ thống định vị toàn cầu của riêng em. Buổi nghe nhạc jazz thế nào?

— Ồ, thì là jazz thôi ấy mà. Người bạn già của em, bà ấy thế nào rồi?

— Cũng không rõ. Chưa biết.

— Chưa biết?

— Hôm nay em sẽ gặp bà sau. Kể cho em đi. Em tò mò chút được không? Em chỉ định hỏi là, anh biết đấy. Điều gì đã mang anh tới đây? Tới thành phố này?

— Em thực sự muốn biết à? - anh hỏi lại.

— Ừm, em nghĩ vậy.

— Em đã sẵn sàng chưa?

— Em lúc nào cũng sẵn sàng mà.

— Anh định mua một bộ bàn cờ.

— Để làm gì?

— Bộ đó là đồ thủ công. Có một người thợ thủ công trên phố Thomson. Anh đến lấy hàng đặt. Coi như anh hơi ám ảnh cũng được. Thực ra anh kiếm cho con trai. Làm bằng gỗ Canada đặc biệt đấy. Và anh chàng kia là bậc thầy...

— Anh đi suốt từ Little Rock tới chỉ để lấy một bộ bàn cờ sao?

— Anh nghĩ mình cũng cần ra ngoài đôi chút.

— Không đùa chứ.

— Ừ, rồi anh sẽ đem món đồ tới Frankfurt cho nó. Ở chơi vui vẻ với nó vài ngày. Rồi trở lại Little Rock, trở lại với công việc.

— Vậy thì lượng carbon anh thải ra môi trường đáng kể đấy nhỉ?

Anh mỉm cười, uống cạn ly café. Cô như đã mường tượng thấy buổi sáng của họ sẽ trôi đi ở nơi này, họ sẽ cùng nhau giết thì giờ ở Village, họ sẽ ăn trưa sớm, anh sẽ nghiêng người về phía cô và chạm lên cổ cô, cô sẽ giữ tay anh ở đó, họ sẽ về khách sạn của anh, họ sẽ làm tình, họ sẽ mở rèm, họ sẽ chuyện trò, họ sẽ cười với nhau, rồi cô sẽ lại thiếp ngủ, tay đặt lên ngực anh, cô sẽ hôn tạm biệt anh, và sau đó, khi trở lại Arkansas, anh sẽ gọi vào máy nhắn tin của cô, và cô sẽ để số của anh ngay trên kệ gần giường, để tiện cân nhắc.

— Một câu hỏi nữa nhé?

— Ừm?

— Có bao nhiêu bức hình phụ nữ trong điện thoại của anh rồi?

— Không nhiều, - anh đáp với một nụ cười thật tươi. - Còn em? Có bao nhiêu anh chàng rồi?

— Hàng triệu, - cô đáp.

— Thật à?

— Hàng tỉ mới đúng.

Cô chỉ trở lại Deegan duy nhất một lần. Cách đây mười năm, hồi đó cô chỉ vừa tốt nghiệp đại học. Cô muốn biết nơi bà và mẹ từng đứng đường kiếm khách. Cô lái chiếc xe thuê ở sân bay JFK, bị kẹt lại giữa lớp lớp xe cộ nối đuôi nhau. Ít ra phải đến nửa dặm xe hơi xếp hàng phía trước. Nhìn qua gương chiếu hậu thì rõ là cô đã bị kẹp chặt giữa dòng xe cộ. Một chiếc bánh kẹp kiểu Bronx.

Vậy là, cô đang ở quê nhà, nhưng lại chẳng hề có cảm giác về nhà.

Cô đã chẳng còn ở nơi này từ hồi năm tuổi. Cô nhớ những hành lang xám ngoét và hộp thư lèn chặt bởi những tờ bướm quảng cáo: ký ức vỏn vẹn có thế.

Cô cho xe vào bãi đỗ, loay hoay mở nhạc thì thoáng thấy bóng người từ phía xa trên đường. Một người đàn ông nhô ra từ nóc một chiếc limousine, trông thật lạ lẫm và kỳ quái. Cô nhìn thấy đầu ông ta trước, rồi đến thân trên ló qua cửa sổ nóc xe. Rồi ông chợt quay ngoắt đầu như thể bị trúng đạn. Cô đã tưởng tượng ra một tia máu chảy xuống từ mái đầu đó. Nhưng thay vào đó, cô thấy người đàn ông duỗi thẳng cánh tay ra và chỉ trỏ như đang điều khiển giao thông. Ông ta lại xoay đầu một lần nữa. Mỗi lần động tác lại càng nhanh hơn. Ông ta trông như vị chỉ huy kỳ cục trong bộ com-lê và cà vạt. Đuôi cà vạt lõng thõng xoay trái vụt phải như kim quay trên mặt đĩa là nóc xe mỗi lần ông quay người. Hai bàn tay ông ta chống vào hai bên, nhấc hẳn cả người ra hẳn bên ngoài, đứng trên nóc xe, hai chân dang rộng, những ngón tay chĩa ra. Thét gào vào mấy xe gần đó.

Cô nhận ra những người khác cũng đã ló ra hoặc chuẩn bị ló ra, cánh tay họ huơ huơ qua những cánh cửa mở, một dãy những cái đầu xoay cùng một hướng, như những bông hướng dương. Một bí mật gì đó giữa bọn họ. Một phụ nữ gần đó bắt đầu bấm còi xe, cô nghe thấy tiếng thét, và chợt nhận ra một con sói đồng cỏ đang phi nước kiệu qua dòng xe.

Trông nó hoàn toàn bình tĩnh, vừa chạy vừa nhảy cẫng lên dưới cái nắng gay gắt, chốc chốc dừng lại và xoay người, như thể nó đang lạc vào xứ sở thần tiên kỳ quặc đáng chiêm ngưỡng nào đó.

Vấn đề là con sói đang tiến về phía thành phố, chứ không phải hướng ra ngoài. Cô ngồi yên trong xe và quan sát nó lao về phía cô. Nó băng qua hai chiếc xe phía trước cô, lướt dọc cửa sổ xe cô. Nó không nhìn lên, nhưng cô có thể nhìn thấy sắc vàng của đôi mắt nó.

Qua gương chiếu hậu cô quan sát nó chạy. Cô những muốn hét lên ra hiệu cho nó quay lại, để nó biết rằng nó đang đi sai đường, nó cần phải quay trở lại, chỉ cần xoay người lại và cứ thế chạy hết tốc lực. Xa xa đằng sau cô đã nhận thấy đèn xe cảnh sát xoay tít. Bên kiểm soát động vật. Ba người đàn ông cầm lưới đang vây quanh đám xe cộ. Khi tiếng súng vang lên, thoạt đầu cô đã nghĩ đó chỉ là tiếng nổ của động cơ xe.

Chú thích:

[78] Tên công ty thang máy của Mỹ.

[79] Áo trùm kín người và mặt của phụ nữ Hồi giáo.