← Quay lại trang sách

- 40 -

Ngày cuối cùng.

Đội Cấn nhìn bốn người còn lại xung quanh mình, lòng trống trải, rời rã. Đội Giá và Cai Xuyên cùng những người đi theo không biết sống chết ra sao. Có lẽ vài ba người trốn được, nhưng như thế việc cũng đã hỏng. Không còn con đường nào khác, Đội Cấn cau mày những nếp nhăn xô lại băm nát vầng trán ông, trông ông xẹp đi, hốc hác, già thêm hàng chục tuổi. Ba Nho nửa nằm nửa ngồi dưới một gốc cây lim to hai người ôm, mồm ngậm một cọng cỏ. Hai người lính nằm ngửa, vòng tay gối đầu súng gác ngang bụng ở tư thế vừa trễ nải, vừa sẵn sàng nhổm dậy. Đội Cấn cởi chiếc áo ka ki mốc meo vì lâu không giặt đưa cho Sĩ, tên này ôm nó vào lòng thái độ khó hiểu. Ba Nho đằng hắng:

- Quan Chánh, hay là ta cứ liều xuống dưới ấy.

Đội Cấn cau mày lại “Quan Chánh”, ông không thích cái tên gọi đó mặc dù tất cả binh sĩ đều nhất loạt gọi ông vậy. Đội Cấn không trả lời, tiếp tục tháo chiếc ống nhòm đưa cho Sĩ. Nó là vật đã theo ông từ lúc khởi cuộc, qua bao phen binh lửa. Tên Sĩ đeo chiếc ống nhòm vào trước ngực, nhưng thấy hành động đó có vẻ thất thố, hắn vội vã chuyển nó chéo qua người.

- Cầm lấy, nó có một chút giá trị cho ngươi đấy.

Giọng Đội Cấn vẫn từ tốn, nhã nhặn nhưng rõ ràng không còn mấy cảm xúc nữa, Ba Nho nhận ra điều ấy. Qua giọng nói có thể biết được tất cả. Khi chạm tay vào khẩu súng ngắn thì Đội Cấn chần chừ, sau đó ông vẫn để nguyên nó đeo ngang người. Báng súng thò ra với chất gỉ nâu bóng, Ba Nho nhìn Đội Cấn, ông linh cảm có gì đó không ổn. Không phải sự bại trận, mà cao hơn, cái chấm dứt cả sự bại trận lẫn ý chí, Ba Nho hơi nhổm dậy, hai người lính cũng nhổm dậy như có một mệnh lệnh vô hình, Sĩ vẫn đứng như trời trồng, tay ôm áo tay giữ can, vai đeo chéo cái ống nhòm và lá cờ ngũ tinh quấn ngang bụng, Đội Cấn nheo nheo mắt ngắm Sĩ rồi bật cười. Trông hắn như kẻ vơ vét, Rõ ràng trận chiến đã tàn. Ý nghĩa cuối cùng này làm nhói lòng Đội Cấn, ông chạnh nhớ tới Lương Lập Nham,

- Quan Chánh,

Ba Nho rụt rè, Đội Cấn từ từ ngoảnh sang:

- Đừng gọi ta thế,

- Vâng... thưa ngài Đội

- Ta cũng không thích cái tên đó. Gọi ta là Đại đô đốc.

Ba Nho líu lưỡi, toàn thân anh ta nổi da gà, bên dưới tiếng kèn của quân Pháp rúc lên lanh lảnh. Đội Cấn đứng dậy, ông đi lại trước mặt bốn người, tiếng chân giẫm lên lá khô và cành mục răng rắc, Mái tóc của Đội Cấn hơi dựng lên, đôi mắt long lanh, gò má lõm sâu bên trong. Trán Đội Cấn lại nổi gồ thành múi,

- Ba Nho, sau đó các anh nên xuống dưới ấy đầu hàng...

- Sau đó là khi nào?

Ba Nho hỏi lại, mặt bệch ra.

- Ngay bây giờ.

Đội Cấn đáp nhẹ, sắc. Chỉ tiếng lá rơi rì rào trên đầu, chỉ một mảnh trời thấp thoáng sau tán lim già cỗi.

Bảy ngày lâm sự, máu lửa, sau đó là rừng núi, đói rét và mất ngủ. Mình ở đâu? Trong cơn loạn lạc, chỉ sểnh một tý, ta đã mất mình. Giờ mình còn ở nơi ấy hay đã về quê? Ta có lỗi với mình. Cả Thấu, Hai Vịnh, họ đã hy sinh, đã ngã xuống trước mặt ta với tiếng rống kinh hoàng.

Ba Nho đứng lên:

- Thưa Đại đô đốc, tôi nghĩ chúng ta cứ liều chết phá vây, đằng nào cũng là thế cùng rồi, không nên chết vô ích ở đây.

Đội Cấn ậm ờ gật đầu, những ý nghĩ xáo trộn trong ông. Đại sự không thành không phải ở ta, cũng không phải ở Lập Nham. Đó là mệnh trời.

- Tôi xin xung phong xuống trước, nổ súng thu hút bọn Pháp về một hướng. Đại đô đốc và anh em đi vòng phía sau.

Tiếng Ba Nho khi cao khi thấp, bị kích động. Lá vẫn vỗ rì rào trên đầu. Một mảnh trời le lói. Tiếng kèn đồng vẳng phía dưới.

Đội Cấn đổi chân cho đỡ mỏi, một bên mép ông giật giật Từ khi tút về Tam Đảo, rồi lộn về vùng này, đêm nào ta cũng mơ thấy mình. Mình gầy, xanh xao, không nói gì, chỉ nhìn ta rồi bỏ đi. Bao đêm đầu gối tay ấp, mình đã rủ rỉ với ta về tự do, ta biết, mình nói hộ người khác... Bản thân mình cũng chưa hiểu tự do là gì. Lập Nham dạy mình từng lời ăn tiếng nói khi tiếp xúc với ta. Ta biết, nhưng ta yêu mình.

- Không nên chần chừ nữa, thưa Đại đô đốc. Tôi xin ngài.

Ba Nho nói nhấn từng câu một. Hai người lính quỳ sụp xuống, tên Sĩ cũng vội vàng quỳ theo. Ba Nho vẫn đứng, ông không quỳ, không bao giờ mặc dù trước mặt ông là Đội Cấn, vị chủ soái của Quang Phục quân. Tù chính trị không quỳ bao giờ. Đội Cấn giật mình lùi lại mấy bước.

- Đứng cả lên, nhanh lên, ơ kìa, hay thật.

Bốn người nhìn Đội Cấn, cái nhìn chờ đợi lời phán quyết cuối cùng. Ba Nho thu hết tinh thần nói nhanh:

- Đại đô đốc xin hãy quyết định đi.

- Ta đã quyết. - Đội Cấn phẩy tay - Các anh phải xuống đầu thú.

Cả bốn người đều rên lên. Đội Cấn rút khẩu súng ngắn đeo bên hông ra đưa cho Ba Nho rồi đi ra sát gốc lim:

- Hãy giúp ta, Ba Nho. Ta xin anh.

Hình ảnh Lương Lập Nham vụt hiện lên trong đầu Ba Nho, anh ta lắc đầu buông rơi khẩu súng xuống đất, nó bị chìm vào lớp lá khô. Đội Cấn quắc mắc:

- Ta ra lệnh cho anh, Ba Nho.

Im lặng. Đội Cấn bước nhanh trở lại nhặt súng và đi chếch qua mặt bốn người thủ hạ của mình. Ba Nho nhìn thấy gò má nhô cao của vị đại đô đốc bỗng ướt. Ông ta đã khóc. Một tiếng nổ trầm như ở trong hang. Đội Cấn gập người ôm bụng, khẩu súng rơi xuống chân ông cùng với máu. Không ai kịp phản ứng, không ai kịp thốt lên một lời nào. Đội Cấn chếnh choáng bước lên phía trước hai bước, mặt ngửa lên trời mắt trợn ngược, môi há ra để lộ đôi hàm răng cắn chặt vào nhau. Sau đó ông ngã xuống chậm chạp vụng về như đứa trẻ mới tập đi. Không ai đỡ nổi đứa trẻ đó. Lập Nham thì đang chìm trong yên tĩnh bất tận. Ba Nho quay lại nói nhỏ:

- Hết thật rồi. Ta cũng đi thôi.

Đó là ngày 11 tháng 1 năm 1918.

Sau khi ra đầu thú với người Pháp, Sĩ có khai rằng chính hắn đã hạ thủ bốn người ấy để trả thù cho anh mình. Công sứ Đa-lét không tin vào lời khai đó nhưng cũng chẳng có chứng cớ để phủ nhận. Dù sao thì Đội Cấn cũng đã chết, ông ta đã được chôn chung với Ba Nho và hai người lính cuối cùng của mình. Cho đến một hôm khi Sĩ đang ngồi nhai cơm có kẻ lạ mặt đến rỉ tai hỏi xem có đúng là hắn đã bắn Đội Cấn không thì Sĩ đập vỡ cái bát hộc lên:

- Cha mày, ai dám hạ thủ ông ấy!

Kẻ kia thở phào quay đi cùng với con dao chọc tiết lợn giấu trong tay áo.