- 4 -
Thắng mơ thấy mình giương súng nhắm bắn vào cái bóng thập thò đằng sau bức tường đổ trước mặt. Xung quanh anh đất đá tung lên từng cột rồi từ từ đổ sập xuống không hề gây ra tiếng động. Chân Thắng nặng trịch, cái bóng sau bức tường vẫn thò ra thụt vào, lát sau nó dừng lại và hiện sừng sững ngay trước nòng súng của anh. Khi Thắng định bóp cò thì choàng tỉnh vì tiếng động mạnh. Chung đẩy cửa vào. Hết giờ nghỉ trưa. Phòng bên tiếng guốc của cô tài vụ khua giòn giã từ góc nọ sang góc kia kéo theo tiếng lách cách của ấm chén bị va nhau. Chung kéo ghế xích khỏi bàn, ngồi ngả ra sau giở giấy loạt xoạt mồm chíp chíp:
- Tôi khổ vì răng.
- Sâu à?
- Ừ, sâu cối, lại rơi vào răng hàm mới đau chứ.
Chung đứng dậy tìm phích nước, cái dáng gầy gò của anh ta đổ vẹo sang một bên. Thắng bê đống giấy tờ từ nóc tủ xuống bàn, mở cửa sổ nhìn qua sông thấy những khóm tre vàng ệch rũ xuống, Vài ba chiếc thuyền chở cát lập lờ giữa sông, Gió đưa vào phòng hơi mát và mùi tanh dịu của bùn, Thắng gõ gõ ngón trỏ lên cái chụp đèn nói:
- Ông thử bẻ một mẩu của cành Giao, lấy nhựa chấm vào chỗ đau xem, có khi khỏi đấy
- Ông làm thế rồi à?
Chung cảnh giác hỏi lại, Thắng lắc đầu:
- Hỏi còn ở lính tôi nghe một thằng bạn mách thế.
- Chịu, Nhựa Giao rất độc,
- Ừ, rất độc, - Thắng vuốt ngược tóc ra sau - Thằng ấy chết trong lúc bọn tôi rút qua sông Thạch Hãn,
Chung lại chíp chíp trong mồm:
- Xe máy dạo này xuống giá ông ạ.
Gió tiếp tục hất tấm rèm cửa lên rồi hạ nó xuống như một người làm mẫu động tác múa, Dưới đường tiếng xe máy xẹt qua tê dại, Chung nhăn mặt rót nước chè vào chén đẩy cho Thắng, hỏi bâng quơ:
- Dạo này ông không về trưa à?
Thắng cười:
- Không, đi lại nhiều cũng ngại... Với lại có trục trặc nhỏ. Chậc, vợ con nó mệt thế đấy, cứ như ông lại hay, đỡ phải lo nghĩ.
Chung cau mày, cúi gằm mặt xuống, Thắng vội lảng sang chuyện khác:
- À này, phòng mình sắp có một người nữa về đấy.
- Trai hay gái?
Giọng Chung thảng thốt, mặt bợt ra. Thắng châm thuốc hít hơi dài:
- Gái, một cô rất trẻ. Chiều qua hội ý bí thư tôi nghe thông báo thế.
- Thừa người.
Chung lầu bầu bỏ ra bàn làm việc. Ông Huỳnh xộc vào lẳng toẹt một chiếc phong bì dầy cộp trước mặt Chung.
- Cậu có thư.
Liếc nhìn Thắng, ông Huỳnh gật đầu đắc ý bỏ đi. Chung lật bật cầm thư giơ lên soi rồi đút nó vào ngăn kéo. Ở cơ quan, Chung là người nhận thư nhiều nhất, đều đặn nhất. Theo nhận xét cùa bà Hường phòng hành chính thì bạn bè Chung toàn loại nghèo kiết xác bởi vì các phong bì đều cũ kỹ rẻ tiền. Chung dành hẳn một ngăn tủ để đựng thư, anh ta khóa nó rất kỹ, thi thoảng mới rón rén lấy ra mân mê nhưng không hề đọc nội dung. Chung gục đầu xuống bàn, lưng cong như bầu trời, nấc lên:
- Nó sắp sang đến nơi rồi!
Thắng rùng mình, tiếng Chung lạnh lẽo xa xôi như từ cõi khác vọng đến. Căn phòng giãn ra rộng mênh mông nhưng không có tầm nhìn. Hai người im lặng làm việc cho đến tận cuối giờ chiều. Khi Thắng dắt xe ra cổng, ông Huỳnh vẫy lại ghé tai anh thì thầm:
- Chú phải cảnh giác, tôi thấy thằng “chó đểu” ấy có vẻ khả nghi lắm. Lơ mơ nó lật như chơi.
Thắng ngạc nhiên hỏi lại:
- Lật cái gì cơ?
