← Quay lại trang sách

- 22 -

Mọi việc chuẩn bị gần như xong xuôi chỉ còn chờ tốp thợ đến bổ nhát cuốc đầu tiên để đặt móng. Theo tính toán của Kỷ và Sinh, móng sẽ đào rộng hơn nền cũ, như vậy khung nhà vẫn giữ được dùng làm chỗ nghỉ cho thợ. Khi làm chỉ cần đập đi mấy bức vách là có thể bắt tay vào đào. Đêm Kỷ, cụ Điển, ông Điều vẫn ngủ lại mặc dù đồ đạc đi hết sang nhà lão Bính, nhà lão trở thành cái kho khổng lồ. Kỷ chuẩn bị một bữa cơm thịnh soạn cho hôm khởi công. Lão Bính nhận làm chân nấu nướng. Thợ có chín người, một thợ cả. Tay thợ cả xem xét một lượt gật gù rồi bỏ đi hẹn hôm sau sẽ quay trở lại, Kỷ hồi hộp, lâng lâng như người say rượu, ra vào, làm cái nọ quên cái kia, thi thoảng lại cười một mình. Mấy hôm nay nắng to nhưng nền trời không xanh mà ngả sang màu nâu nhạt.

Nửa đêm lão Bính đi đái, thấy đất dưới chân phồng lên xẹp xuống như người thở, lão cảm giác mình đang đứng đái trên bụng ai đó. Kỷ không để ý gì, tâm trí dồn hết vào việc xây nhà, Kỷ ngắm nghía vuốt ve từng bao xi măng, từng viên gạch, từng thanh sắt với lòng kính cẩn, rạo rực. Ông Điều mất ngủ, ngồi cả đêm như một pho tượng đá trồi lên mặt đất nhìn vô định ra ngoài. Đom đóm kéo về dầy đặc quanh nhà, chúng nhấp nháy theo nhịp của tiếng mọt. Từ xa nhìn lại, căn nhà như một giấc mơ ốm yếu hoảng loạn. Lão Bính với Kỷ sểnh việc là kéo ghế ra sân ngồi rì rầm bàn bạc. Mỗi người nói một phách chẳng ăn nhập gì nhưng vẫn nhìn nhau bằng ánh mắt trìu mến thấu hiểu.

Kỷ vung tay nói đến chiếc ban công sơn xanh ưỡn cong về phía trước như một nải chuối. Lão Bính gật gù chen ngang:

“Dứt khoát rồi, không cháo gà thì còn ra thể thống gì nữa”

Nói xong, lão lim dim mắt. Kỷ không để ý vẫn tiếp tục thuyết giảng về chiếc ban công:

“Màu xanh... ưỡn thế này này. Thế... có thể lùi xuống dưới một tý. Cân đối nhé. Đấy, như ngón trỏ này là được này”

Kỷ đứng dậy, lão Bính cũng đứng dậy. Hai người không ai bảo ai đều chắp tay ra sau đi đi lại lại. Nồi cháo gà ám ảnh lão Bính đến mức lão ợ lên mùi của nó ở trong cổ họng mình, Còn Kỷ thì rón rén đi giữa sân vươn hai tay nắm lấy mép chiếc ban công vô hình và rướn về phía trước, mắt thả xa xôi làm như mình đang đứng ở trên ban công thật. Cụ Điển vật mình vật mẩy, hết đập tay xuống giường lại ho khan với con mắt hằn học, căm thù. Lòng bồn chồn như lửa đốt cụ nhìn lão Bính và Kỷ chụm đầu vào nhau, cuối cùng cụ quay sang ông Điều giận dỗi:

“Anh nhìn đi, chúng nó coi tôi là cái gì ở nhà này Chúng nó thì thụt như những thằng ăn trộm ăn cắp ngay trước mắt tôi với anh. Không còn ra thể thống gì nữa. Nhà này mạt vận rồi.”

Ông Điều vẫn trân trân ngó ra ngoài, mồm hé mở, môi dưới run run nhưng không thoát ra âm thanh nào, mặt ông bóng rợn như bôi nến. Cụ Điển thở dài:

“Ngày xưa, anh khỏe lắm cơ đấy”.

