Chương 19
‘Nếu ông phạm sai lầm và rơi vào tay hắn, ông sẽ cầu cho mình chết thật nhanh,’ Delacroix đã nói như thế.
Genko không ngại chuyện chết ngay, vì ông đã mang án tử sẵn rồi.
Dẫu vậy, khi nghe tới chuyện những tên tội phạm như Bunny không hứng thú với việc giết chóc, ông vẫn cảm thấy rờn rợn. Bởi lúc ở trang trại Wilson, khi ông bị mắc bẫy với cánh cửa bị khóa và hắn đã đuổi sát phía sau lưng, Bunny đã do dự không bắn ông.
Hắn muốn mình sống, Genko nghĩ trong lúc đi tìm chiếc Saab trong bãi đậu xe của đồn cảnh sát. Hắn muốn lôi mình xuống căn hầm tối trở lại. Và cho mình thấy hắn có thể làm những gì.
Genko vào trong xe và chờ ít lâu trước khi nổ máy. Ông đã không ngủ từ bao giờ? Ông cảm thấy kiệt sức. Tách cà phê ở Q-Bar không còn hấp dẫn nữa, ông chán chạm mặt cảnh sát lắm rồi. Ông có thể ghé qua nhà Linda và nhờ chị làm bữa sáng cho. Thậm chí ông có thể ngả lưng chợp mắt một chút trong sự canh chừng của bầy kỳ lân. Đó có vẻ là một ý tưởng không tồi: Có lẽ chị đang rất lo lắng vì ông chưa liên lạc lại. Làm cách nào bây giờ? Ví và điện thoại của ông đang nằm trong tay Bunny. Nhưng may mắn thay, ông đã lấy được thứ quan trọng nhất từ trang trại Wilson.
Thò tay vào bên dưới ghế hành khách, ông lôi cuốn truyện tranh ra. Chú thỏ thân thiện tặng ông một nụ cười ghê rợn.
Chẳng cần là chuyên gia trong lĩnh vực truyện tranh, Genko cũng thấy trên bìa sách chỉ có mỗi cái tựa. Bìa sau hoàn toàn không có gì. Ông xem trang trong và không tìm thấy thông tin của nhà xuất bản hay nhà in. Giá và mã vạch cũng không có nốt. Lạ nhỉ, ông nghĩ bụng. Ông tin chắc có điều gì đó ẩn giấu trong nguồn gốc của cuốn sách. Thế nên ông tạm quên Linda và những con kỳ lân của chị: Ông cần phải tìm cho ra ý nghĩa của cuốn truyện tranh. Thật mau chóng.
Bunny vô hình đối với người lớn. Chỉ bọn trẻ con mới có thể nhìn thấy nó.
Ông nổ máy và bắt đầu đi vào thành phố.
Mới ngoài sáu giờ sáng mà phố phường đã thưa vắng người đi. Các ma cà rồng đã quay vào nơi trú ẩn để tránh ánh mặt trời. Genko lái xe qua cầu. Thường thì giao thông vào giờ này rất kinh khủng và những chiếc xe hơi di chuyển với tốc độ của ốc sên. Nhưng cái nóng đã giúp thành phố giảm bớt sự hỗn loạn và náo nhiệt: Chỉ chưa đầy mười phút sau ông đã có mặt tại nơi cần đến.
Chiếc Saab tỏ ra khá lạc lõng giữa đại lộ rợp bóng cây của khu dân cư thời thượng, vốn là nơi gặp gỡ của các nghệ sĩ tự do và dân trí thức trước kia, nhưng giờ chỉ toàn những kẻ mới phất hoặc đám hậu duệ của giới thượng lưu.
Genko đậu xe cạnh một tòa nhà ba tầng màu trắng được xây từ đầu thế kỷ hai mươi. Trên một tấm biển bằng nhựa có đề dòng chữ nổi màu bạc: Gallery mỹ thuật M.L.
Những ô cửa sổ lớn nhìn ra đường lúc này được che bởi một lớp rèm xám dày, có lẽ nhằm bảo vệ các tác phẩm nghệ thuật khỏi thời tiết nắng nóng.
Trước khi gõ cửa, Bruno rà soát lại trang phục của mình. Trong những hoàn cảnh khác, đứng giữa môi trường sang trọng như thế này bộ dạng bèo nhèo sẽ không giúp ông đạt được thông tin mình muốn, nhưng lần này ông có thể trông cậy vào mối quan hệ thân tình của mình.