Ông Huỳnh trợn ngược mắt chém tay phật một cái vào không khí:
- Ơ hay, chú này vô tâm thật, cái ghế trưởng ban chứ còn cái gì nữa. Trông mặt nó tôi biết, thèm lắm…
Thắng cười phá lên cho xe vụt đi làm ông Huỳnh chưng hửng. Vài ba năm gần đây, ông Huỳnh là người cao tuổi nhất trong cơ quan, ngày trước ông làm ở sở điện thành phố, đấu đá nhau bị về hưu non sau đó xin vào đây làm thường trực. Vợ ông Huỳnh ốm đau quặt quẹo luôn, hai người không có một mụn con cho dù đã chạy chữa khắp nơi. Ông Huỳnh là lính thời sáu mươi, đã dự trận Mậu Thân, bị thương phải giải ngũ. Tính cách ông khá thất thường, lúc tốt lúc xấu khó mà lường trước được. Ông là người ăn mặc xềnh xoàng, quần áo lúc nào cũng nhàu nát như vừa chui trong rừng ra, Loại người như Chung và bà Hường hành chính làm cho ông Huỳnh dị ứng, Vì ghét bà Hường mà ông Huỳnh đã không cho chồng bà ta vào gặp vợ với lý do không có giấy giới thiệu công tác, đến khi chồng bà Hường cãi găng quá thì ông Huỳnh quát lên:
- Ở cơ quan này không có loại bẩn thỉu như con Hường. Về đi,
Đa phần khách vào liên hệ công tác đều bị ông Huỳnh dắt mấy vòng quanh hố giải của cơ quan rồi mới cho gặp, Tính ông thích hành hạ sai bảo người khác, Nhìn tướng thấy hiền lành là ông hoạnh họe hạch sách đủ điều, hăng lên thì bắt đánh hộ ấm chén. Có lần vớ phải tay đểu nó cũng ngoan ngoãn xách ấm chén ra bể, khi rửa xong đem về chẳng cái nào còn nguyên vẹn, chén sứt quai mẻ miệng, ấm gẫy nửa vòi mất núm nắp đậy, Ông Huỳnh gầm lên bắt đền; tay kia cũng lu loa đòi kiện lại bảo vào đây để liên hệ công tác không phải vào đánh ấm chén, tay nghề của hắn chỉ có vậy, đền thế nào được. Hậu quả là ông Huỳnh phải bỏ tiền túi ra mua bộ ấm chén mới.
Chiều làm thành phố trở nên lộn xộn bởi những cái bóng.
Thắng không về nhà mà tạt vào khu bảo tàng uống bia, anh chọn một chiếc bàn nhỏ dưới gốc cây ngọc lan để ngồi cho tĩnh. Khu bảo tàng nhiều cây, mỗi cây một loại hoa, chúng nở thành từng mảng lớn đan xen nhau, đỏ của phượng, tím của bằng lăng, vàng của quách tử... Duy nhất có cây ngọc lan là khiêm nhường với những bông hoa trắng ngà nhỏ bằng ngón tay út ẩn sau lá và nhả ra mùi thơm dịu dàng kín đáo, còn lại tất cả các loại cây hoa đều nở tung ra cuồng nhiệt bứt rứt như đang ở đỉnh điểm của cơn cuồng hứng sinh lý. Một thằng bé bán kem đạp xe xồng xộc đến chỗ Thắng, nó phanh xe ngay trước mặt anh rồi mời. Thắng lắc đầu, thằng bé bán kem nhẩy lên yên xe đạp tiếp, chiếc còi làm bằng quả bóng cao su ở ghi đông kêu toe toe. Bia mát lạnh. Qua khoảng cách giữa hai thân cây ngọc lan, Thắng nhìn thấy dòng sông Cầu đỏ rực giữa hoàng hôn. Gió lại cuốn lá rào rào, mùi ngọc lan phảng phất mỏng mảnh. Thắng nhặt một cánh hoa ngọc lan nằm ngay mép bàn, đó là cánh hoa héo đang ngả sang màu khoai tây rán, rúm ró, đau khổ. Đúng lúc Thắng đưa cánh hoa lên mũi hít thử thì anh nhìn thấy Cương đi vào, Khi Thắng cất tiếng gọi, Cương ngoảnh nhìn giật mình.
- Ngồi đây uống cho nó vui.
Thắng đứng dậy kéo thêm ghế mời Cương, thái độ trân trọng hơi thân mật.
- Anh vẫn khỏe chứ?
Cương hỏi nhìn thẳng vào mắt Thắng.
- Bình thường, lâu không thấy ông với mọi người đến nhà chơi.
Thắng đáp rồi quay sang ra hiệu cho cô chủ lấy thêm bia. Cương lắc đầu:
- Bận lắm anh ạ. Hoàn nó biết đấy, bọn em phải rong ruổi suốt ngày, vào tận chỗ dân tộc mới đủ ăn. Nghỉ diễn thì lại họp, cứ liên miên cả, anh bảo thời gian đâu mà chơi nữa.
Vừa nói Cương vừa kín đáo quan sát Thắng như lượng sức. Có một cái gì đó tỏa ra từ Thắng, một sự từng trải, một nỗi uất ức, mệt mỏi. Khói thuốc bay vơ vẩn trước mặt hai người, đẩy họ ra xa nhau, rất xa. Tiếng còi của thằng bé bán kem lại toe toe xích đến. Bên kia đường, đồi Đội Cấn um tùm, ở sườn trái nhô lên mái đền màu nâu đen như lưỡi dao cùn gỉ. Cương vươn người ra trước chống hai khuỷu tay lên bàn, lòng tay ôm khít lấy khuôn mặt, mắt nheo nheo:
- Hình như họ định xây tượng đài ở kia thì phải.
Thắng vứt mẩu thuốc xuống, lấy chân dí mạnh, lắc đầu, xương cổ kêu răng rắc:
- Ừ, chuyện vợ con của ông thế nào?
Cương ngả người, tựa lưng vào thành ghế:
- Anh bảo vội gì, chơi đã.
- Thế là đúng.
Thắng ngửa cổ, trước mặt anh là một vòm tối kết bằng cành và lá, cái vòm tối đó đung đưa xạc xào. Qua những kẽ hở bầu trời biến thành hàng trăm đốm sáng lấp lóa.
Một chiếc lá ngọc lan rơi từ đỉnh vòm xuống, nó lắc lư chao đảo lượn sang trái cố tình tránh rơi vào mặt Thắng. Ve vẫn kêu ra rả, những dòng nước nhỏ xíu buông xuống ken lại thành bức mành trong suốt mơ hồ. Có lẽ nước đái ve là thứ nước thải duy nhất không bị ghê tởm.
- Chỗ anh thu nhập được không?
Cương hỏi.
- Cũng bình thường… Nói chung thì đủ chi tiêu cho riêng mình.
Thắng san bia từ cốc mình sang cho Cương.
- Lương của Hoàn hơn em đấy
- Thế à. Tổng cộng của ông là bao nhiêu?
- Năm trăm.
Cương moi thuốc bập một điếu đẩy nó sang khóe mép rồi mới châm lửa. Thắng nhìn thấy căn phòng thường trực của cơ quan mình và một phần góc sân nơi có cây đại cong queo vươn ra bờ sông sau hàng rào đúc bê tông dây leo mọc xanh rì. Tự dưng Thắng thấy buồn chán, mặt anh sạm lại, nhăn nhúm. Cương nhìn Thắng rùng mình. Bóng tối đang đến chậm rãi nhưng quyết liệt...
Sáu giờ mười hai sông Linh Nham.
“Ta vươn qua lớp lá mục chồng chéo hàng vạn đời. Sau ta một áp lực không lồ điên đại đang đuội dần bởi độ dài của đường đi. Thời gian thắng thế chỉ vì biết kiên nhẫn. Ta trong suốt lướt êm ru qua mặt trời qua trăng, trên những đám mây mờ tỏ đôi khi ai đó còn quên lại một bàn cờ màu gụ. Cạnh ta những khóm hoa dại tím nhạt nở rải rác nhẩn nha luôn đung đưa không cần gió, Bướm trắng, chỉ bướm trắng thôi bay lang thang vật vờ dọc các lùm cỏ, biến mất, hiện ra và quay cuồng không khả năng định hướng. Ta róc rách miên man yêu những buổi mai khi ánh sáng chưa kịp tỏa rạng trên vạn vật với làn da xanh trong của cơ thể không hình hài đột nhiên hiển hiện giữa sương sớm mát dịu và thanh khiết. Xa xửa xa xưa có một thằng bé tên là Thắng đã tắm trong ta. Ta yêu tiếng la hét của thằng bé đó và cố gắng giữ mình thật trong khi nó sắp ra. Hằng đêm ta đau đầu vi sự miên man của tất cả những gì xung quanh. Thời gian thắng thế chỉ vì biết kiên nhẫn. Ta chờ thằng bé tên là Thắng chạy lại tắm nhưng lâu rồỉ lâu lắm rồi mọi con đường đều chìm sâu trong cỏ. Ngày gieo mình xuống ta... Mẹ của thằng bé Thắng bị ô tô chẹt khi cố gắng bám lên bậu cửa để khỏi lỡ buổi chợ. Bà ấy trượt tay chui vào bánh xe và năm cân chè búp chết cùng với bà ấy. Người lái xe tên là Sinh, anh ta vẫn qua đây, sẽ đến lúc ta gọi... Gia đình đưa bà về nhà, bóng bà in xuống ta bởi vì lúc đó ta ngừng lại trong vắt và trang nghiêm. Người đã khuất thì cần được tôn trọng cho dù họ là ai đi nữa. Ta yêu thằng bé Thắng như yêu những buổi mai khi ánh sáng chưa kịp tỏa rạng trên vạn vật, mẹ của nó thì luôn luôn phiền muộn lo âu…”
Bà Khánh ca cẩm xa xót:
- Con Hoàn ngày càng gầy đi, mắt cứ thâm quầng lại. Chắc là mất ngủ... Không hiểu sao tôi thấy lo lo ông ạ.
- Có gì đâu mà bà cứ quan trọng hóa lên thế.
Ông Khánh đáp lại cho qua chuyện, mặt vẫn cắm vào tờ báo giăng rộng dầy đặc chữ. Bà Khánh chép miệng liếc nhìn chồng thấy đôi mắt kính lão của ông lóe lên như hai tròng mắt dã nhân, đột nhiên bà trở giọng đay nghiến:
- Ông bỏ tờ báo xuống cho tôi nhờ.
Ông Khánh giật mình ngỡ ngàng nhìn vợ, gạt tờ báo sang bên, dùng vạt áo lau hai mắt kính chờ đợi. Bà Khánh thở một hơi thật dài, lòng dịu lại ngồi xích vào chồng. Ông Khánh nhìn tấm kính cửa thấy trong ánh sáng lấp lóe của thủy tinh gặp nắng thấp thoáng những cành lá khô gây lắc lư từ bên nọ sang bên kia, Trong đám cành lá ấy chập chờn khuôn mặt bà Khánh, một khuôn mặt hơi nghiêng, già nua thân quen nhưng quá xa xôi vì sự rung rinh hư ảo cùa kính.
- Vợ chồng chúng nó trục trặc thì phải. Thằng kia dạo này không về trưa nữa…
Ông Khánh gấp tờ báo làm hai, chặn cái kính lên, nghe vợ nói với vẻ mặt đăm chiều. Ông biết vợ chồng Hoàn có trục trặc nhưng không thể can thiệp vì đây là chuyện riêng của con cái. Vả lại ông đã quá mệt mỏi vì cuộc đời của chính mình nên giờ đây chỉ muốn yên thân vui thú với mấy chậu cảnh và hai ba tờ báo do vợ đặt mua dài hạn.
- Có khi thằng kia lại cằn nhằn nó về nghề nghiệp nên nó đâm ra nghĩ ngợi cũng nên.
Bà Khánh rủ rỉ, luôn luôn bà đứng về phía con gái.
- Ai bảo bà là nó dằn vặt con Hoàn nhà này. - Ông Khánh gắt lên, tấm kính cửa rung khẽ làm mặt bà Khánh nhòa đi. - Bà cũng phải xem lại cái tính của con Hoàn, vợ gì mà lúc nào cũng át hết cả chồng, cấm để cho nó nói.
Bà Khánh cãi:
- Ông là ông hay bênh thằng kia coi khinh con cái mình. Thử hỏi chả lẽ con Hoàn nó chủ động gây sự chắc?
Ông Khánh rụt đầu lại, vươn tay với lấy ấm nước rót uống đấu dịu:
- Biết đâu do công việc của chúng nó bận quá thì sao. Cũng như ngày xưa có dạo tôi với bà chỉ gặp nhau một tí vào buổi tối, rồi sáng ra lại tất tả mỗi người một ngả là gì.
Bà Khánh chau mày nhìn ra cửa sổ:
- Nhưng dạo ấy công việc của ông nó quan trọng, đằng này, chỉ là anh trưởng ban sáng đi tối về đều đặn, có gì mà bận với chả rộn...
- Thế là bà khinh nó. Bà phải bỏ ngay cái giọng ấy đi không vì bà mà vợ chồng nó tan nát đấy.
Ông Khánh đứng vụt dậy mở cửa ra ban công. Không khí bên ngoài làm ông dể thở, sáng khoái. Một cơn gió ào qua kéo theo những xác lá chạy rào rào ngoài mặt đường. Những xác lá dựng đứng nhấp nhô như đoàn quân mù quáng chạy xô về một hướng trong cơn kích động cực độ, sau đó chúng đổ rạp xuống thoi thóp tuyệt vọng trở về im lặng như cũ. Trong hơn chục chậu cảnh của ông Khánh thì cây tùng là giá trị nhất, cây ấy do một người ở cơ quan mua tặng với giá rẻ. Nghe nói chủ của cây tùng vốn là một ông già mất trí, trước khi lao đầu xuống ghềnh đá tự tử, ông ta đã thắp hương khấn lạy nó như khẩn lạy một vật sống thiêng liêng, Cây tùng có dáng thác đổ, nó lao từ miệng bình cao nửa mét xuống tận chân, ngọn hoành vào không khí trông hùng vĩ bất thường, Ông Khánh đi vòng quanh cây tùng ngắm nghía nó với thái độ kính cẩn, kiều hãnh. Ánh nắng trùm khắp cây, những chiếc lá nhọn sắc của nó ánh lên màu trắng bạc lung linh, Như mọi lần, tim ông Khánh đập rộn ràng khi ông vén lá nhìn vào góc cây tùng. Cái gốc cây trồi một nửa trên mặt đất nâu xám hơi mịn được phủ bởi những mầm cỏ bé xíu, nó gồ ghề nhưng không lồi lõm thành gốc mà chỉ cương lên những thớ dọc như mạch máu phồng rộp trên thái dương người già. Bàn tay ông Khánh run run mân mê gốc cây với một khoái cảm khó tả, ông ngừng thở, co hết các ngón lại, chỉ để ngón út chạm vào lớp vỏ nâu đỏ và thấy gốc cây chuyển động rần rật, Một sự sống ấm nóng hiện diện, thông qua ngón út truyền vào cơ thể ông Khánh làm cổ họng ông nghẹn lại. Ông Khánh nhắm mắt, nhắm từ từ, thận trọng. Khi bóng tối bao phủ ông thì rất nhiều màu sắc nhòa nhạt xoắn xuýt nhau hiện ra, chúng chuyển động lên xuống theo nhịp thở của ông nhưng hoàn toàn im lặng. Trong thế giới mơ hồ đó, ông Khánh cảm thấy gốc cây tùng đi vào cơ thể mình qua ngón út, chạy dọc cánh tay, trườn qua bả vai lên cổ và xuất hiện trong đầu ông. Gốc tùng co lại, duỗi ra rồi biến thành con rồng nâu đỏ dập dờn uốn lượn trong bầu trời mênh mông vô tận...