Ông Điều khẽ rùng mình. Tiếng mọt rào lên nghiến ngấu. Tiếng lão Bính vọng vào:

“Dứt khoát rồi...”.

Bữa cơm trưa ăn ở nhà lão Bính. Cụ Điển vừa nhai vừa lầu bầu dọa rút đất cho “chúng nó” vỡ mặt. Cụ đe Sơn nó sẽ về và muốn gì thì muốn “một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Lão Bính tảng lờ coi như không nghe thấy gì. Kết thúc bữa ăn, lại vẫn cụ Điển khẳng định cơm nấu ở bếp “nhà mình” ngon hơn “nhà nó” nhiều. Trời đang nắng, bỗng sầm lại vì một đám mây khổng lồ tràn qua. Trong bóng râm như bóng chiều nhập nhoạng, từ bãi tha ma vọng lại tiếng ù ù là lạ. Bất giác lão Bính nắm chặt tay Kỷ.

“Nó đấy”.

Lão lắp bắp mặt dại hẳn đi. Kỷ thấy bàn tay lão nóng như than, ông Điều đột nhiên phát ra tiếng kêu the thé, mắt trợn ngược toàn lòng trắng. Mặt ông sinh động háo hức. Đám mây vụt qua, nắng lại tỏa sáng bầu trời. Lão Bính buông tay Kỷ đứng như trồng, thở dốc. Ông Điều im bặt trở lại vẻ lạnh lẽo, đờ đẫn. Kỷ bàng hoàng tuồng như vừa mơ. Cụ Điển bước từ nhà ra, rên rẩm;

“Sáng rồi à. Giời với chả đất, thối như cứt”.

Thấy không ai nói gì, cụ lại tiếp tục:

“Khó ngủ quá. Mình chỉ vừa chợp mắt một tý... vẫn thức à?”. Cụ hất hàm hỏi ông Điều. “Nhìn đấy, chưa chi đã túm tụm nhau lại để thì thà thì thụt. Thế đấy”.

Tiếp sau đó là cái nhún vai kiểu cách. Mặt trời đi nhanh, có thể thấy rõ những vệt nắng chuyển động, chúng thấp dần, oãi dài ra, nằm dán xuống mặt đất như mèo rình chuột. Lão Bính hỏi Kỷ:

- Mấy giờ thợ sang?

- Chín rưỡi. Họ bảo làm lấy ngày thôi. Lúc nãy bác sao thế?

Lão Bính không trả lời nhìn đăm đăm xuống vệt nắng dưới chân, lão cảm giác người mình rất khác, da thịt mỏng hơn, nhẹ hơn nhưng các mạch máu lại đang to lên. Lão nghe tiếng máu gầm rống trong cơ thể.

“Ngày trước, trời cũng thế này”... - Giọng lão Bính thoang thoảng - “Sau đấy nó đến... Tôi bảo đừng có nhìn... tôi bảo rồi mà không nghe”.

Câu nói nghẹn lại và Kỷ thấy nước sóng sánh trong mắt lão Bính- Bất giác ông Điều buông ra tiếng thở dài.

Kỷ mệt rũ người, mệt đến mức mắt díp lại thèm ngủ. Tiếng mọt dai dẳng mênh mông trong ánh nắng vàng mơ xa lạ.

Buổi chiều đằng đẵng. Không còn gì để mó máy chân tay, Kỷ lồng lộn đi từ nhà lão Bính sang nhà mình. Kỷ chuẩn bị đến mức chiếc cuốc chim cũng sạch bóng, sắc lẹm và nền đất được quét tước gọn ghẽ phẳng mịn. Búa để đập tường đã được đặt rải rác xung quanh. Kỷ tính với sáu người, chỉ đập khoảng 30 phút là bay hết vách. Còn một đêm nay, ba người ngủ ở căn nhà này lẫn cuối. Mai sẽ dọn sang lão Bính. Nghĩ đến đấy lòng Kỷ nôn nao. Kỷ đến bên bức vách rờ rẫm những vết nứt màu vàng ố. Căn nhà này, bức vách này đã chứng kiến anh em Kỷ lớn lên. Ngày bé, ở sau nhà, dưới chân tường, Kỷ và Yến suốt ngày lọ mọ bắt công cống chơi. Mùi âm ẩm ngai ngái của bức vách đất mỗi khi trở trời đã in sâu vào tâm trí Kỷ. Nó trở thành một phần của cuộc sống, thiếu nó có thể Kỷ sẽ quên tất cả. Ngày mẹ mất Kỷ trốn ra sau nhà áp mặt vào bức vách này ngửi mùi đất ngai ngái của nó. Lúc ấy, Kỷ có cảm giác mình bị hút sâu vào bức tường, đi thật xa, có nguy cơ không thể quay về, nếu không giật mình dứt ra thật mạnh. Giờ, nó chỉ còn lại với Kỷ một buổi tối nữa, rồi sẽ biến mất vĩnh viễn. Kỷ thờ thẫn quay vào nhà, Có cái gì đó tan nát trong lòng và Kỷ mới hiểu tại sao ông mình lại đổi ý không muốn phá đi. Nó là máu thịt của ông. Kỷ nhìn bố, nhớ đến mẹ nhưng không khóc.

Con mèo chụm bốn chân giương đôi mắt xanh lét nhìn ra khu vườn um tùm. Tiếng rắn trườn sột soạt trên lá khô, kéo hút vào bóng tối thăm thẳm dưới các gốc cây sau đó bị im lặng khỏa lấp. Đôi mắt con mèo vẫn mở to trừng trừng bao quát cả khu vườn, tai nó giương lên, lông tỏa ra lớp sóng tê tê xua tan cái khí lạnh đang lăm le quanh mình. Ở lùm cây thứ ba gần sát với hàng rào có một cái bóng chập chờn lúc ẩn lúc hiện. Đó là bóng người đàn bà gầy guộc không có mắt, chỉ một khoảng trống tối tăm được khuôn lại bởi mái tóc xám dài nhưng rối loạn, xơ xác.

Bóng người đàn bà sau phút ngập ngừng lững thững tiến lại phía con mèo bằng những bước chân êm ru nhưng vụng về, đôi tay bà ta nhúc nhích lên xuống. Con mèo hơi co người lại răng nhe ra, lông đầu dựng lên tua tủa. Cái bóng đến gần con mèo thì dừng lại như bị một lực cản vô hinh...

‘‘Ngày thứ sáu cỏ tóc tiên lại rối lên. Tôi nghe tiếng chân ông vọng về chệnh choạng mệt mỏi, có lẽ do mang một vật gì đó khá nặng. Cái lư đồng trên bàn thờ tự dưng rùng mình làm tàn hương tung bay Tại sao ông về giữa trưa? Tôi đang nằm nghỉ cơ mà, ba năm nay trưa nào tôi cũng nằm nghỉ trên chiếc phản hai ta đã từng ngủ.

Giấc mơ nào của tôi cũng có hàng trăm con sông chảy chéo qua nhau. Tôi biết tấm phản ấy còn tươi bên trong, nhựa vẫn đang lưu chuyển đêm ngày. Nó chờ ông về nhưng tôi thì không, cỏ tóc tiên lại sợ đến phát điên lên.

Lúc ấy tôi chỉ mong những con chim sẻ bay xuống chơi cho đỡ căng thẳng. Những con sẻ nâu vằn, đầu tròn mắt tròn kêu líu ríu thường làm tôi ăn cơm ngon hơn.

Cái bóng nhích sang bên trái tránh xa con mèo. Trong nhà vắng tanh, đồ đạc bị chìm vào bóng tối toát ra khí lạnh. Cạnh cửa sổ ánh sáng lờ mờ soi lên chiếc phản bỏ không hiện lên một đám khí màu lam nhạt hình bông hoa hướng dương đọng giữa mặt phản.

