- 8 -
Ông Huỳnh đứng lân la ở hành lang cùng mấy người nữa, vừa lúc ấy bà Hường vung vẩy đi qua. Ông Huỳnh gọi giọng ỡm ờ:
- Hường ơi!
Bà Hường đang trong cơn vui vẻ cũng vờ vĩnh ỡm ờ lại:
- Gì thế anh Huỳnh của em?
Chỉ chờ có thế ông Huỳnh gào lên:
- Hường ơi, em đẹp quá nhìn thấy em là anh vãi rắm ra quần.
Mọi người xung quanh chết điếng, bỏ hết về phòng mình mới dám phá lên cười sặc sụa. Bà Hường choáng váng cố gắng lê trở lại bàn làm việc đổ vật xuống khóc nức nở. Sự căng thẳng giữa hai người lên đến cao độ.
Từ hôm Sơn xuống phố ngôi nhà rộng hẳn, tiếng mọt tăng lên, đêm dài ra. Ông Điểu vẫn ngồi bất động cạnh bàn nhìn thẳng vào cõi hư không. Cụ Điển suốt ngày la cà bên lão Bính đến bữa ăn mới chịu mò về. Còn mình Kỷ lặng lẽ quanh quẩn ở nhà với tâm trạng bứt rứt khổ sở. Kỷ linh cảm rằng sau lần giỗ mẹ có cái gì đó đang đến với gia đình mình, một sự chuyển dịch, một vận động kín đáo nhưng lại chứa uy lực không cưỡng nổi. Từ nhỏ Kỷ chỉ ham làm, giờ phải ngẫm nghĩ tính toán nên thấy đau đầu. Kỷ bị giằng xé vì chuyện xây nhà. Không xây thì không được, ngôi nhà cũ nát mối mọt quá rồi, nhưng phá đi lại tiếc và hơi sợ. Kỷ nhìn bố cầu cứu, ông Điểu vẫn im lặng, xa lạ. Có một gánh nặng đang đè xuống vai Kỷ, đè từ từ nhưng chắc chắn. Kỷ đem cuốc ra mài, tiếng sắt miết vào đá dậy lên nửa trầm nửa thanh, kéo dài lê thê, riết róng. Mỗi tiếng miết một vệt xám rùng rùng chạy trong không gian yên ả cho đến khi có hàng trăm ngàn vệt xám quấn chặt nhau, xô đẩy, dày đặc cả một khoảng không thì Kỷ ngừng tay. Chiếc xẻng đã gỉ nhưng lưỡi của nó là một hình vòng cung sắc lẹm. Cái màu trắng cố ánh lên lần cuối ở chiếc xẻng gỉ càng khiến nó trông ghê rợn,. Xà beng và búa chim cũng sắc gợn. Tất cả được Kỷ chuẩn bị kỹ càng như bước vào một cuộc tàn sát khốc liệt.
Sẩm tối lão Bính sang chơi. Cụ Điển hậm hực lảng ra chỗ khác vì vẫn còn nhớ trận cãi nhau buổi chiều. Kỷ bê bàn uống nước ra sân ngồi. Gió rười rượi từng lớp tràn qua mặt hai người. Trời trong, ít sao, trăng ngời ngợi sáng, sáng đến mức không cảm thấy độ cao của trời nữa mà chỉ thấy mênh mông về chiều rộng, Ngoàỉ bãi tha ma đom đóm bị trăng át đi chỉ còn là vô vàn đốm sáng mờ nhạt thoi thóp như đống lá cháy đang tàn. Tiếng chó tru lên lúc gần lúc xa nghe day dứt. Lão Bính chiêu một hớp nước vỗ tay vào bụng chân đánh đét rồi co các ngón lại gãi sồn sột. Kỷ sực nhớ vào dìu bố ra ngoài. Ông Điểu đặt hai tay lên hai đầu gối nhìn con chớp chớp mắt nhưng không biểu lộ gì. Lão Bính nghe Kỷ nói đến chuyện xây nhà lòng háo hức như đấy chính là ngôi nhà của mình. Lão ngẩng đầu, khuôn mặt đột nhiên rạng rở hẳn lên bởi nó hứng toàn bộ ánh trăng. Một vệt sáng mịn màng như dải lụa chảy từ trán qua sống mũi tràn xuống yết hầu lão. Ông Điểu thở đều đặn se sẽ đầu hơi cúi xuống, ánh trăng soi lên gáy ông, cái bóng dưới chân cựa quậy rung rinh, Kỷ nói rất dài về chuyện xây nhà. Cuối cùng, vuốt mặt kết thúc:
- Đấy, cháu chả biết tính thế nào nữa cả!