Cửa ra vào được mở ra bởi một ông già với mái tóc bạc chải lật ra sau gọn ghẽ và cặp kính lão ngự trên chóp mũi. Bất chấp thời tiết nóng bức, Mordecai Lumann trông vẫn hoàn hảo như thường lệ: áo vest màu xanh hải quân, áo sơ-mi có ve cổ được cài bằng cặp khuy nhỏ, cà-vạt đỏ thắm, quần tây xám và giày lười màu đen. Ông ta cũng không quên cài một chiếc khăn tay sặc sỡ nơi túi áo ngực. Lumann nhìn Genko từ đầu xuống chân.
“Bruno Genko!” Ông ta thốt lên ngay khi nhận ra người quen. Họ đã không gặp nhau ba năm nay.
“Tôi không đánh thức ông dậy đấy chứ?” Genko hỏi, dù biết thừa ông già không thể nào nằm ngủ với trang phục chỉnh tề như thế này.
“Tôi không ưa chuộng cuộc sống về đêm như mọi người. Ngoài ra tôi còn bị mất ngủ.” Ông già dịch người sang một bên. “Xin mời vào.”
Genko theo chân ông già đi vào trong tòa nhà, xuôi theo một hành lang có tường màu xanh lục sẫm và ốp ván trắng.
Trong quá khứ, Lumann từng nhờ Genko giải quyết một vấn đề gia đình khá tế nhị. Một cậu cháu trai hơi hoang đàng của ông đã đánh cắp một tác phẩm nghệ thuật rất có giá trị để trả món nợ thua bạc. Nhằm tránh làm chị mình phiền lòng, ông cậu đã quyết định không báo cảnh sát. Genko đã tìm thấy thanh niên kia trong khách sạn của một sòng bạc lớn. Sau khi xác định anh ta vẫn còn giữ thứ đã trộm, ông giả làm một người môi giới nghệ thuật muốn xuống tiền đầu cơ. Sau khi lấy được tác phẩm đó, ông đã trả nó về chỗ cũ.
“Anh dùng trà nhé?” Lumann hỏi.
Giọng điệu của ông già khô khan nhưng thái độ lại trìu mến.
“Vâng, cảm ơn ông.”
Họ đi vào một gian phòng rộng, nơi trưng bày các tác phẩm nghệ thuật. Lumann không phải là một chủ gallery bình thường. Ông không quan tâm các tác phẩm hội họa hay điêu khắc, mà chỉ mua bán truyện tranh và sách tranh. Các bộ truyện siêu anh hùng và truyện tranh Nhật Bản là điểm nhấn độc đáo trong bộ sưu tập của ông.
Trong một góc phòng, Lumann bật ấm đun siêu tốc để pha trà. Trong lúc đó, Genko lững thững dạo xem các tác phẩm gốc được trưng bày. Hiện chỉ có năm tác phẩm được bày bán, nằm trên các giá vẽ.
“Hàng ít, nhưng chất.” Lumann nói thay suy nghĩ của Genko.
Ông thám tử tư tiến lại gần một bức tranh để quan sát kỹ hơn. Đó là trận chiến giữa một cậu bé ninja có đôi mắt to khác thường và đám quái vật robot.
“Đó là trận đánh cuối cùng của nhân loại.” Lumann giải thích. “Đỉnh cao của cuộc chiến, trận chung kết giữa con người và sản phẩm cao cấp nhất của trí tuệ loài người: những cỗ máy. Anh hãy để ý cách họa sĩ vẽ những con robot: trông chúng gần giống như những vị thần. Còn cậu ninja trẻ tuổi là người mang trên vai di sản vinh quang của nhiều thế kỷ.” Ông già bước đến cùng với hai cái tách bốc khói. “Tôi biết đây không phải là thức uống phù hợp nhất cho tiết trời nóng nực, nhưng trà đá đối với tôi cũng giống như một sự báng bổ.”
Lumann đưa cho ông một tách trà.
“Tôi có thể giúp gì được anh đây, Genko?”
“Cũng không có gì đặc biệt.” Ông đáp để giảm bớt tầm quan trọng của câu chuyện. “Tôi đang cần một ý kiến.”
Một tay giữ cho tách trà nóng hổi nằm yên trên chiếc đĩa lót, tay kia ông luồn vào trong túi áo và lôi cuốn truyện tranh về thỏ Bunny ra.
Lumann đang giơ tay định cầm cuốn truyện thì đột ngột khựng lại. Genko nhận ra vẻ kinh ngạc trên gương mặt ông già.