Từ ngày ông đạp tôi ngã vào bếp đùng đùng mang quần áo theo con đĩ ấy đi biệt, chim sẻ đến nhà nhiều hơn. Tháng Ba nào cũng có bão nhưng cỏ tóc tiên vẫn mơ màng chờ ngày được về trời. Tôi không chờ ông... Ngày bé cụ tôi thường dẫn tôi ra vườn vào ban trưa dặn ở đời này đừng có chờ đợi một ai cả, họ sẽ làm ta thất vọng. “Cứ đất của mình mà cuốc, cuốc thật châm vào là được cháu ạ. Cụ bảo thế. Tôi không cuốc, tôi đi học, học mãi học mãi rồi cũng thành cô giáo. Khi tôi về làng dạy học, ông đã đem cỏ tóc tiên đến trồng trước thềm thành hai luống. Những cây cỏ tóc tiên vàng võ, chúng rất giống tóc ông hồi ấy. Ông bảo: “Tôi làm trên huyện, có một con Iợn hơn tạ để chờ lấy vợ. Thời này chồng làm cán bộ hành chính, vợ làm cô giáo là lý tưởng rồi”. Sau khi lấy nhau chính ông đã bảo tôi con ai người ấy lo, đi dạy học cho thiên hạ làm gì. Ông bắt tôi ở nhà để ông lên huyện làm... Rồi ông đòi ly dị khi tôi không có khả năng sinh con. Tôi chờ nó nhưng nó không đến, lỗi ấy là của ông trời. Giá như tôi đi dạy học cho trẻ con có khi chuyện lại khác, ông bỏ đi tối ngày không thèm ngó ngàng gì đến tôi và những luống tóc tiên nữa. Nhà quạnh quẽ quá, mây cùng chán nản toàn bay vòng ra đằng sau. Suốt đêm sông vẫn cứ chảy chằng chịt làm tôi khó ngủ. Gỗ ẩm cũng như người còn sống, chẳng để ai yên cả... Ba năm rồi sao ông còn quay lại làm gì... tiếng chân ông đến gần làm chói tai tôi. Tôi biết ông quay về vì chẳng kiếm được đứa con nào. Ai sẽ nối dõi nhà ông? Tôi cười, lấy cái búa bổ củi đặt dưới chân phản. Ông gõ cửa, có đúng là ông đã gõ cửa không hay đạp tung nó ra?...

Đám khí màu xanh trên tấm phản phập phồng thở, nó nở ra co vào rồi chầm chậm duỗi dài như giọt nước có lối thoát chảy dọc theo tấm phản. Một cơn gió lướt qua nhẹ nhàng làm những lùm cây khẽ lay động. Con mèo căng cứng như bức tượng đá, mắt vẫn chói chang nhìn vào cái bóng. Người đàn bà không mặt thở dài, tiếng thở lẫn với cơn gió làm một. Ngôi nhà và khu vườn là hương hỏa tổ tiên một dòng họ đã tuyệt diệt. Nó hoang vắng xa lạ gợi lên cảm giác của giấc mơ trôi nổi giữa ban trưa. Nhưng giờ này khuya rồi.

Ông ghi lấy tôi rít lên những tiếng méo mó. Khuôn mặt hốc hác đen sạm với những sợi râu tua tủa chạy loạn xạ trên người tôi hệt một con vật bị mủ đang cuống cuồng lao đi trốn. Dừng lại ở đâu nào, ngoài kia trời vẫn xanh mây vẫn bay vòng sau nhà. Nước mắt chẳng phải mưa, tôi với tóc tiên thì khô cạn héo mòn ba năm rồi. Những cơn chim sẻ sà xuống sân chờ gạo, bay đi các em ơi, chị sắp mơ thấy lỗ thủng của tấm phản, nó sẽ dẫn chúng ta đến cái nôi đung đưa treo giữa trời. Cơn chị đấy nó đang chờ chúng mình, bé trai thì hay dỗi nhưng dù sao vẫn dễ thương hơn bé gái. Ông đã hét lên, vì sao ông đã hét lên làm mất đường dẫn đến chỗ cái nôi? “Mày không phải là đàn bà”. Ông đứng vụt dậy. Chả sao, không phải là đàn bà cũng được, miễn là làm mẹ của trẻ con. Ông lại đánh tôi, có đúng không?