Chương 26
Nói chuyện với Simon Berish cũng gần giống như một sự thanh tẩy.
Việc kể ra các chi tiết điều tra cho phép Genko chia sẻ mối lo ngại của ông về Robin Sullivan. Giờ thì ông đã trút bỏ một phần năng lượng tiêu cực tích lũy bấy lâu và cảm thấy có thể bắt đầu lại.
Chúng không biết mình là quái vật.
Genko cứ nhẩm đi nhẩm lại câu nói của Mila Vasquez mà Berish đã trích dẫn, trong lúc lái chiếc Saab đi qua những con phố của nơi từng là một khu dân cư lao động, với những dãy nhà gạch và hàng cây hai bên đường. Ở đây ai cũng biết nhau, bạn có thể sống trong sự chan hòa, nuôi dạy con cái và mơ về một tương lai yên bình. Thế rồi cuộc suy thoái vào cuối thập niên 1970 đã dập tắt những ước mơ và dự định tốt đẹp. Tình hình kinh tế rối ren tiếp sau đó cộng với cuộc khủng hoảng sản xuất công nghiệp đã cuốn phăng mọi ảo tưởng và khu vực này đã nhanh chóng thay đổi, trở thành thứ mà ông đang thấy trước mắt.
Một khu tạp cư ngoại thành.
Khu phố này cho cảm giác thân quen đối với Genko. Cho dù chưa bao giờ đặt chân tới đây, ông đã trông thấy nó trong những bức vẽ đính kèm bản đánh giá tâm lí của R.S.
Đây là nơi mọi chuyện bắt đầu, ông nghĩ bụng. Và cũng có khả năng là nơi chấm dứt tất cả.
Vào giữa trưa, dưới tấm áo choàng oi bức bóp nghẹt cả thành phố, Genko lái xe với kính cửa sổ hạ hết xuống và đưa mắt nhìn quanh. Khung cảnh thật buồn tẻ. Cửa hàng cửa hiệu đóng cửa vì ế ẩm, rác rến vương vãi khắp nơi, tường đầy những dòng chữ viết bậy. Các tòa chung cư đã trở thành khu nhà tập thể, nhiều gã đàn ông đang đi lang thang ngoài đường, dấu hiệu cho thấy tình trạng thiếu việc và cách duy nhất để họ cầm cự là tham gia vào những đường dây buôn lậu, hoặc tìm quên trong men rượu.
Khu vực này đã xuống dốc từ cái thời Robin Sullivan còn là đứa trẻ, nên ông biết Samantha Andretti sống trong bối cảnh còn tệ hơn. Sau khi cô mất tích, bố cô đã bỏ đi để tìm việc làm ở nơi khác. Ông không mấy ngạc nhiên khi kẻ bắt cóc và nạn nhân có xuất thân từ cùng một môi trường. Tất cả những kẻ săn mồi đều chọn bãi săn là những địa bàn quen thuộc. Về cơ bản, đó là quy luật tự nhiên.
Là một thám tử tư, Genko đã quá quen với xu hướng quay về nguồn cội của người khác. Những gã tội phạm nguy hiểm, những kẻ đào tẩu bị truy nã bởi phân nửa lực lượng cảnh sát trên thế giới, những tên lừa đảo khôn ngoan đến nỗi có thể rút ruột cả những tập đoàn đầy quyền lực: Tất thảy đều có một điểm chung.
Không ai cưỡng lại được khao khát trở về nhà.
Nhiều tên trong số đó đã từng có một tuổi thơ dữ dội, liên tục vào ra các trường giáo dưỡng, hoặc từng trải nghiệm bạo lực gia đình khủng khiếp. Tuy nhiên, cho dù chúng căm ghét cái nơi mình sinh ra, vẫn luôn có một điều gì đó đưa chúng quay trở về. Nó giống như một nghi thức hòa giải, như thể chúng sợ quên mất mình là ai và mình từ đâu tới.
Có lần, Genko truy tìm một kẻ đã lừa đảo một công ty đa quốc gia. Trong vài năm liền, hắn đã bòn rút số tiền lên đến hàng triệu. Để lấy lại tiền, công ty đã thuê hẳn ba thám tử. Họ có chưa đầy hai mươi bốn giờ để bắt tên lừa đảo trước khi hắn vĩnh viễn xóa sạch mọi dấu vết. Là một kẻ lọc lõi, hắn đã dự trù một lối thoát chắc chắn qua việc thay đổi danh tính và liên tục cắt đuôi.
Trong khi hai người đồng nghiệp theo dấu kẻ đào tẩu và hình dung ra các kịch bản để đón lõng hắn, Genko đi tìm hiểu về quá khứ của hắn, cái thời mà hắn chỉ là một tên trộm vặt trong khu phố. Nhờ một tấm ảnh cũ, ông phát hiện hắn đã được bà nội nuôi dạy và bà vừa mất vài năm trước đó. Ông đã tìm đến nghĩa trang nơi bà được an táng và chờ đợi. Vài giờ sau, khi bình minh ló dạng, ông thấy một gã đàn ông mặc áo mưa, đội mũ và đeo kính đi lững thững giữa các ngôi mộ. Trước khi ra về, kẻ lạ mặt đi ngang qua ngôi mộ Genko đang giám sát và lơ đãng thả rơi một đóa hoa. Ông đã tóm cổ tên lừa đảo ngay lập tức.
Thật vậy: Bạn có thể từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng chốn ấy không bao quay lưng với bạn.
Cũng chính bởi lí do ấy mà mỗi khi phải tìm bắt ai đó, điều đầu tiên ông làm là liên hệ với bạn bè hay họ hàng của kẻ bị truy lùng và xin một album hình gia đình, hoặc cuốn kỷ yếu của nhà trường. Ông luôn tìm kiếm trong những tấm ảnh một chi tiết mà không biện pháp cải trang hay phẫu thuật thẩm mỹ nào có thể xóa được. Thế nên ông đã cất công đến tận Minh Phủ để tìm một tấm ảnh chụp Robin Sullivan ngày còn bé. Cảnh sát truy lùng một gã làm vườn đi chiếc xe thùng màu xanh hiệu Ford và có một vết bớt trên mặt, còn ông thì khác, ông đi tìm cậu bé thích chơi đá bóng.
Hắn vẫn còn ở đây.
Nếu như, mười lăm năm trước, Robin đã chọn khu phố nơi mình sinh ra để bắt cóc nạn nhân nữ trẻ tuổi, thì đó càng là lí do cho thấy nó là nơi tốt nhất để hắn lẩn trốn và tìm kiếm sự đồng lõa.
Hắn biết địa bàn của mình, hắn hiểu cần trốn ở đâu.
Genko đã cam đoan với Bauer và Delacroix rằng ông sẽ không đi tìm con quái vật. Nhưng có điều gì đó đã thay đổi sau chuyến viếng thăm Minh Phủ của ông. Một thứ mà ông đã không tính đến, làm ông quên đi viễn cảnh xuống mồ và cảm thấy mình còn sống. Bản năng săn mồi xưa cũ.
Loài thú khó săn nhất là con người. Và ông, cũng giống như Robin Sullivan, là một kẻ đi săn.
Có gì đó mách bảo ông rằng sự thật cuối cùng về Bunny không ở quá xa những ngôi nhà vô chủ và bầu không khí hôi hám này. Có lẽ hắn đã sai vợ của Forman chuyển lời chào để cho biết rằng hắn đang ở rất gần, ông tự nhủ. Có lẽ hắn đang ẩn mình quan sát, ngay ở đây, vào lúc này, và chờ thời điểm thích hợp để xuất hiện.
Chúng không biết mình là quái vật.
Đúng lúc ấy, ông phát hiện một sân bóng nhỏ rất giống với sân bóng trong tấm ảnh chụp Robin và cậu bạn tóc xoăn răng sún.