“Thật không thể tin nổi.” Lumann thốt lên và đặt tách trà xuống một cái bàn nhỏ. Đoạn, ông lần tìm trong túi và rút ra đôi găng vải màu trắng, xỏ vào tay, trước khi nhẹ nhàng đỡ lấy cuốn truyện. “Lại đây với tôi nào.”
Genko theo chân Lumann đi vào một căn phòng nhỏ phía sau gallery, nơi được ông ta dùng làm thư phòng. Ông thấy ông ta đặt cuốn truyện tranh lên một cái giá kê sách, bật đèn bàn và chiếu ánh sáng vào trang bìa. Sau đó, ông ta bắt đầu cẩn thận lật xem bên trong.
“Tôi đã nghe nói về chúng, nhưng chưa một lần được xem tận mắt.”
Genko vẫn chưa hiểu được lí do của toàn bộ chuyện này, vì cuốn truyện hình như chỉ là bản in hàng loạt. Nhưng sau phản ứng ban đầu của ông già, ông nhận ra mình đã đúng khi đem Bunny tới chỗ Lumann thay vì một người bán truyện tranh bình thường.
Ông chủ gallery dường như chìm đắm vào những trang truyện, trong lúc ngón tay ông lướt trên các hình vẽ với sự ngưỡng mộ của một nhà sử học dành cho món cổ vật quý báu và niềm phấn khích của một đứa trẻ được đọc cuốn truyện tranh mua bằng tiền tiêu vặt.
“Thỏ Bunny.” Ông thốt lên, như một lời chào. “Nhiều người trong số các đồng nghiệp của tôi cho rằng đó chỉ là một huyền thoại… Chính tôi cũng đã nghi ngờ…”
“Xin lỗi phải ngắt lời ông, nhưng nghi ngờ chuyện gì cơ? Ông giải thích giúp tôi được không?”
“Đơn giản thôi, cuốn truyện này không nên tồn tại.”
Genko chưng hửng.
“Ý ông là sao?”
“Chất lượng in ấn, loại giấy sử dụng và phương pháp đóng gáy cho thấy nó được xuất bản vào thập niên 1940. Thật vậy, Thỏ Bunny là một thử nghiệm xuất bản vào thời kỳ đó. Đó là một giai đoạn vô cùng xáo trộn của giới làm truyện tranh, nên để thu hút thêm độc giả, các nhà xuất bản phải cố gắng tìm kiếm những hướng đi mới.”
“Tôi chưa bao giờ nghe nói về nhân vật này.”
“Làm sao mà anh nghe được!” Lumann đáp. “Bunny có một đời sống khá ngắn ngủi: Cũng giống như nhiều trường hợp của thời đó, do thiếu vắng sự thành công nên nó đã nhanh chóng chìm vào quên lãng.”
“Và theo thời gian, những bản in của nó trở thành món hàng hiếm, được săn lùng, đúng không?” Genko hỏi, trộm nghĩ rằng hơn bảy mươi năm sau, giá trị của cuốn truyện tranh hẳn phải tăng đáng kể nhờ sự điên rồ của các nhà sưu tập.
“Không hẳn như thế.” Lumann đính chính. “Bộ truyện Thỏ Bunny không hề hiếm, anh có thể dễ dàng tìm thấy chúng trong một cửa hàng sách cũ. Ngoại lệ duy nhất là tập truyện mà anh đem đến đây hôm nay.” Ông trả nó lại cho Genko, mắt long lanh. “Đây là đồ ngụy tạo.”
“Không có tên tác giả, họa sĩ, nhà xuất bản lẫn nhà in.” Genko nói. “Không có manh mối gì về nguồn gốc của nó.”
“Và càng rõ ràng hơn trong trường hợp của một cuốn truyện tranh: Không có số xê-ri.” Lumann bổ sung. “Điều này có nghĩa rằng nó không phải một phần của bộ truyện. Nó là độc bản.”
“Như vậy giá trị của nó càng cao chứ? Tôi chưa hiểu.”
“Genko à, đây không phải vấn đề tiền bạc.” Lumann gỡ kính lão và rút chiếc khăn tay trong túi áo ra lau. “Cho dù tôi tin rằng có người sẵn sàng trả một khoản tiền lớn để sở hữu nó, điểm đặc biệt của cuốn truyện này không nằm ở chỗ nó là độc bản… mà nằm ở mục đích của nó.”
“Mua vui cho bọn trẻ con á?” Genko vô tư hỏi lại.
“Anh có chắc không? Anh không nhận thấy điều gì đặc biệt khi xem nó à?”
Câu hỏi khiến Genko ngơ ngác.
