← Quay lại trang sách

- 27 -

Mình là một cái chân được người ta vẽ ra nhưng bị bỏ quên. Tại sao cứ chòe ra mà không chụm lại. Tại sao không thon đi một tí, một tí tì tị thôi, để tử tế hẳn lên. Chúng nó bảo mình là một cái chân đểu gỉa, xấu xí, nứt toác và cứng đến hãi hùng. Dù sao, mình đã đi nhiều, lang thang khắp chốn Linh Nham, Đình Cả, Võ Nhai. Mình là một cái chân, một cái chân vẽ, nói chung mình đẹp, đáng tự hào mặc dù hơi thô chút đỉnh. Mình khác mọi cái chân xung quanh là chưa bị chó cắn lần nào. Những con chó là nỗi sợ hãi ám ảnh của chân. Bạn cứ thử nhớ lại xem, chắc chắn bạn đã được chứng kiến ít nhất vài ba lần cảnh những con chó truy sát những cái chân như thế nào. Một bên thì hồng hộc lao theo, bên kia cuống cuồng chạy, cả hai đều cố sức nên bụi đất bay mù mịt như trận đánh của những đạo quân khổng lồ. Thi thoảng cũng có cái chân thoát được. Còn đại đa phần đều bại trận, có nghĩa là bị đớp ít thì một miếng, với vài ba vết răng đỏ bầm, nhiều thì hai hoặc bốn miếng. Có những cái chân do số hãm bị đớp liên tục, sứt sẹo nham nhở như những nụ cười mếu. Chứng kiến chó đớp chân thì nhiều nhưng mấy ai được vinh dự nghe thấy tiếng rít của những cái chân khi bị chó đuổi. Tiếng rít lạ lẫm rờn rợn, tôi dám đánh cược rằng chỉ tiếng rít của những ngôi miếu trong đêm mới sánh được với nó. Nói chung theo như đa số khẳng định, chân chưa bị chó đớp chưa phải là chân. Tôi không muốn phản đối, cũng chẳng tán thành. Có những cái điếu cày chưa bao giờ được hút mà vẫn gọi là điếu cảy đấy thôi

Tôi là một cái chân vẽ, người vẽ là một họa sĩ tự học thành tài. Ban đầu, anh ta vẽ tôi là chân của phụ nữ, trắng to, nói tóm lại: phốp pháp. Sau, hình như lo lắng gì đó, anh ta sửa tôi thành chân của đàn ông, sau sửa nữa, sửa mãi và tôi chỉ còn là một cái chân chung chung, không thuộc về đối tượng nào, phụ nữ, đàn ông, ông già, trẻ em. Tôi là cái chân vẽ, ở nguyên một chỗ nhưng tôi đã đi nhiều rồi. Tôi là tay lang bạt kỳ hồ khắp xứ sở này, tôi có thể nói vanh vách về tất cả các loại đất với những đặc điểm chính xác nhất. Xưa kia bố tôi có đem một ông thầy tướng về nhà, ông ta phán rằng tôi dứt khoát sẽ vào tranh. Trước khi ra về, ông thầy tướng ghé tai tôi bảo: “Đừng dại mồm thố lộ bất cứ điều gì, nếu không họ sẽ cho cháu còn hai ngón thôi, ngón cái và ngón út”. Tôi gật đầu hình dung lúc đó mình sẽ giống chiếc càng cua hơn là bàn chân. Nhưng con người ta nếu cứ nuốt tất cả mọi thứ vào mà không nhả ra thì hoặc sẽ vỡ tung ra chết và tan biến đi, hoặc hóa điên. Tôi không muốn làm cái chân điên một tý nào, vì lúc đó, sẽ xéo lên mọi thứ trong khi ở đời những cái sạch sẽ hiếm lắm. Lần ngược về thời xa xưa, gia phả nhà tôi có ghi sự kiện về một cái tát. Ấy là do có lần ông tôi đi xa về và ngồi khoe với cụ tôi rằng ông đã từng xéo lên đủ thứ, cả xác voi xác hổ xác cá mập và mảnh pha lê. Cụ tôi chỉ ậm ừ vê thuốc vào lỗ điếu rít coi như những chuyện đó là vặt đối với mình, Ông tôi hăng lên khoe đã xéo cả lên máu, hàng vũng, ngập đến tận mắt cá. “Máu trong lần dấy binh giữa người Việt của ông Đội Cấn với quân Pháp í mà. Nhiều lắm, cứ sôi ùng ục”. Ông tôi khẳng định. Cụ tôi bất đồ nổi xung lên tát ông tôi một cái giời giáng. Tát mà không giải thích. Sau, chính ông tôi bắt bố tôi phải chép chuyện cái tát ấy vào gia phả. Bố tôi gặng hỏi chép chuyện ấy để làm gì thì ông bảo chả biết nhưng cứ chép để lưu lại cho con cháu. Bố tôi chần chừ, ông tôi gắt lên: “Sao cái giống nhà này đứa nào cũng đa nghi thế nhỉ. Tao bảo chép là chép, hỏi làm gì”. Thế là bố tôi chép, nhưng ông vẫn nhủ thầm không đa nghi thì suốt ngày sẽ xéo phải phân của thiên hạ mất. Kể cũng đúng. Tuy nhiên cái kinh nghiệm quý báu đó lại tồn tại rất ngắn ngủi vì đến đời tôi thì không cần nữa. Tôi khẳng định với bố tôi rằng trong tranh khác bên ngoài, làm gì có phân mà lo. Bố tôi lầu bầu: “Mày ngu lắm, chưa chắc đâu con ạ”,