- Ông muốn chết nắng à?
Tiếng gắt của vợ làm ông Khánh hẫng lại, loạng choạng, tay rụt phắt khỏi gốc cây đưa lên bưng mắt, một màu đen dịu bao bọc ông.
Bà Khánh dìu chồng vào nhà, đặt ông nằm trên giường, lấy khăn ướt ủ lên trán ông. Cảm đã sinh ra một giấc mơ, giấc mơ ấy của ông Khánh, nó đây:
Ông đi công tác về, lội bộ qua con đê một đầu chìm dưới nước, mặt đê có mấy căn nhà tồi tàn mái lợp giấy dầu đen in trên nền trời xanh thẫm những tiếng thì thào vọng từ nhà ra nhưng rõ ràng chúng không phải là của chủ nhà ở đoạn đê chìm dưới nước ông thấy một con vật trắng như con bướm dựng đứng, hai đầu cánh trên bám vào cánh cổng đan bằng tre khô lay lay con bướm cất tiếng khàn đặc: “Chả ma nào có nhà”. Ông nhìn nghiêng con bướm là một bà già đầu rụt xuống gắn liền với ngực, nhìn kỹ lần nữa chỉ còn đầu và hai tay hai chân bà già trắng ngắm nhìn ông cười khằng khặc làm ông bỏ chạy Bà già trắng đuổi theo. Ông lội ào qua nước chạy té tát sang bên kia đê nơi một đầu nổi dập dềnh gắn hờ vào bờ sỏi, bà già trắng lao lên trước đón đường hò hét chân tay khua loạn xạ, ông chạy thoát lên đường cái, gặp một cô gái trạc hai nhăm ba mươi, cô ta định lảng đi nhưng ông đã nhanh nhảu nói: “Tôi thuê người làm đấy!” Cô gái quay lại moi trong túi chiếc áo rách rưới ra một tờ giấy mười nghìn màu đỏ hồng đã nhàu nát và bảo: ‘‘Đây gửi tạm trước, khi nào làm, đây đòi lại”. Bất thần cô gái dí sát mặt vào mặt ông nhe răng ra, một khuôn mặt tái ngắt điên loạn, đôi mắt đen ngòm trống rỗng, cái mồm há to lộ chiếc răng nanh trắng nhọn như mầm cỏ gianh. Ông buồn bã quay lại chỗ đê ngập nước, lúc ấy bốn phía nước lừng lững xô lại gặp nhau dưới chân ông, dâng cả người ông lên cao, cao mãi... Ông thót ruột bước từ ngọn nước sang thẳng mặt trăng đi vào giữa lòng của nó. Càng dấn sâu vào lòng mặt trăng ánh sáng càng đặc lại khiến ông nghẹt thở... ông vùng vẫy và tỉnh dậy.
Giọng Kỷ đều đều:
- Mày thấy thế nào, chuẩn bị xây ngay bây giờ hay đợi anh Thắng với chị Muôn về bàn cụ thể lần nữa cho chắc.
Sơn thọc hai tay vào túi quần đi đi lại lại vẻ sốt ruột:
- Cần gì phải đợi. Hôm giỗ ông Thắng đã nói thế còn gì nữa. Cái nhà này cũng nát lắm rồi.
Cụ Điển nghe hai thằng cháu nói lòng dạ bồn chồn, mấy lần định chen vào nhưng sợ Sơn nên đành ngậm miệng. Kỷ chống tay lên cằm nhìn những chiếc cột gỗ to thẳng đen xỉn đã thủng lỗ chỗ vì mọt nói nhỏ:
- Tao lại thấy rất ngại. Đang yên đang lành tự dưng dỡ tung ra cả…
Sơn cắt ngang lời Kỷ:
- Bác chán bỏ mẹ đi, có tiền không xây nhà thì xây hố xí à.
Cụ Điển chồm lên như phải bỏng:
-Sư cha mày, thối mồm.
Biết mình lỡ lời, Sơn hậm hực bỏ ra giường ngả nửa người xuống, hai chân duỗi dài ra đất mắt nhìn trừng trừng lên nóc nhà. Trong bóng tối lờ mờ giữa các đường sổ ngang sổ dọc của rui mè những chiếc mạng nhện giăng thấp thoáng bùng nhùng thi thoảng lại rung lên vì một con nhện lao từ góc nọ sang góc kia, đôi ba sợi tơ lóe trắng như những tia chớp bé xíu, Tiếng mọt rào rào miên man, dập dềnh. Kỷ phân vân, Yến xuống nhà chị Muôn chơi từ hôm giỗ chưa thấy về, có Yến ở đây mọi việc đâm dễ vì Kỷ hay hỏi ý kiiến Yến. Ba người giải quyết công việc nhanh hơn là hai. Kỷ nhìn bố, lúc bí như thế này Kỷ hay nhìn bố mặc dù chưa bao giờ ông có một ý kiến nào. Hai tai ông Điểu cựa quậy, mắt vẫn trân trối nhìn thẳng nhưng không thấy gì hết, Cụ Điển ưỡn người ra trước tay đấm đấm sống lưng, đầu nghẹo sang bên vẻ ngứa ngáy.
- Có con Yến ở đây thì tốt
Kỷ buột miệng làm Sơn vùng dậy:
- Nó giải quyết được cái gì. Bác quyết đi, mai em sẽ ra thị trấn liên hệ mua vật liệu, thợ thì ới một câu, chúng nó xúm đến như ruồi. Thế nào?
Kỷ chúi xuống như đang chịu một sức nặng quá tải, dưới chân Kỷ, nền nhà ánh lên độ bóng của đất.
- Tao có cảm giác là lạ thế nào ấy. Tao sợ…
Giọng Kỷ yếu ớt chân thành. Cụ Điển quay sang ông Điểu nói một tràng dài:
- Theo ông thì cứ từ từ đã, Cái nhà này còn tốt, với lại nó là hương hỏa của mấy đời để lại, phá đi phải tội chết. Bây giờ ông mới cho chúng mày biết, ông đã mơ thấy Cụ về, Cụ dắt theo cả bà chúng mày nữa, Cụ giận lắm, không muốn cho phá cái nhà này đâu. Với lại…
Ông Điểu đặt tay lên tay cụ Điển, lập tức cụ im bặt. Kỷ khó thở, ngực nóng ran lên. Sơn nghiến răng trừng mắt với cụ Điển:
- Nhà cũ nát thế này không cho xây nó đổ sập xuống lúc nào không biết. Sướng cũng không biết đường sướng, đúng là loại bảo thủ.
-Thôi!
Kỷ nói cộc lốc đứng dậy ra ngoài sân băm rau khoai cho lợn. Mặt Kỷ vụt già đi, méo mó khổ sở. Sơn vơ lấy cái áo lẳng lặng vào xóm chơi. Bàn tay ông Điểu từ từ trượt khỏi mu bàn tay cụ Điển như con rùa bò xuống mép sông. Cụ Điển nhìn con, cái nhìn mờ nhòe chập chờn. Gò má ông Điểu bóng lên.
- Xưa anh khỏe lắm cơ đấy. Thế mà...
Cụ Điển lẩm bẩm, câu cuối chùng xuống, tan biến vào tiếng mọt đang dâng lên hạ xuống theo một nhịp kỳ lạ và bí ẩn của mùa hè.
Kỷ vừa băm dây khoai vừa đắn đo cân nhắc việc xây nhà nên bị dao bập vào ngón trỏ. Kỷ chỉ thấy tay bị ngứa rồi từ đấy một vệt máu ứa ra, chậm nhưng mọng và đỏ tươi, sau đó nó trào xuống loang ra thành dòng. Khi Kỷ nhấc ngón tay lên máu nhỏ dài như một sợi chỉ rút ra từ đống dây khoai. Kỷ ra bụi chuối, chọn chiếc lá non xé mảnh nhỏ cho vào mồm nhai chậm, vị chát xộc lên bám khắp mồm làm lưỡi hơi co lại, sau đó là chút ngọt ở cổ họng, Kỷ nhả miếng bã ra lòng tay, lấy nó rịt vào chổ đứt, máu ngừng chảy. Trong chuồng con lợn lệt quệt lê từ góc nọ sang góc kia đòi ăn. Kỷ nhổ nước bọt thấy nó sôi lên trong màu xanh ngả vàng. Cụ Điển chống gậy ra, Kỷ hỏi:
- Ông mơ thấy Cụ thật à?
Cụ Điển gật đâu mặt vẫn sưng lên vì giận dỗi. Kỷ không biết mặt Cụ vì khi Kỷ được đẻ ra, Cụ đã mất, Mẹ chẳng bao giờ kể về Cụ, ngay cả khi Kỷ hỏi cái nấm mộ to nhất nằm chính giữa khu mộ dòng họ là của ai, mẹ chỉ bảo của Cụ. Cụ là ai? Mẹ bảo là ông của bố. Thế thôi. Chị Muôn được nhìn thấy Cụ, chị kể đó là một ông lão gầy còm, cau có. Cụ hay cấu chị Muôn đến chảy máu. Năm chị Muôn lên tám tuổi thì Cụ mất. Một lần, lâu lắm rồi khi vui chuyện, bố nói với cả nhà: “Cụ chúng mày suốt ngay tranh ăn với con Muôn, khổ, một già một trẻ bằng nhau’’. Cụ là thế thôi.
- Mày đừng có nghe lời thằng kia, phải nghĩ cho kỹ vào cháu ạ. Không khéo rồi chết cả lũ.
Cụ Điển nói giọng ráo hoảnh khua cây gậy lên trời theo những đường rối rắm.
Chiều Sơn vác về một buồng chuối chín nục, Kỷ hỏi hắn bảo lúc đi qua nhà Tâm điếc thấy chín quá thì chặt về. Sơn rút con dao nhọn từ cạp quần ra đặt nhẹ xuống chân giường chỗ hòn gạch kê tiếp giáp với bức tường. Kỷ nghi ngại nhìn lưỡi dao loang những vệt đỏ bầm, Sơn bóc chuối ăn nhồm nhoàm nói đỡ:
- Nhựa đấy.
Người ông Điểu giật nhẹ mấy cái, đầu nhúc nhích xoay về hướng con dao, Cụ Điển vặt hai quả chuối bảo Kỷ:
- Ông sang nhà Bính, lúc nào ăn thì chạy ù sang gọi ông một tiếng.
Kỷ gật đầu. Sơn giậm chân xuống nền nhà, cụ Điển vừa bước qua bậc cửa giật mình ngã chúi về phía trước. Kỷ liếc sang thấy Sơn nhếch môi cười đểu giả.
Đêm thì trời đổ mưa. Sắm ầm ì dội từ cao xuống khiến mặt đất rung bần bật. Thi thoảng một ánh chớp lóe lên soi đó những đám mây xám tròn lồng lên nhau đưa đẩy nặng nề. Một tiếng sét đanh gọn đánh xuống bãi tha ma, đúng chỗ sét đánh dậy lên một tiếng thét lanh lảnh ai oán đến rợn người. Kỷ và Sơn chồm dậy đã thấy ông Điểu đứng áp vào cửa sổ nhìn ra ngoài, bóng ông in lên trên ánh chớp trắng lóa như một hình cắt bằng giấy đen. Khi đến gần Kỷ mới biết bố mình rên hừ hừ, mặt tái nhợt nhưng toàn thân tỏa ra hơi nóng hầm hập. Chớp nhoáng nhoàng liên tiếp, ngoài sân nước bắn cao như những ông thủy tinh nhọn mọc thẳng từ lòng đất. Tiếng mưa chạy chéo qua, dừng lại, uốn cong và chuyển thành tiếng xé vải. Kỷ vào dìu bố lại ghế, bật công tắc nhưng không có điện. Sơn ngái ngủ dựa vào mép bàn. Sấm ù ù lượn trên đâu tuồng như chỉ với tay nữa nó sẽ đậu xuống mái nhà.
- Mày nghe thấy không?
Kỷ hỏi Sơn thật to, Sơn gật đâu. Chớp lại nhoáng lên. Mưa cuộn lại ngày càng dữ dội. Kỷ đánh diêm châm lửa vào chiếc đèn dầu trên bàn thờ. Cửa sổ nghiến ken két. Cụ Điển cũng dậy, thái độ bình thản đến lạ thường. Tiếng thét lại cất lên từ bãi tha ma thê lương, tuyệt vọng giữa cơn mưa thốc tháo. Bốn người đàn ông nhìn ra cửa sổ... Ba người quay lại nhìn nhau rồi tập trung nhìn vào người còn lại. Mặt ông Điểu im phắc, mắt giãn to hết cỡ, mồm há ra như sắp sửa thét lên dồn tất cả sức lực ra ngoài.
Mười hai giờ đêm nghĩa địa Dốc Lim trong mưa.
Mưa đã ba ngày, cả trời lẫn đất đều nẫu ra không còn nhận được phương hướng. Trong nhà ánh sáng lạnh, bố nằm lỏng lẻo trên chiếc giường tre có rất nhiều mấu, mình với mẹ thì ngồi cạnh. Bố đưa tay rờ rẫm ngực:
- Sao lâu thế?
Câu hỏi thều thào giận dỗi. Mẹ nghiêng đầu nghe:
- Tôi không cấm được chúng, mà chả ai cấm được trừ ông giời.. Tội quá.
Bố xoay người quay vào tường từ từ co lại như con tôm bị nướng. Hơi lạnh làm vách đất ẩm và xám lại.
- Chúng nó khóc tôi chắc?
Mình đứng dậy ra áp mặt vào cửa sổ như ông Điểu đang làm thế bên Linh Nham, ngoài sân nước bắn cao như những ống thủy tinh nhọn mọc thẳng từ lòng đất. Mẹ so vai nhìn xuống chân, mấy sợi tóc trắng đổ lên vầng trán nhăn nheo, nói với mưa:
- Phúc bẩy mươi đời nhà này
Mình nhìn mưa, lúc ấy mình đã nhìn mưa hỏi lại:
-Mẹ bảo phúc à?
- Ừ, mấy ai được giời thương đâu hả con!
Mưa, mưa cách đây bẩy năm, mưa bây giờ xa xôi, mênh mông. Những bông huệ ướt ngoài vườn như đàn ngựa trắng buồn bã. Có một con ngựa bị lạc, nó vẫn đang ăn cỏ ở đồi bạch đàn gần đoàn kịch, chuông ở cổ nó vang vang nhè nhẹ. Bố ho lụ khụ trong cổ, lật mình, đuôi mắt nhíu lại:
- Tôi sắp đi... họ lởn vởn đằng kia. Lấy cho tôi cây đàn để tôi chơi lần cuối.
Mẹ đứng dậy, mình nhớ như in rằng mẹ đứng đậy chậm hơn cả hoa quỳnh nở, lần vào buồng mang ra cây đàn bầu già cỗi. Bố đã cấm mình nghe đàn bầu.
- Cái gẩy.
Tiếng bố lẫn vào mưa. Mẹ đưa ra mẩu sừng nhỏ rồi đứng sát mép giường, hai tay nâng cây đàn lên, từ từ lật úp nó xuống trước mặt bố. Mình gai gai khi có cảm giác nhiều người đang lởn vởn trong mưa ngay giữa mảnh sân loáng ướt. Bố vươn tay lên, tiếng đàn đột ngột xuất hiện, một âm thanh rè, lùng nhùng ngơ ngác, một âm thanh nữa gọn hơn vang hơn, âm thứ ba ra đời sắc lẹm. Tiếng đàn mạch lạc lúc đầu, về sau xỉu xuống rối loạn như những vòng sóng run rẩy dưới mái hiên.
Mưa mưa mưa trùng trùng điệp điệp và đang mưa nhưng cơn mưa ngày xưa không có sét.
- Tôi mỏi.
Mẹ nói rụt rè, bố không nghe thấy vẫn nhắm mắt để mặc cho đôi tay di chuyển trên dây và cần đàn.
- Tôi mỏi!
Mẹ nhắc lại nài nỉ, vẫn cố gắng giữ cho cây đàn thăng bằng. Mình tiến lại định đỡ cho mẹ nhưng bố lắc đầu, tay dồn nhanh hơn như muốn đuổi theo mưa. Mẹ nhìn mình, cái nhìn kinh hãi bất lực.
- Bao giờ mới chấm dứt hở mẹ?
- Dài lắm... đánh cho hết thì một đời cũng chưa đủ.
Mẹ đáp, nước mắt rân rấn, môi dưới lõm vào. Bố thả rơi hai tay xuống người, tiếng đàn theo đà còn vẩn vơ một lúc nữa sau đó bị mưa xóa đi. Mẹ ngồi xuống đặt cây đàn ngang đùi, mình quờ tay lên trán bố, bố lẩm bẩm khó nhọc:
- Vẫn mưa... âm của nó không trong nữa... Tôi sắp đi...
- Bố uống nước không?
Mình hỏi.
- Không.
Bố ho trong cổ.
- Bố ngủ đi một tí cho đỡ mệt.
Bố rướn mắt nhìn mình, đôi đồng tử mờ nhạt giãn dần, môi rung như dây đàn bị đay:
- Tao không mệt nữa... họ đang đến... hai cơn mưa cùng một lúc, thảo nào đàn câm...
Bố nhắm mắt, cơ mặt méo đi sau đó chùng xuống thả lỏng hoàn toàn. Một khuôn mặt lười nhác. Mình quờ tay trước mặt bố hai ba lần... Mưa, mưa, mưa... phía sau nó là một dải đất có những hàng rào xệch xoạc, đôi khi trăng sáng họ vẫn đứng ở đấy, vơ vẩn, trắng, im lặng... Mẹ rùng mình liên tục, khi mình quay sang thì mẹ rung lên biến thành tiếng đàn rẽ mưa bay thẳng về trời. Tiếng đàn trong như một cuộn cước lấp lánh tiếng gọi:
- Ông ơi chờ tôi với!
Da diết, thảng thốt. Mình đã bước ra sân, nhìn lên không biết nói với ai:
- Mẹ quên mất là bố bị điếc từ bé.
Mưa, ở đây, bên Linh Nham, cả ngày xưa...