“Trong truyện, chỉ bọn trẻ con mới nhìn thấy được con thỏ.” Ông đáp. “Người lớn thì không.”
“Thế anh nghĩ nguyên nhân là do đâu?”
Genko không biết phải nói gì.
Trong lúc đó, Lumann đã tiến đến bàn làm việc của mình.
“Anh không thấy nó xấu à?” Ông già vừa hỏi vừa lật giở một số tờ giấy trên bàn. “Tranh vẽ và lời thoại rất tệ.”
“Vâng.”
Cuối cùng Lumann đã tìm ra thứ cần tìm. Ông quay lại với một chiếc gương nhỏ hình chữ nhật.
“Mỗi thời kỳ đều có tư duy thẩm mỹ riêng, và đôi khi ngay cả sự xấu xí cũng được coi là đẹp. Anh có đồng ý với tôi không?”
Genko nghĩ đến tác phẩm của Hans Arp trong phòng làm việc nhà mình. Không phải ai cũng xem nó là một tác phẩm nghệ thuật. Nó đòi hỏi một gu thẩm mỹ khác thường. Có lẽ ông đã phạm chính sai lầm đó khi phán xét về thỏ Bunny.
“Ông nghĩ con thỏ này là nghệ thuật à?”
Lumann bỗng nghiêm sắc mặt.
“Không, bạn tôi ơi, không hề.”
Nói đoạn ông già tiến đến giá kê sách và đặt chiếc gương vào đường chéo của một trang ngẫu nhiên.
“Anh tự nhìn đi.”
Genko từ từ tiến lại gần và ông nhìn thấy ngay.
Trong gương, những nét vẽ trẻ con vụng về trở nên khác hẳn. Biểu cảm tươi cười và dễ thương của Bunny dại đi. Con thỏ với đôi mắt trái tim lúc này đang làm tình với một phụ nữ. Genko lặp lại thử nghiệm chiếc gương với những trang truyện khác. Bunny luôn xuất hiện trong những tình huống tục tĩu, được làm nóng thêm với vẻ bạo lực và tàn ác. Dùng đồ vật, dây trói, cùng những trò bạo dâm tột độ khác.
“Khiêu dâm.” Genko thốt lên và nhớ đến cảm giác khó chịu của mình khi lần đầu tiên xem qua cuốn truyện, dù không hình dung được nội dung ẩn chứa của nó.
“Vẽ tranh qua gương là kỹ thuật đồ họa được sử dụng từ thế kỷ mười chín, nhưng nó trở nên thời thượng trong một giai đoạn ngắn ở thập niên 1940.” Lumann giải thích. “Nó vẫn còn được sử dụng trong một số sách tranh hiện nay để che giấu một cốt truyện song song hoặc một ẩn ý. Một vài nhà sưu tập thích săn tìm những thứ ‘bất thường’ như vậy.”
“Ban nãy ông có nhắc đến một mục đích. Ý ông là sao?”
Lumann hít một hơi sâu.
“Tôi đã dành cả đời mình cho truyện tranh, vì đối với tôi chúng là những tác phẩm của niềm vui: Nghề của tôi là tư vấn cho các nhà sưu tập trong việc mua một tác phẩm nghệ thuật, nhưng tôi biết động cơ thực của họ là khao khát được quay trở về thời thơ bé, hoặc tuổi thiếu niên.” Ông ngừng lời. “Do vậy, thành thực mà nói, tôi không biết điều gì có thể đưa người ta đến chỗ tạo ra một thứ như thế này.” Lumann chỉ vào cuốn truyện tranh.
Chỉ bọn trẻ con mới có thể nhìn thấy Bunny.
Lumann đóng cuốn sách lại và trả cho Genko.
“Sự tò mò của tôi chấm dứt tại đây. Nhưng nếu anh muốn nghe lời khuyên từ một người bạn thì theo tôi, anh nên tống khứ nó đi càng sớm càng tốt.”
Tôi không thể làm thế, Genko những muốn đáp lại. Ông phải trả món nợ mà ông đang nợ Samantha Andretti, sau thỏa thuận với cha mẹ cô mười lăm năm về trước. Nhưng điều đó cũng buộc ông phải đối diện với quá khứ của chính mình. Cùng với chiếc phong bì đang cất trong két sắt của phòng 115 khách sạn Ambrus. Ông đã yêu cầu Linda tiêu hủy nó sau khi ông chết. Nhưng ông vừa mới đổi ý.
Trong lúc được Lumann tiễn ra cửa, Genko đã quyết định giờ là lúc ông mở nó ra.