Mình là một cái chân, một cái chân vẽ bắng chất liệu sơn dầu. Giá như những ngón đừng tòe ra, đừng nứt toác thì tử thế hơn nhiều.

Như thường lệ, tầm bảy giờ tối, sau một ngày lang thang mỏi mệt những tiếng chuông của nhà thờ thành phố lại bay về đồi Côi Kê ngủ thiêm thiếp giữa những khóm lau úa vàng điểm vài ba bông trong suốt, anh ánh trắng. Đêm, không ai lên đồi Côi Kê nên những tiếng chuông được yên giấc, chúng ngủ từ 7 giờ đến 12 giờ, giấc ngủ nhẹ thoang thoảng và tinh khiết. Từ giấc ngủ, những tiếng chuông biến thành ánh trăng, biến dần dần trong trạng thái lơ mơ. Ánh trăng lại ra đi từ đỉnh đồi Côi Kê lang thang khắp thành phố cho đến lúc ban mai sắp thức dậy và chúng quay trở lại để trở thành tiếng chuông đầu tiên ngân vang, gióng giả. Con đường từ tháp chuông nhà thờ đến đỉnh đồi Côi Kê đã thành vệt mòn, nó là một dải không khí mờ mờ trong suốt nằm trên đầu thành phố, tinh ý lắm người ta mới thấy. Đó là con đường của những tiếng chuông. Con đường ấy đôi khi bị mưa xóa đi, những hôm như thế dân Thái Nguyên thường nghe thấy tiếng chuông hỗn loạn trong không khí, những tiếng chuông không tìm thấy đường về nơi ngủ cho nên buổi chiều kéo dài ra, dai dẳng, bứt rứt cho đến lúc chúng xác định được đường về đồi Côi Kê thì đêm mới bén mảng đến được…

Lão Bính lăng xăng từ sớm cho đến lúc chứng kiến nhát cuốc đầu tiên bổ xuống đào móng, mới chịu quay về chuẩn bị nấu ăn. Kỷ xắn tay áo lên tham gia đào. Cụ Điển giở chứng không dậy, nằm ườn bên nhà lão Bính. Trong cái khung nhà cũ, chỉ còn lại ông Điều vẫn im lặng ngồi cạnh chiếc bàn đặt giữa lòng nhà. Ông Phàn thợ cả ngồi uống nước cạnh ông Điều, liên tục rít thuốc. Cánh thợ hùng hục đào, từ một góc tỏa đi theo hình chữ nhật, sỏi đá bật lên, cứng đanh. Đào được khoảng mười lăm phút, Kỷ mỏi tay bỏ ra nghỉ. Ông Phàn bảo:

- Cụ cứ nhìn chằm chằm vào đống xi măng Kỷ ạ. Lạ lắm.

Kỷ cười lau mồ hôi, nhìn đống xi măng cao ngang mặt vẻ hoan hỉ, thoả mãn. Ông Phàn lại rít thuốc lầu bầu:

- Đất này là đất đồi chắc lắm,

Lão Bính xẹt sang nghẹo cổ ngắm tốp thợ, hai cánh mũi nhay nháy như đánh hơi hỏi ông Phàn:

- Cầu thang ở chỗ nào?

Ông Phàn lắc đầu:

- Giờ tôi còn chưa hình dung ra nữa là nói cho bác.

Lão Bính bĩu môi tự rót nước cho mình, tay bưng chén, tay gãi bụng chân sồn sột, Kỷ đẩy chén nước trước mặt ông Điều rồi quay ra giếng. Quanh nhà, gạch xếp thành kiệu vuông chằn chặn xen kẽ với những đống đá hộc màu xám hơi loang trắng. Tốp thợ tách làm đôi, nửa đào tiếp nửa nhào vữa để bắt góc, Đến mười rưỡi ông Phàn đặt được viên đá đầu tiên xuống góc móng và xây lên. Mười hai giờ mới được ăn cơm. Cánh thợ uống rượu như két, nhoáng cái đã hết ba chai sáu lăm. Ông Phàn bảo với Kỷ:

- Đất nhà mình cứng quá, cứ như sắt ấy, cho nên không cần phải đào sâu làm gì,

-Thế là tốt hả bác?

Kỷ tò mò hỏi. Ông Phàn gật đầu tuôn ra hàng loạt những trường hợp móng xấu mình đã gặp.

- Có những nhà, tôi phải đóng cọc hàng mét mà vẫn cứ thun thút như xuống bùn ấy. Sau, đành phải chống hai lớp lên lại độn cát với rơm xuống mới yên tâm được. Chậc, móng quan trọng lắm, nhiều cái làm ẩu tường chưa xây xong đã bị kéo lệch xuống vỡ đôi nhà y như bị chém ấy

Lão Bính ngà ngà chụm đầu vo ve lên tai một tay thợ.

Trăng sáng leo lẻo, soi rõ từng kiệu gạch, đống đá và những ụ đất mấp mô bên rìa hố móng. Đất xám dưới trăng ngả sang màu đỏ tía, thi thoảng lại lóe lên một vệt sáng vì mảnh thủy tinh bắt trăng. Kỷ đưa bố và ông sang nhà lão Bính ngủ, sau đó quay lại. Kỷ ngủ ngay nền nhà, giữa đất đá ngổn ngang để trông vật liệu. Nằm trằn trọc mãi Kỷ lại dậy vơ vơ vẩn vẩn đi rà soát từng đống gạch, từng chiếc cuốc. Khung cảnh ngổn ngang như một bãi chiến trường và Kỷ là người lính cuối cùng sót lại. Đôi ba tiếng chó sủa vu vơ, mơ mơ tỉnh tỉnh rồi tắt đột ngột. Ngoài bãi tha ma trong ánh trăng pha sương sền sệt, những con đom đóm lập lòe sáng làm không khí như một mặt sông lấp lánh. Kỷ ngửi thấy mùi đất, nó bốc lên từ móng nhà thành luồng và âm ấm. Kỷ cúi xuống nhặt một cục đất giơ lên ánh trăng. Cục đất phập phồng thở theo nhịp thở của Kỷ, nhịp thở hồi hộp giữa đêm khuya thanh vắng rờn rợn. “Giá như có Sơn ở đây’’ Kỷ thoáng nghĩ. Kỷ cần Sơn không biết vì lý do gì. Đột nhiên Kỷ thấy mình quá bé nhỏ trước đêm này, khung cảnh này. Kỷ đang phải gánh một trách nhiệm nặng nề về ngôi nhà, về bố, về ông, về tất cả mọi người. Hai chân Kỷ như muốn khuỵu xuống, ngực tưng tức. Không hiểu sao Kỷ lại chống hai tay, áp tai xuống nền đất và rùng mình khi nhận ra nó đang thở, dâng lên hạ xuống, đang cựa quậy. Một cái gì đó cuộn lên dưới lòng đất. Trán Kỷ vã mồ hôi, toàn thân co rúm lại lăn trên nền đất lổn nhổn. Bầu trời xanh thẳm mở ra hun hút. Những ngôi sao cùng với lũ đom đóm, cùng với tiếng mọt tạo thành sự nhức nhối điên dại, nó bóp nghẹt lấy tim Kỷ, siết mãi siết mãi… Kỷ cố gắng đứng dậy ra giếng rửa tay, khi ngẩng lên đã thấy lão Bính đứng trước mặt.