Im lặng dài và sâu.
- Hay là cứ xây?
Lão Bính nói nhìn Kỷ thăm dò, Kỷ chép miệng:
- Cứ xây cũng dở. Bên kia thì chị Hoàn chả biết có qua khỏi không... cháu thấy sờ sợ.
Lão Bính gật gù:
- Ừ, còn cả chuyện cô Hoàn nữa. Thế chú Thắng nói tình trạng cô ấy ra sao?
- Bị tổn thương ở não, thế nào cũng mù đấy bác ạ.
Cụ Điển kéo ghế ra ngồi từ bao giờ đột ngột chen vào giọng liến láu.
- Mù thì chưa chắc. - Kỷ phẩy tay cãi lại cụ Điển làm mặt cụ sưng lên - Nhưng mà anh Thắng nói chín mươi phần trăm là liệt...
Kỷ thở dài nhìn vơ vẩn ra bãi tha ma. Lão Bính nói khẽ:
- Hay là ta kéo nhau sang bên ấy xem tình hình cụ thể thế nào rồi về quyết định sau.
Cụ Điển chồm lên vì sung sướng, Kỷ thì đâm lúng túng. Kéo nhau ra hết không được, người đi người ở lại càng khó. Kỷ im lặng lảng đi cho qua chuyện nhưng cụ Điển lại bám riết lấy ý kiến của lão Bính, cụ hoạt bát hẳn lên:
- Mai sang đấy tôi chỉ mang theo cái bô để đi giải đêm thôi.
- Mang làm gì cho lích kích, bên ấy họ có hết.
Lão Bính khoát tay phóng khoáng, đứng phắt dậy đi đi lại lại làm cụ Điển bị kích động. Cụ tuôn ra một tràng tự hỏi đáp về cuộc gặp gỡ sắp xảy ra với ông bà Khánh.
- Xin chào ông bà. Vâng, ông là ông của cháu Thắng nhà chúng em đấy ạ? Quý hóa quá, mời ông vào xơi nước Ông ăn sô-cô-la đi, ăn sô-cô-la đi- Kệ tôi, ở nhà bận hương hỏa các cụ quá hôm nay mới rảnh rang ra thăm ông bà được. Ở thế này kể cũng khá đấy nhỉ. Vâng quý hóa quá, ông uống nước đi. Rượu Tây đấy, sô-cô-la đấy, mời ông. Ôi giời quý hóa quá, để vợ chồng em chiếu phim cho ông xem…
Kỷ phì cười làm cụ Điển sực tỉnh ngừng bặt lại, cụ nhún vai khạc đờm xuống đất lấy chân đi đi. Mạn cầu Linh Nham có tiếng chân đuổi trộm rầm rập, đèn pin quét sáng loáng sau đó lại im lặng. Trăng vẫn sáng mênh mông gay gắt. Lão Bính dỏng tai rồi quay sang ông Điều, ông vẫn đang trân trối nhìn về phía trước mồm hé ra, bóng thu gọn ghẽ dưới chân. Trăng rọi từ cao xuống khiến mặt ông Điểu lồi lõm hốc hác, chỉ có sống mũi là sáng nhất, nổi bật lên như một cái nhìn trắng dã, chính xác hơn, như một tiếng kêu giữa sự im lặng vô cùng tận. Lão Bính chạnh lòng, có cảm giác đang bị kéo giật lại quá khứ và bắt đầu mở miệng kể lể về ngày thơ bé của mình với ông Điểu. Đó là đôi bạn thân nhưng luôn luôn mâu thuẫn cãi cọ nhau. Lão nhắc đi nhắc lại chi tiết ông Điểu cầm cành duối khô đập thẳng xuống đầu lão trong cuộc ấu đả dữ dội vì một quả ổi chín mà ai cũng nhận mình nhìn thấy trước. Cú đập ấy còn khiến lão choáng váng đến tận lúc này, đặc biệt mỗi khi trở trời. Vừa kể lão Bính vừa nhìn chằm chằm ông Điểu tay xoa tròn trên đỉnh đầu như làm dịu đi cơn đau. Đó là một bí mật khổ sở của lão, bởi vì lão không có ai để kêu ca mách bảo, bởi vì khi ấy lão là thằng bé mồ côi đi chăn trâu thuê cho các nhà. Lão vẫn nể trọng ông Điểu từ bé cho đến lúc ông vào bộ đội, trở về đôi ba lần xênh xang ngựa hồng côn bát rồi bỏ nghiệp nhà binh sống lặng lẽ cho tới khi trở thành một kẻ xa lạ dửng dưng với mọi thứ như bây giờ. Trong tiếng gió xào xạc của đêm khuya, giữa ánh trăng u u miên man giọng lão Bính đều đặn nhẫn nại. Kỷ nghe như nuốt từng lời, thi thoảng lại liếc sang bố. Ông Điểu không tỏ thái độ gì, chỉ đôi mắt từ từ díu lại bước vào cơn ngái ngủ. Trăng to bằng cái đấu, sáng trắng càng ngày càng lên cao, khi tới giữa đỉnh thì đột nhiên bầu trời mang một vẻ uy nghiêm huyền bí. Đêm nay không mây, từ ngọn cỏ đến thân cây đến các gân lá tuồng như đang chìm trong cơn run rẩy thiêng liêng. Một nỗi buồn, một sự mong manh vĩnh cửu, một nỗi rợn ngợp mà chỉ có câu chuyện của lão Bính do chính lão kể mới hòa nhập và tồn tại được. Lão Bính kể về con trâu lão chăn cho cụ Điển, kể chi tiết, tỉ mỉ trong khi đó cụ Điển lại không còn nhớ một chút gì. Sau cuộc cải cách, vai trò của lão Bính với cụ Điển và ông Điểu đang ngang bằng nhau, giờ đây lão là bạn vong niên của cụ... Con trâu ấy có một cái khoáy trắng giữa trán to bằng cái bát, nó đã húc lòi ruột bao nhiêu người, thế mà lão Bính đã trị được. Hôm lão và ông Điểu cưỡi trâu từ bãi tha ma về, cả hai đã nhìn thấy một con vật cuồn cuộn chuyển động giữa các đám mây, nó di chuyển thẳng đến mặt trời nên cả hai đều bí lóa mắt không nom rõ nhưng cảm giác nó rất dài. Đó là bí mật thứ hai giữa lão với ông Điểu.
- Thực ra nó là con gì?
Kỷ sốt ruột hỏi cắt ngang lời lão Bính.
- Rồngl
Lão Bính đáp sau đó vươn tay vỗ vỗ vai ông Điểu mỉm cười. Cụ Điển hắng giọng:
- Sao hồi ấy tôi chả biết gì sất?
Lão Bính cau mày môi dưới trễ xuống:
- Kể làm sao được.
Cụ Điển nhìn Kỷ nói rành rọt:
- Không có số phát vương mà nhìn thấy rồng là vô phúc đấy cháu ạ.
Lão Bính đứng dậy về, dáng gù gù như con đười ươi, Cả đêm ông Điểu ngồi cạnh bàn với khuôn mặt bất động còn Kỷ mơ thấy một bầu trời đặc sệt đung đưa từ bên nọ sang bên kia.
Sáng cụ Điển vừa cậy gỉ mắt vừa lò dò định sang nhà lão Bính thì thấy Sinh phóng xe đến. Ông Điểu đang ngồi im bỗng quắc mắt nhìn Sinh rồi hờ hững như cũ. Cái quắc mắt ấy nhanh, dữ dội như tia chớp lần nào cũng khiến Sinh giật mình. Kỷ chạy từ bếp lên nhanh nhảu hỏi:
- Vừa rồi sao anh không đến?
Sinh dựng xe, xách cái túi to đặt lên thềm, đáp:
- Chạy đường trường, mệt quá. Anh mới về chiều qua. Hôm nọ, nhà mình về đủ không?
Kỷ gật đầu, đưa Sinh vào nhà, Sinh lôi trong túi ra một đống bánh kẹo, hoa quả, đặt lên bàn thờ thắp hương khấn. Khói hương lượn lờ thơm nhẹ. Cụ Điển lén lút đếm những thứ Sinh mang đến mặt rạo rực phấn chấn, một chân cứ co cẫng lên giần giật, Khi ra bàn uống nước, Kỷ mới nói Hoàn bị tai nạn xe máy, mặt Sinh biến sắc:
- Cũng ô tô à?
- Không, chị ấy đâm vào đít xe công nông.
Sinh thở phào cùng Kỷ đi lên đồi chè. Kỷ bảo:
- Em định xây nhà anh Sinh ạ.
Sinh dừng lại hỏi:
- Bao giờ?
Kỷ đáp bừa:
- Cũng sắp rồi, Anh xem có được không?
Sinh bấm đốt ngón tay tính toán rồi lắc đầu:
- Bây giờ là tháng Sáu âm tức tháng Bẩy dương. Nếu xây vào giữa tháng Tám âm thì tốt. Cứ lui lại đi Kỷ ạ.
Giọng Sinh chân thành làm Kỷ tin ngay Ở lại ăn trưa xong, Sinh lại phóng xe về, hẹn sẽ quay lại lần nữa để bàn chuyện xây nhà với Kỷ. Cụ Điển gọi lão Bính sang chỉ lên bàn thờ, giọng véo von:
- Đấy bánh trái của anh Sinh mang sang đấy toàn là đồ ngoại cả ăn bao giờ cho hết đây, thế đấy!
Cụ Điển nhún vai, đắc ý quan sát nét mặt khổ sở đau đớn của lão Bính. Đêm Kỷ vác xà beng ra gần bãi tha ma đánh mấy viên đá ong về lát lại bậc lên xuống ở giếng. Tiếng xà beng kình kịch dội vào sườn đồi vọng lại nghe âm u. Đang đánh, Kỷ dừng lại tai dỏng lên. Hình như có những âm thanh lạ vọng ra từ bãi tha ma, tiếng rì rầm hổn hển lúc dâng lên hạ xuống khi ùa đến gần rồi lùi xa chập chờn mê hoặc. Kỷ nín thở, bất giác quơ chiếc búa chim làm vũ khí. Xung quanh vắng ngắt chỉ có ánh trăng, bóng tối của cây và dãy đổi lùi xa mờ nhạt bởi làn hơi mỏng ngút lên. Đom đóm tự nhiên dạt ra, tán loạn, hốt hoảng. Bước chân rào rào đạp qua lá khô tiến lại phía Kỷ nhưng không ề thấy người. Phía trước vẫn là những vệt tối của hàng xoan đổ xuống, những cành xoan run rẩy, giãy giụa bị lay mạnh. Kỷ thấy bóng những cây xoan in dưới đất rung rinh, đột nhiên dạt vào nhau, mở ra một lối đi y như có bàn tay vạch nó sang hai bên. Một vật mờ lướt giữa vệt sáng tách ra từ bóng hàng xoan, nó lướt nhẹ, nhấp nhô nhưng vọng lên tiếng rào rào của lá. Toàn thân Kỷ nổi da gà, mồm há to thét lên một tiếng. Vật đó vụt sa xuống, tiếng chân chạy lùi lại. Bãi tha ma, những con đom đóm lại dạt ra theo hình một người, Kỷ chạy thốc tháo về nhà cùng lão Bính đem đèn pin ra soi thì nhặt được một ống quần láng đen của đàn bà bị mùn tơ tướp có dính đất sét vàng.