Nó nằm ở phía sau lưng một nhà thờ. Căn cứ theo tấm biển đề trên cổng, đó là nhà thờ Santissima Misericordia.
Bên cạnh chính điện có một khu vườn với hai chiếc bập bênh và một cầu tuột dưới bóng một cây đoạn lớn. Genko trông thấy một linh mục trẻ tay áo xắn tận khuỷu đang loay hoay sửa ống nước với một chiếc cờ lê. Ông lái xe đến gần anh ta và bước xuống.
“Vậy ra ông lớn lên ở đây.” Linh mục trẻ tuổi nói trong lúc vẫn khom lưng sửa ống nước.
“Đã lâu lắm rồi. Bố mẹ tôi đi khỏi nơi này năm tôi mười bốn tuổi.” Genko đáp để củng cố cho vỏ bọc dối trá của mình. “Tôi về thành phố có việc, và bỗng cảm thấy muốn thăm lại chốn xưa.”
“Tôi thì sinh ra và lớn lên ở miền bắc, tôi chỉ mới được cử đến đây hai năm trước.”
“Vâng, tôi còn nhớ hồi thập niên tám mươi chỗ này do một linh mục khác phụ trách.”
“Cha Edward.” Linh mục trẻ tuổi đáp trong lúc cố siết một cái van. “Cha qua đời năm 2007.”
“Phải rồi, cha Edward.” Genko ra vẻ buồn bã. “Cha có biết ông ấy không?”
“Không, đáng tiếc là không, nhưng đức giám mục bổ nhiệm tôi về đây đã kể khá nhiều về cha Edward. Cha làm cha xứ ở đây lâu đến nỗi mọi người trong vùng ai cũng biết.”
Anh ta cất cờ lê vào trong hộp dụng cụ, rồi đứng lên và bắt đầu thả tay áo xuống.
“Cha Edward là một người rất nổi tiếng ở đây.” Genko gật gù. “Nếu ông ấy mất năm 2007 thì tôi nghĩ cha vẫn còn phụng sự Chúa vào thời điểm cô gái đó mất tích. Cái cô mà họ đưa tin trên ti-vi ấy… Samantha Andretti.”
Vị linh mục trẻ nhíu mày.
“Chắc chắn cha Edward sẽ rất mừng rỡ nếu được biết cô gái ấy vẫn còn sống. Giáo dân có kể với tôi rằng cha chưa bao giờ ngừng tin điều đó, vì vậy mà nhiều người nói cha mất trí. Ông biết không, năm nào cha cũng làm lễ cầu nguyện cho cô gái và bảo mọi người hiệp thông cầu nguyện cho cô sớm quay về.” Anh ta bắt đầu thu dọn các vỏ lon và ống hút trên bãi cỏ. “Cha đã hi vọng cho đến phút cuối rằng có người sẽ tiết lộ điều gì đó trong lúc xưng tội. Một người họ hàng đa nghi của kẻ bắt cóc, hoặc một kẻ đồng lõa.”
“Tôi nghe nói Vatican có một kho lưu trữ tất cả những tội lỗi nguy hiểm nhất từng được tiết lộ trong lúc xưng tội.” Genko nói để không tỏ ra quá quan tâm vào chủ đề cô gái kia.
Vị linh mục trẻ tuổi lắc đầu, cười nhẹ.
“Mỗi lần nghe thêm một câu chuyện nữa về các bí mật của Vatican, tôi lại nghĩ sao người ta có thể dễ bề quên đi sứ mạng cao cả mà Chúa đã giao phó cho nhà thờ của Ngài.”
“Cha nói phải.” Genko lập tức xin lỗi và làm ra vẻ bối rối.
Linh mục trẻ đã hoàn tất việc dọn sạch khu vườn nhỏ và bỏ rác vào một cái thùng nhựa lớn màu đen. Anh ta dùng mu bàn tay quệt mồ hôi trán, rồi quay sang ông và nói:
“Tôi còn giúp được gì cho ông không?”
“Ơ… Tôi muốn thăm lại vài người bạn cũ, nếu họ vẫn còn ở đây.”
“Tôi không biết làm sao có thể giúp được ông. Như tôi đã nói, tôi đến đây chưa lâu.”
“Khoan đã.” Genko nói ngay và lục lọi trong túi áo. “Tôi có mang theo một tấm ảnh chụp hai người bạn cùng đội bóng. Chúng tôi luôn đá ở sân bóng phía sau kia.”
Genko lấy ra tấm ảnh mà ông đã tìm được ở Minh Phủ và đưa nó cho linh mục trẻ tuổi.
Anh ta cầm tấm ảnh và xem xét một cách kỹ lưỡng.
“Người có vết bớt này, tôi sẽ nhớ nếu đã từng gặp ông ấy.” Anh ta nói với giọng không chắc chắn.
Genko thất vọng ra mặt. Nhưng ông vẫn có thể tìm người bạn của Robin trong ảnh.
“Thế còn người kia, cha thấy có quen không?”
“Tôi rất tiếc.” Anh ta lắc đầu, đưa trả tấm ảnh.
Genko cất nó vào trong túi.
“Dù sao cũng xin cảm ơn cha.”
“Có lẽ ông sẽ muốn thăm lại nhà thờ nhỏ.” Vị linh mục trẻ nói, có lẽ để bù đắp phần nào cho sự thất vọng của Genko. “Trong cái tủ kính lớn ở đó, ông sẽ thấy cúp lưu niệm và nhiều tấm ảnh khác của đội bóng.”
Họ đi ngang qua một gian phòng có bàn bóng bàn và hôi mùi những chiếc giày thể dục. Những tấm áp phích hình cầu thủ bóng đá và các đội vô địch ở từng thời điểm chia sẻ bức tường với nhiều hình ảnh Chúa.
“Bây giờ chỉ những lứa nhỏ nhất mới đến đây thôi.” Vị linh mục nói với giọng tiếc nuối. “Mười một, mười hai tuổi các em đã phải lao ra đường làm lụng. Và tệ nhất là độ tuổi các em gặp rắc rối cứ giảm đi qua từng năm.”
Genko đã trông thấy tủ kính trưng bày. Nó được đặt trên một lối đi, đối diện với một cửa trượt có tấm biển đề: Thư viện Cha Edward-Johnston.
Genko tiến đến chỗ cái tủ và khom người quan sát những tấm ảnh đóng khung chụp các đội bóng, những chiếc cúp và huy chương. Ông tìm những hình ảnh của thập niên tám mươi, với hi vọng anh chàng linh mục này có thể thấy ai đó quen mặt trong số bạn bè cũ của Robin và người này cung cấp được cho ông một manh mối.
Ông đã tìm thấy cậu bạn tóc xoăn của Robin trong một tấm ảnh khác, được chụp lúc cậu ta còn đầy đủ hai chiếc răng cửa. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là kẻ bắt cóc tương lai không có mặt trong số các cầu thủ được chụp ảnh.
“Năm nay đội chúng tôi đứng chót bảng.” Vị linh mục phàn nàn từ phía sau lưng Genko. “Tôi không biết liệu năm sau có còn lập đội được không nữa.”
“Tôi hiểu.” Genko lơ đãng đáp, ông nhận ra mình một lần nữa thất bại.
“Nhưng cha Edward từng rất giỏi trong việc lôi kéo các cậu bé đến đây. Di sản lớn nhất của cha là thư viện này.”
Có điều gì đó trong câu nói vừa rồi khiến Genko chột dạ. Làm thế nào cha Edward dụ bọn trẻ con đọc sách được? Đúng lúc đó, ông nghe thấy tiếng cánh cửa trượt sau lưng mình mở ra. Ông tò mò quay lại nhìn và lặng người.
Thư viện của cha Edward có cơ man nào là truyện tranh.
Những giá sách cao đến tận trần nhà được kê sát tường. Kinh ngạc, Genko bắt đầu xem xét. Ở đây có truyện dành cho mọi nhóm tuổi, từ những nhân vật phù hợp cho độ tuổi bé nhất cho đến các siêu anh hùng.
“Tôi hình dung ngày trước, lúc còn bé, ông cũng từng dành nhiều thời gian đọc truyện tại đây.” Vị linh mục trẻ bình luận.
Genko gật đầu, nhưng bộ não của ông đang cố gắng xâu chuỗi những manh mối khác nhau để tìm ra một đáp án.
Một cha xứ rất được lòng bọn trẻ con. Một thư viện đầy truyện tranh. Thỏ Bunny. Cuốn truyện toàn là những hình ảnh khiêu dâm trong đó. Và cuối cùng, ba ngày Robin mất tích.
Không ai biết Robin đã ở đâu và đã gặp những chuyện gì trong quãng thời gian ngắn ngủi đó. Bóng tối đã tiêm nhiễm vào nó. Ai mà tin lời thằng bé nếu nó tố cáo một thầy tu? Chính vì thế mà Robin đã không hé răng.
Cha Edward. Genko cố mường tượng ra những trò ghê rợn mà ông ta có thể bày ra với những đứa trẻ ngây thơ với tấm áo thầy tu của mình. Một người không thể bị nghi ngờ, một ân nhân trong mắt người đời. Một vị thánh. Nhưng trên thực tế, ông ta là một con quái vật đeo mặt nạ.
Genko bắt đầu cảm thấy căm ghét cha Edward vì những chuyện mà ông ta đã làm với một đứa trẻ mười tuổi nhiều năm về trước. Giờ đây, ông cần một sự xác nhận rằng Robin không phải sinh ra đã là quái vật nhưng đã trở thành như thế. Như vậy những gì Samantha Andretti đã trải qua cũng là do lỗi của cha Edward.
“Cha có biết còn ai khác tôi có thể hỏi thăm về hai người bạn cũ trong ảnh không?” Genko nói.
Giọng điệu của ông đã thay đổi. Nó không còn nhã nhặn, mà cương quyết. Ít nhất ông cũng phải tìm được một người bạn của Robin.
“Để tôi nghĩ xem.” Vị linh mục trẻ tuổi đáp. “Người duy nhất mà tôi thấy có thể biết được gì đó là Bunny.”
Genko từ từ quay lại và nhìn vào mắt vị linh mục trẻ.
“Ai cơ?”
“Ông già giúp việc coi sóc nhà thờ. Ông ấy từng phụ trách việc bảo trì. Thật ra ông ấy tên là William, nhưng chắc đã được bọn trẻ đặt biệt danh đó nhiều năm về trước. Ông ấy làm việc ở nhà thờ này lâu lắm rồi. Ông còn nhớ ông ấy chứ?”
“Vâng, phải rồi. Tôi quên khuấy mất ông ấy.” Genko đáp tỉnh bơ, cố gắng tiêu hóa thông tin này. Bunny.
“Từ lúc ông ấy nằm viện, tôi phải tự tay sửa chữa mọi thứ.” Anh ta mỉm cười. “Thế nên ông mới thấy tôi loay hoay ngoài vườn ban nãy.”
“Ông ấy đang ở trong bệnh viện sao?” Genko hỏi lại để bảo đảm mình không nghe nhầm.
“Ông ấy ốm nặng lắm” Vị linh mục đáp với giọng nghiêm trọng, có lẽ do nhìn thấy sự lo lắng trên khuôn mặt của ông khách.
Genko nhìn anh ta.
“Thế bình thường thì ông ấy ở đâu?”
“Ở dưới này.” Linh mục chỉ tay xuống đất. “Trong căn buồng nằm cạnh thiết bị đun nước.”