- Khó ngủ à?

Tiếng lão Bính khàn khàn lạc lõng, Kỷ gật đầu, Lão Bính kéo ghế ra giữa sân, nói nhỏ:

- Tôi cũng thế. Có cái gì lởn vởn trên nóc nhà, khó chịu quá.

Kỷ chép miệng:

- Ông cháu ngủ chưa?

- Rồi. Mai cánh thợ tự túc ăn à?

- Vâng.

- Mai tôi nấu cơm nếp, được không?

- Vâng. Qua loa thôi mà. Giá như có thằng Sơn thì đỡ một tý bác ạ.

Kỷ nói ra suy nghĩ của mình rồi thừ người, nhìn lơ mơ xuống chân. Lão Bính ậm è trong cổ, xòe bàn tay trước mặt bấm ngón tính toán:

- Tháng thì xong đấy nhỉ?

- Làm gì, hơn hai tuần thôi. Thợ khoán họ làm nhanh lắm.

Lão Bính lắc đầu:

- Hai tuần xong thế nào được. Đây nhé, móng mất đứt ba ngày, tường với khung mất hơn tuần, đúng chưa? Thế, trát một tuần nữa.

Kỷ cãi:

- Trát chỉ bốn ngày thôi.

Lão Bính gật đầu:

- Thì bốn ngày, thế đã không là hai tuần rồi à. Đổ trần một ngày này, chờ khô cũng đã một tuần này, vị chi là ba. Hoàn thiện tầng hai, lát nền các thứ, hơn một tháng mới tạm ổn. Tính dư dật thì khoảng tháng rưỡi

Kỷ buột miệng:

- Lâu nhỉ. Mới ngày đầu mà cháu tưởng như một tuần rồi không bằng.

- Làm nhà đâu phải dễ. Nó còn vất vả hơn cả lấy vợ ấy chứ lị.

Lão Bính ngừng bặt, câu nói đó chạm vào vết thương của chính lão, và của Kỷ nữa. Hai người rơi vào trạng thái bối rối khó xử. Im lặng một lúc lâu. Kỷ nghe thấy tim lão Bính đập thình thịch mỗi ngày một rõ, nó rền rền như tiếng trống. Ánh sáng dịch chuyển theo trăng và bóng đồ vật xoay tròn chậm rãi một cách huyền bí. Mây rất ít, chỉ vài ba vệt nhỏ mỏng như lụa. Lão Bính nhắm mắt chìm đắm trong tâm trạng hoang mang rạo rực. Có gì đó lùng nhùng trong các bóng tối ở cả bên ngoài lẫn bên trong đầu lão. Không ai bảo ai, Kỷ và lão Bính đều vùng đứng dậy cởi áo, vớ lấy cuốc nhảy xuống đào móng. Hai người đào hùng hục, điên cuồng, mồ hôi vã ra khiến cả người họ lấp lánh sáng. Tiếng cuốc bổ vào lòng đất dồn dập âm u, vang trong đêm tĩnh mịch lan xa khắp vùng.

Kỷ bỏ cuộc đầu tiên, vứt cuốc nhảy lên ngồi thở hồng hộc. Lão Bính vẫn liên tục vung cuốc, những nhát chắc nịch, cương quyết và nhẫn nại. Trăng chiếu sau lưng nên không nhìn rõ mặt lão, Kỷ chỉ thấy đôi tay đen chụm vào cán cuốc vung lên, hạ xuống. Kỷ đờ đẫn nhìn hình ảnh lão Bính, nhìn mãi, tim thắt lại khi nhận ra nó có nét của kẻ đào huyệt. Lão Bính bỏ cuốc vớ lấy chiếc xẻng hất đất lên bờ. Những vụn đất bay rào rào tạo thành tấm màn dày đặc, qua đó, ánh sáng chỉ còn thấp thoáng mờ ảo. Càng xuống sâu, hơi nóng càng bốc lên mạnh, những luồng hơi run rẩy, nghi ngút như nồi nước nóng vừa mở vung. "Nóng quá”. Lão Bính đột nhiên thều thào và khụy xuống.