Chương 32
Căn nhà màu xanh nằm sau một bức tường nước dày.
Genko xuống khỏi chiếc Saab và chạy đến cổng nhà. Khi vào đến chỗ trú bên dưới phần mái đua, ông bẻ cổ áo xuống. Cơn dông đã ập tới lúc ông vừa ra khỏi cảng trung chuyển và vẫn còn đang tiếp diễn. Từ tóc tai cho đến bộ quần áo bằng vải lanh trên người ông đều ướt sũng. Ông áp tay lên trán, cảm thấy mình hâm hấp sốt. Nhưng tim ông vẫn đang đập trong lồng ngực, bất chấp dự đoán của bác sĩ. Sẽ không còn lâu nữa đâu, ông tự nhủ. Tự dối mình mà làm gì. Đó không phải là nhịp đập, mà là tiếng tích tắc của một chiếc đồng hồ đếm ngược.
Ông cố gắng thu xếp một chút thoải mái cho mình, rồi đọc cái tên trên hộp thư. Paul Macinsky. Paul. Đúng như lão già giúp việc đã nói.
Nhưng ông cảm thấy có gì đó không ổn.
Genko bấm chuông cửa và nhận ra nó không hoạt động. Ông đoán điện bị cắt vì sấm chớp. Ông gõ cửa và đợi một lúc. Rồi ông lại gõ tiếp, sợ rằng tiếng ồn của cơn mưa làm người trong nhà không nghe thấy. Vẫn không có động tĩnh gì.
Ông di chuyển đến chỗ một cái cửa sổ và nhòm vào bên trong.
Một phòng khách với ghế sofa ngổn ngang những tờ báo, một ti-vi cũ và một chiếc ghế bành ọp ẹp. Cạnh đó có một cái bàn nhỏ với ít nhất một chục lon bia và một chiếc gạt tàn đầy mẩu thuốc lá bên trên.
Sự lộn xộn thường thấy ở những người đàn ông độc thân này mách bảo rằng Paul Macinsky có lẽ là người duy nhất sống tại đây và hiện đang vắng nhà.
Genko muốn gặp người bạn chơi cùng đội bóng cũ với Robin Sullivan vì một lí do cụ thể. Nếu con quái vật tìm cách lẩn trốn tại nơi mình đã sinh ra, hắn có thể đến nhờ Paul giúp đỡ và bao che. Thậm chí Paul có thể biết Bunny hiện đang trốn ở đâu.
Hắn đang ở đây – mình biết.
Genko hiểu ông cần phải nhanh chóng ra quyết định. Ông có thể chờ chủ nhân của căn nhà trong chiếc Saab hoặc trước cổng, hoặc vào bên trong và ngó nghiêng một chút.
Thường thì ông chọn khả năng thứ hai.
Genko luôn chuẩn bị kỹ trước khi hỏi một nguồn tin hoặc một nhân chứng. Bởi vì cách duy nhất để khuyến khích ai đó mở lời là biết thật nhiều về cuộc sống của họ.
Có lần Genko cần một phụ nữ trung niên nói cho ông biết là ông cần tìm một người bạn của bà ta ở đâu. Nếu ông đường đột đặt câu hỏi ngay, bà ta sẽ nghi ngờ và không hé răng. Người ta luôn cảnh giác với những kẻ lạ mặt đặt câu hỏi này nọ, ngay cả khi đó chỉ là sự bảo vệ cho một người bạn sơ giao thì tinh thần đoàn kết vẫn bật lên. Do không có thời gian để tạo dựng sự thân tình, hôm đó Genko quyết định bỏ ra vài giờ để quan sát đối tượng và phát hiện bà ta dành phần lớn thời gian trong ngày để xem phim truyền hình. Ông bèn gõ cửa và hỏi thăm xem bạn của bà ta đang ở đâu, giả vờ là một người đang yêu chị kia đến quẫn trí. Xúc động với câu chuyện đó, bà ta đã kể tồng tộc mọi chi tiết mà ông cần.
Bởi thế nên Genko vặn thử tay nắm cửa của căn nhà màu xanh. Sau khi cân nhắc mức độ dễ dàng của việc phá cửa, ông quyết định thúc cho nó hai cái. Cánh cửa bật mở.
Ngay ấn tượng đầu tiên của nội thất căn nhà đã cho Genko biết nhiều điều về Paul Macinsky. Trước hết, cậu bé sún răng ngày xưa không hề khá giả một chút nào. Đồ đạc trông như được nhặt về từ bãi rác. Tấm thảm có lẽ từng có màu be giờ đây dính đầy những vệt dầu mỡ. Bụi bặm và rác rến vương vãi khắp mọi nơi. Một cái chăn, hai cái tô và một sợi dây dắt chó nằm trong một góc nhà, nhưng may mắn thay không có con chó nào xuất hiện.
Genko đóng cửa lại sau lưng. Tiếng ồn của cơn mưa giảm hẳn. Căn nhà có hai tầng và ông quyết định bắt đầu với tầng trên.
Tại đầu cầu thang, ông thấy một hành lang ngắn nối với ba căn phòng. Ông tiến đến gần một cánh cửa có gắn kính mờ và nhận ra đó là phòng tắm. Ông mở hé cửa. Một con chó đen lập tức sủa điên cuồng. Genko vội đóng cửa lại trước khi bị nó tấn công. Ông chửi thầm con chó lẫn bản thân mình, rủa xả quả tim đang đập trong ngực. Tuy sợ hết hồn, nhưng ông bật cười: Đây sẽ là cách ngu ngốc nhất để nhận một cơn đau tim.
Genko tiếp tục xem xét xung quanh. Căn phòng thứ hai chỉ có một khung giường đôi đã han gỉ. Nước mưa nhỏ xuống qua chỗ dột trên mái và đọng thành một vũng lớn dưới sàn.
Tủ quần áo chứa toàn trang phục phụ nữ sực nức mùi ẩm mốc. Có lẽ chúng thuộc về người mẹ của Paul và ông đoán bà Macinsky đã qua đời từ khá lâu.
Căn phòng thứ ba thì ngược lại, vẫn đang được sử dụng. Giường của gia chủ là một tấm nệm đơn sơ trên sàn nhà. Trên những bức tường màu đen có dán vài tấm áp phích của các ban nhạc heavy metal. Nom căn phòng giống như của một cậu thiếu niên thời 1980, chỉ có điều người đàn ông nằm ngủ ở đây đã gần năm chục tuổi đầu. Trong phòng còn có một máy quay đĩa và bộ sưu tập đĩa than nho nhỏ. Trên một cái kệ đứng trang trọng chiếc cúp có gắn biển đồng đề chữ CÚP GIÁO XỨ 1982-83 – HẠNG BA. Đây có lẽ là khoảnh khắc huy hoàng duy nhất trong đời Paul.
Bên cạnh tấm nệm, gần chồng tạp chí khiêu dâm, là một cái bát sành với những món cần thiết để quấn một điếu cần sa. Genko cũng trông thấy một mảnh ván hơi nhô ra trên tường. Ông dễ dàng gỡ nó ra, và thấy một cục hashish được giấu bên trong. Khối lượng chẳng đáng là bao: Paul chỉ là một gã buôn thuốc tép riu. Ông cất nó trở lại chỗ cũ.
Đến lúc này, Genko tạm rút ra kết luận rằng việc khám xét căn nhà chưa cho ông bất kỳ thông tin hữu ích nào giúp mở ra một cuộc nói chuyện thân tình với Paul. Thật khó tìm điểm chung với một kẻ ưa thích phê cần và quay tay. Ông cần phải tìm một cách khác để xây dựng lòng tin và thuyết phục Paul nói ra. Đây là người thân cận nhất với Robin Sullivan mà ông tìm được.
Nếu anh ta biết Bunny đang ở đâu, mình có thể lấy được thông tin đó. Nhưng bằng cách nào?
Con chó trong phòng tắm vẫn sủa vang làm ông không suy nghĩ gì được. Cơn đau nửa đầu ập tới. Ông run lập cập, hai hàm răng va vào nhau. Thân nhiệt của ông đang tăng. Ông quay trở xuống tầng dưới.
Lẽ ra Genko nên ra khỏi nhà ngay lập tức và ngồi trong xe đợi cho đến khi Paul Macinsky quay về. Nhưng khi xuống đến chân cầu thang, ông bỗng cảm thấy kiệt sức. Ông không thể quay ra ngoài kia, dưới cơn mưa tầm tã. Ông bắt đầu dẹp vài tờ báo trên sofa, nhưng rồi quyết định ngồi vào chiếc ghế bành, vị trí ưa thích của Paul, phía trước cái ti-vi lúc này đang tắt. Trên đó có một cái chăn vừa bẩn vừa thủng lỗ chỗ, nhưng Genko vẫn quyết định đắp lên người. Cơn run của ông vẫn không có dấu hiệu ngừng lại. Ông cảm thấy sợ hãi, nhưng nhận ra mình phải lập tức dẹp bỏ suy nghĩ về cái chết đang cận kề. Ông cố gắng tự trấn tĩnh và tập trung suy nghĩ vào một chuyện khác.
Ông nhớ lại lão giúp việc nhà thờ, và nhất là sự dễ dãi của lão khi nói ra cái tên của cậu bé tóc xoăn răng sún đứng cạnh Robin Sullivan trong tấm ảnh lưu trữ tại Minh Phủ.
Khi Genko buộc tội lão lôi một đứa trẻ vô tội vào trong bóng tối, William đã tự bào chữa bằng một lí do rất phi lí.
‘Tôi chỉ chuyền cây gậy tiếp sức,’ đó là lời của lão.
Lão coi Robin như đồ đệ của mình và đó chính là chi tiết khiến Genko cảm thấy không ổn. Nếu Bunny già coi Robin như là người kế tục mình – một Bunny trẻ – thì tại sao lão lại giúp một người lạ tìm ra hắn? Lẽ ra lão nên tìm cách che giấu danh tính của cậu bạn thuở thiếu thời kia, người có thể cung cấp những thông tin giúp ông tóm được đồ đệ của lão.
Thế nhưng lão lại phun ra cái tên Paul Macinsky gần như ngay lập tức.
Genko chưa hiểu được chuyện này. Nhưng ít nhất cơn run của ông đã dịu xuống và con chó ở tầng trên đã ngưng sủa. Được ru ngủ bởi sự tĩnh lặng và chiếc ghế bành cũ kỹ, ông quan sát hình ảnh phản chiếu của mình qua màn hình ti-vi. Ông thấy mừng vì mình vẫn còn chưa chết. Ông vừa thoát khỏi lưỡi hái tử thần một lần nữa. Nhẹ cả người.
Và ông ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay.