Phần 8
Hôm xách va li ra về, anh như một quả bóng xì hết hơi. Lúc đó mới nghĩ đến gia cảnh thì đã quá muộn. Vợ lại đang mổ cấp cứu ở bệnh viện. Thắng phải đứng ra quyên góp anh em, mỗi người một ít để anh ta đủ hai mươi cân xách tay đem về làm quà.
Ấy thế mà được như anh còn được coi là trọn vẹn, đáng mừng. Rất nhiều trường hợp còn "bi hài" hơn. Kết bạn với gái Tây, tiền hết đã đành, sức khoẻ suy kiệt cũng là điều dễ hiểu mà đến lý trí cũng đã mất hẳn sự sáng suốt đi. Năm mùa tuyết ở đây, Thắng đã chứng kiến bốn trường hợp phải tốt nghiệp sớm vì duyên nợ này. Người thì túng quẫn quá, phải "đi vơ nhầm" đồ đạc tiền nong của bạn bè. Người thì bê trễ, không ngó ngàng gì đến bài vở, hai năm không lên nổi một lớp. Người thì quẫn, không tự chủ nổi mình, hơi một tí là gây gổ đánh nhau. Có kẻ nhẹ dạ, cả tin bỏ cả Tổ quốc chạy theo gái Tây. Kết cục cuối cùng là sau một năm chung sống, cả hai đều vỡ mộng. Anh ta bị đẩy ra đường, sống chui lủi ngoài vòng pháp luật, đói rét hơn cả lũ mèo hoang. Một phương tiện chuyển động đều có một bộ phận tối quan trọng, có tính chất sống còn là phanh hãm. Ví thử như các phương tiện giao thông không có bộ phận này thì chắc chắn không một ai dám sử dụng ngồi bên nó kể cả chiếc xe đạp là phương tiện đơn giản nhất. Vốn là kỹ sư cơ khí Thắng đã tự lập luận với mình như thế. Còn một con người tỉnh táo sáng suốt là người biết kìm nén, phanh hãm dục vọng của bản thân, đừng để dục vọng đó đưa xuống vực thẳm. Nhưng bằng cách nào thì Thắng loay hoay mãi mà không tìm ra mặc dù những tấm gương tầy liếp kể trên có sức cảnh tỉnh anh rất mạnh mẽ. Một chiếc bludông da báo, chứ mười chiếc chắc chắn cũng sẽ "đi tong" nếu quan hệ giữa anh với người bạn gái vẫn được duy trì, tiếp tục. Đã có lần, Thắng tránh mặt cô ta được một tháng. Nhưng vào một đêm tuyết lạnh, người anh hết sức bồn chồn, không sao ngủ được Thắng đã lại sang buồng nàng.... Thế là chu kỳ của một vòng quay mới lại bắt đầu. Phải có cách gì, cách gì đây? Sau bao ngày đêm suy tính, trốn tránh day dứt, Thắng tìm ra một phương pháp mà y học hiện đại đang thử nghiệm để chữa chạy các căn bệnh nguy hiểm tái đi, phát lại nhiều lần là phương pháp "chết lâm sàng". Phải, quan hệ giữa mình và cô ấy cũng phải cho "chết lâm sàng", nếu không sẽ vô phương cứu chữa. Còn cách thực hiện cũng thật giản đơn. Anh làm như từ bây giờ trở đi, anh đã kiệt quệ, chỉ có đòi hỏi ở nàng thôi, chứ không có gì để bù đắp nữa. Quả nhiên, sau vài lần như thế, nàng đã chán ngấy anh. Thậm chí, gặp anh ở hành lang, nàng cũng không "Xin cháo! Xin cháo" một cách tinh nghịch, vui vẻ nữa...
Nhưng chuyện gì cũng có ngoại lệ. Và chỉ có Huy trong chuyện này, vừa láu cá, lại vừa gặp may.
- Mày có thuốc lá không? Một lần Huy vừa từ cầu thang tầng dưới bước lên thì một cô gái đứng tựa lưng vào tường hỏi.
- Có. Nhưng để ở trong phòng. Mày cần thì đi theo tao.
Cô gái có đôi mắt to rất ngây thơ đi theo Huy thật.
Sau khi chìa gói thuốc với bao diêm lấy từ một chiếc tủ con kê ở đầu giường, Huy ầm ừ hỏi tiếp:
- Mày có thích uống nước chè không?
- Được thôi! Pha đi!. - Cô gái tự nhiên giục.
- Mày lên đây để thi vào trường à? - Trước hai cốc nước chè đường bốc khói, Huy buông một câu thăm dò.
- ừ, lên thi. Cô lơ đãng đáp.
- Xong rồi chứ? Kết quả có tốt không?
- Vừa thi xong sáng nay. Định về ngay nhưng không đặt được vé máy bay. Buồn quá! Không có bạn trai cùng đi chơi thăm thành phố. Cô gái vừa nhả khói thuốc vừa thành thực kể.
- Nếu mày muốn, tao sẽ đưa mày đi! Muốn ba bốn ngày cũng được. Huy vơ vào.
- Thật chứ! Mày không nói đùa đấy chứ? Cô gái mở to đôi mắt ngây thơ nhìn nét mặt thanh tú khá đẹp trai của Huy với sự sung sướng, say mê thực sự.
Huy như kẻ được của trời cho, chẳng phải tốn kém tiền của, công sức gì. Huy còn xốn xang hy vọng khoe với Thắng, nếu cô ta thi đỗ, mình sẽ có một cô bồ Tây ngay bên cạnh. Nhưng ước mơ ấy sớm tiêu tan. Ngày tựu trường, cô sinh viên đó đã có mặt nhưng tối đến phải tập trung đi thu hoạch khoai tây ngay cho một nông trường kết nghĩa. Một tháng lao động ở dưới đó, cô ta đã dễ dàng tìm được một bạn trai cùng khoá. Hôm cô trở lại, Huy đã sắp sẵn hẳn một téc rượu, có cả món nem rán dân tộc nhưng đã được cô mỉm cười trả lời, vẫn cái mỉm cười và đôi mắt to ngây thơ, trong trẻo ấy.
- Nhất định tao sẽ sang. Nhưng bây giờ hơi bận một chút.
Huy đã chờ gần như suốt cả đêm. Món nem rán dân tộc đã ỉu cả mà cô gái vẫn không sang. Đến lúc đó Huy mới hiểu đó là lời từ chối lịch sự của người Âu.
Giờ đây, tất cả những chuyện riêng tư của mình, cũng như của bạn bè Thắng muốn vắt tắt kể lại cho bà thiếu tá. Anh đã nghĩ tới cả những lời kết luận cay đắng rằng, cũng như ở nước chúng tôi, những người đàn bà có quan hệ với người nước ngoài thường nhằm một mục đích duy nhất là tiền, còn những từ như bạn gái, tình yêu chẳng qua chỉ là một thứ chiêu bài, lá chắn để che đỡ mà thôi. Nhưng rồi Thắng đã kịp kìm nén mình lại. Có thể bà thiếu tá sẽ tự ái, hiểu lầm, cho rằng anh miệt thị, nói xấu phụ nữ nước bà thì thật là tai hại, rất bất lợi cho anh. Và để lảng tránh, như đã lảng tránh các câu hỏi trước, Thắng lại lấy điệu bộ ngây thơ một cách tự nhiên đến ngớ ngẩn, kể về cô bạn có ria mép như đàn ông, to ngang như chiếc thùng phi hai trăm lít học cùng nhóm với mình. Những câu pha trò của Thắng về cô bạn tủi thân, hay khóc của mình làm bà thiếu tá cũng phải phá lên cười. Nhưng sau tiếng cười phá ra ấy bà lại im bặt ngay. Dường như bà hiểu và có sự đồng cảm với những người con gái to quá cỡ ở xứ sở băng tuyết này. Rồi bà tâm sự thực lòng.
- Con gái tôi cũng tựa như thế đấy! Nó không có ria mép hài hước như anh tả và to như cái thùng tô nô như cô bạn anh đâu. Chỉ hơi to một tý thôi. ấy thế mà cũng khó lấy chồng lắm!... Nó rất buồn.
- Thật là tiếc. Nếu tôi được biết bà sớm hơn, cách đây độ vài năm thì thật là tuyệt. Biết đâu được, tôi chả là bạn thân của con gái bà.
- Anh chỉ được cái láu lỉnh thôi. ở nước tôi, những người như anh người ta thường ví như là một con cáo ấy. Tôi rất khó tin những lời của anh. Bà mắng anh một cách thân mật.
- Tin hay không, xin bà cứ việc cho mở hòm ra để kiểm tra. Từ sáng đến giờ, quả tình là tôi chưa hề giấu giếm bà điều gì. Thắng chỉ vào chiếc hòm gỗ thông được bào rất đẹp, như một toa hàng nằm giữa nhà kho.
- Kiểm tra. Tất nhiên sẽ phải kiểm tra. Nhưng trước khi mở hòm ra, tôi xin hỏi thật thêm một điều này nữa nhé! - Bà thiếu tá vẫn giữ được giọng chuyện trò thân mật. Anh nhỏ bé thế này. Bà chỉ vào Thắng. Tất nhiên là nhỏ bé so với chúng tôi. Nhưng làm thế nào mà anh khuân nổi một khối lượng hàng lớn như thế này? Bà chỉ tiếp sang chiếc thùng, giọng pha chút hài hước. Chắc không phải anh có sức khoẻ như trong truyện thần thoại chứ!
- Thưa bà, châm ngôn của chúng tôi có câu thế này "Kiến tha lâu cũng đầy tổ". Suy ngẫm ra, ta thấy có hai yếu tố dẫn đến thành đạt là thời gian và sự cần cù? Bà đã rõ rồi, tôi ở đây vừa đúng năm mùa tuyết rơi. Còn sự cần cù... Nói thật là tôi không biết diễn tả thế nào để bà hiểu được. Quả thật là ở đây, có được đồng tiền là cả một vấn đề lớn rồi. Nhưng sử dụng đồng tiền ấy để mua những thứ mình cần lại là vấn đề có khi còn lớn hơn, khó khăn phức tạp hơn. Và anh em chúng tôi đã gọi đùa những cuộc đi săn lùng hàng bằng một thuật ngữ mà có thể bắt bỏ tù được là "Đi hoạt động cách mạng" "Thế nào tình hình hoạt động cách mạng dạo này có khá không?". ý hỏi có mua được nhiều hàng không. "Chiều qua cậu hoạt động cách mạng ở khu vực nào thế? ở bách hoá trung tâm. Hãy hoạt động cách mạng lên phía bắc thành phố xem sao! Trên đó nghe nói có vòng bi mà Việt cộng ít lảng vảng tới lắm". Đấy, đại thể của cái chuyện đi mua hàng, chúng tôi đã nói với nhau như thế. Còn nội dung thực thì bất kể sớm, trưa, chiều, tối, nắng, mưa, bão tuyết... Mặc! Nghe nói ở đâu có bán những thứ mà chúng tôi cần là chúng tôi nhẩy bổ tới đó ngay...
Còn riêng với Thắng, phương châm của anh là "Trăm bó đuốc cũng phải vớ được con ếch". Cứ phải lặn lội đi nhiều, đi xa, đến những nơi hẻo lánh ít người Việt đặt chân tới, trước sau cũng nhất định mua được hàng. Bởi thế, sau những giờ ngồi lỳ trên giảng đường, chuông vừa réo dứt hồi là Thắng lao ngay ra đường. Giá rét thế nào, một phần anh đã quen, phần khác anh bất chấp, lang thang khắp nơi, tới lúc các cửa hàng đã đóng cửa anh mới chịu về. Chỉ khi nào đói rét, mệt và mỏi chân quá, anh mới tạt vào một cửa hàng ăn nào đó gọi một cốc cà phê sữa, mấy cái xúc xích (loại thịt xay nhồi vào túi giấy bóng rồi đem luộc hoặc rán lên), vài lát bánh mỳ. Vừa ăn, vừa nghỉ ngơi cho lại sức rồi lại khoác chiếc túi adiđát, loại túi có thể mở rộng bằng một chiếc va ly, hăm hở lang thang đến các cửa hàng.
Hôm đó, trời đã xế chiều, tuyết rơi mù mịt, từ bến xe điện ngầm lên, anh đi cắt ngang qua một bãi tuyết rộng đến một cửa hàng bách hoá lớn nằm ở vùng ngoại ô hẻo lánh phía nam. ánh đèn cao áp toả một thứ ánh sáng xanh xuống những lớp tuyết cũng làm cho bầu không khí thêm lạnh lẽo. Trên vỉa hè, ở một góc đường trước ngã ba. Thắng thấy một bóng người lù lù to béo trong chiếc áo pantô xám đã bạc đi vì quá cũ kỹ với chiếc mũ lông giả rẻ tiền mầu tím than đang nhẩy cẫng lên cho đỡ lạnh. Chỗ ấy không phải là bến xe. Cái con người kỳ quặc kia có dáng dấp như người Việt Nam làm Thắng chú ý. Anh bước nhanh qua đường. Còn cách mươi bước chân. Thắng đã nhận ra Minh, phó trưởng hội đồng hương, chuyên trách phần đối ngoại của thành phố này.
- Ông đứng đợi ai mà cứ phải nhẩy cẫng lên thế.
Thắng hỏi.
- A, Thắng đấy à! Mình đợi! Mình!... Minh ấp úng, ngần ngại giương cặp kính cận nhìn Thắng.
- Sao, chờ cô "bồ" nào chứ gì? Thắng nửa đùa, nửa thật.
- Không, bồ bịch gì! Nhưng mà cũng hồi hộp quá!... Hồi hộp như lần đầu chạm tay vào ngực người yêu ấy.
- Thế là thế nào? - Thắng ngạc nhiên.
- Còn thế nào nữa! Trong cửa hàng bách hoá, ở quầy đồ điện ấy, có bán dây mayso ông ạ! Minh hổn hển nói. Mình đã bảo vệ luận án rồi. Chỉ non một tháng nữa là về thôi. Thế mà chưa mua sắm được gì. Vợ con ở nhà viết thư sang kêu về trượt giá, trượt duế gì đấy càng làm mình rối ruột. Mình đến đây từ lúc ba giờ chiều. Vào rồi lại ra. Ra rồi lại vào. Đấu tranh tư tưởng mãi, không biết có nên hỏi mua hay không? Chỉ sợ mậu dịch viên họ mắng. Khổ, mua mất tiền mà cứ như đi ăn xin ấy. Mình ngượng lắm! Minh
tâm sự.
Minh chỉ biết Thắng sơ bộ, nhưng Thắng không lạ gì Minh. Tổng số thời gian, anh ta phải sống ở đây đến mười bốn, mười lăm năm trời. Từ năm trước 1954, lúc ấy Minh mới tám, chín tuổi, anh đã được gửi qua đây theo học lớp thiếu sinh quân (là cái thời ấy người ta gọi là thế). Gần như là cả cấp một và nửa cấp hai Minh học ở bên này. Sau đó Minh về nước tiếp tục học cho đến hết cấp ba. Tốt nghiệp phổ thông, Minh lại sang học đại học sáu năm ở đây. Về nước công tác được ba năm, lại qua thực tập một năm, rồi ở lại chuyển tiếp nghiên cứu sinh luôn. Dáng người to cao nhưng béo bủng. Cặp kính cận trên khuôn mặt tròn, trắng bều bệu như cớm nắng lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác. Cánh sinh viên láu lỉnh ở khoa Văn đặt cho Minh, cái biệt hiệu chàng Bêdukhốp, nhân vật quý tộc tốt bụng nhưng ngốc nghếch trong tác phẩm "Chiến tranh và Hoà bình" quả thật không ngoa. Về kiến thức khoa học, Minh là một nghiên cứu sinh rất có năng lực. Anh có nhiều công trình được các báo và tạp chí kỹ thuật chuyên ngành ở đây đăng. Về trình độ ngoại ngữ Minh gần như người nước này. Bởi thế anh mới được bầu làm hội phó hội đồng hương Việt Nam, phụ trách phần đối ngoại. Để chứng minh anh là người chân thành và cởi mở, cánh sinh viên đã kể một câu chuyện về anh thế này. Hồi còn ở trong nước, có lần, vợ luộc ốc, loại ốc vặn bé tí, mời bạn bè đến ăn. Minh thấy mọi người ngoáy ngoáy rồi chấm chấm, mút mút mà mỗi lần khêu ra đầu ghim chỉ được một thứ gần như cứt chuột, nhỏ bằng quả sim con thì ngại không muốn ăn. Vợ Minh cùng cánh bạn gái thì hể hả thít hà thích thú lắm. Ăn xong, mọi người tấp vỏ vào một góc đổ đi, rủ nhau uống nước trà. Giữa lúc đó, tiếng kẻng xe rác nổi lên rộn rã. Nhà Minh tận gác năm. Vợ Minh sợ lỡ vội vàng giục "Anh Minh! Anh Minh! Anh nhanh chân chạy xuống đổ, kẻo đống vỏ ốc để đến tận mai, thối lên thì nguy". Thế là Minh hớt hải, bê rổ vỏ ốc lao xuống. Bạn bè của vợ Minh cười bò cả ra. Có người trách "Chúng mình tệ quá! Ăn ốc lại bắt người khác đi đổ vỏ". Vợ Minh cười khề khề "Ông ấy thích được thế lắm! Cái ông hâm này chỉ được cái sai vặt thôi! Khổ lắm, chúng mày không biết đâu!".
Thắng rất quý Minh, quý con người có năng lực mà rất đỗi hiền lành vào loại nhất nhì ở thành phố này. Bên cạnh đó, bản chất của Thắng cũng rất thích được giúp đỡ bạn bè. Không chỉ đối với Huy mà với bất kỳ ai, yêu cầu mà anh giúp được là sẵn sàng ngay. Bởi thế, ở một khía cạnh ngược lại Thắng cũng nổi tiếng không kém gì Minh. Một đằng thì hiền lành quá, một đằng thì sắc sảo, thông minh, tháo vát quá.
- Vậy ông cần mua bao nhiêu? Thắng hỏi.
- Độ vài chục sợi về làm quà thôi mà! Minh rụt rè đáp.
- Thế thì đi theo tôi.
- Thôi, ông vào đi... mua hộ tôi. Tôi đứng đợi ngoài này cũng được.
- Không sao cả! Ông cứ vào với tôi. Phải mạnh dạn, tự nhiên lên.
Minh theo Thắng vào cửa hàng. Cả hai đến gian dụng cụ gia đình. Minh thấy Thắng không sà vào hỏi mua ngay. Thắng đứng tựa vào tủ kính, ngó nghiêng quan sát các mặt hàng nhưng thực chất thì quan sát, tìm hiểu người bán hàng. Ca đó, đứng trong quầy là một cô gái trẻ, chiếc áo diềm váy cộc tay choàng ra ngoài chiếc áo len xanh cổ lọ. Chờ cho khách mua có phần vãn, Thắng đột ngột cất tiếng chào:
- Chào một buổi tối tốt lành.
- Chào buổi tối tốt lành. Cô mậu dịch viên đáp lại.
Minh lại thấy Thắng ngập ngừng. Minh tưởng Thắng cũng có tâm trạng ngại ngần như mình nên anh định rảo bước lảng ra. Minh không hiểu rằng, để mua được hàng, phải có cả một nghệ thuật thăm dò người bán. Nếu sau lời chào xã giao ban đầu, thấy đối tượng có thể tiếp cận được mới đi tiếp bước sau.
Anh muốn gì? Sau cái nhìn ngượng ngập của Thắng, cô mậu dịch viên phải động viên. Lúc này mới là lúc thời cơ chín muồi, Thắng làm ra vẻ rụt rè hỏi:
- Tôi muốn mua một ít dây mayso có được không?
- Sao lại không? Xin mời! Xin mời. Cô ta đon đả.
- Tôi mua cả cho anh bạn tôi nữa, chắc chị không từ chối chứ? Thắng chỉ sang Minh. Minh im lặng đi như trời trồng. Mặt đã ửng lên vì ngượng.
- Xin mời! Tôi sẵn sàng phục vụ. Nhưng mỗi người cần mua bao nhiêu?
- Mỗi người chúng tôi xin mua hai hộp có được không?
- Chờ cho một phút. Nói rồi, cô cúi mái tóc vàng uốn cao xuống tủ hàng, mở cánh cửa kính lục lọi.
- Chỉ còn hai hộp nguyên thôi! Các anh lấy thêm các chỗ lẻ này vậy. Cô vừa nói vừa chỉ vào một đống chừng vài chục chiếc mayso nằm trong quầy.
Chị làm ơn vào kho xem hộ. Nếu còn hộp nguyên nào nữa thì tốt. Không có cũng không sao. Giọng Thắng ngọt, lịch sự mà không quy luỵ, van nài.
- Được! Các anh chờ cho một lát nhé!
Cô gái đẩy cánh cửa gỗ thông ở một ngách quầy, bước vào nhà kho. Chừng năm phút sau, cô ta ôm bốn hộp các tông giống như bốn chiếc bánh mỳ gối. Rồi đặt trên mặt tủ, cô nhanh nhẹn rút bó dây giấy định buộc cả lại. Thắng vội đỡ và tranh lấy làm.
- Chị để chúng tôi tự làm.
Trả tiền xong, Thắng hai ba lần ngỏ lời cám ơn. Đáp lại, cô bán hàng đon đả:
- Tạm biệt! Xin mời hãy đến cửa hàng chúng tôi.
Ra đến vỉa hè, Minh ngạc nhiên hỏi Thắng.
- Sao ông hỏi mua nhiều thế?
- Sao ông không cần ư? Thắng hỏi lại.
- Ai mà không cần! Nhưng nên mua mỗi lần vài chục sợi thôi.
- Vài chục sợi à? Như thế là ông không nắm được tâm lý người bán hàng rồi. Thắng lập luận. Ông hỏi mua những ba mươi. Con số đó là lớn vô cùng. Họ phải cúi xuống, nhặt cả đống lên mặt quầy và đếm. Lại phải tìm cái gì gói hoặc bỏ vào cho ông. Từng ấy việc, bao nhiêu là thao tác, lại tiền lẻ, tiền chẵn, ai người ta cũng ngại cả. Đằng này tôi hỏi mua bốn. Về mặt số học, con số bốn nhỏ hơn số ba mươi gần chục lần. Mặc dù mỗi hộp chiếm tới năm mươi sợi con. Và ông thấy đấy, động tác họ phải bỏ ra cũng ít hơn. Tiền nong thanh toán gọn hơn. Phải hiểu được tâm lý họ, họ mới vui lòng phục vụ mình.
- Xin chịu ông! Hôm nay tôi mới thực sự biết tài của người. Minh thốt lên thán phục.
- Có gì đâu chuyện vặt ấy! Có điều mình phải biết dừng lại ở chỗ nào nữa. Cộng quân ta có cái tật "Thấy bở là cứ đào mãi". Như hôm nay, vào tay khác là nó nhặt bằng hết tất cả các cái rời còn lại trong quầy. Cứ như là lính đi càn ấy. Lần sau người ta cạch, có đấy họ cũng không bán cho. Lúc đó lại dở trò mua chuộc, hối lộ, giá cao, giá thấp. Làm hại hàng ngũ nhân viên bán hàng của người ta. Đằng này ông thấy không, cô ta còn mỉm cười "Xin mời hãy đến cửa hàng chúng tôi". Mà cô bé trông cũng nhẹ nhõm đấy chứ. Câu pha trò của Thắng làm cả hai cùng cười. Thắng mải lý sự, nhiều lúc vừa đi vừa va vào người Minh. Mỗi lần như thế, Minh lại giật thót lên như đấm vào đinh và nhích tấm thân nặng nề ra xa Thắng một chút. Thắng lấy lạ hỏi.
- Ông làm sao thế? Chân đau à?
- ừ, lạnh quá! Chân bị xước, hơi sưng một chút.
- Thế đã ngâm nước muối chưa?
- Bận quá, vả lại những việc lích kích ấy mình chúa ngại.
"Trời ơi! Thật là đồ cả ngố" Thắng nghĩa vậy và trên bến xe buýt, dưới ánh đèn cao áp sáng xanh, Thắng không tin vào mắt mình khi nhìn xuống chân Minh giữa mùa đông băng tuyết thế này mà đôi chân to lớn của anh ta như được phơi ra trong đôi giầy cổ lỗ, kiểu mõm ngoé của mùa hè. Lớp xi đánh chắc đã bay hết, giầy trơ ra lớp da hoá học xin xỉn.
Lòng Thắng rộn lên một nỗi thương cảm không biết ngần nào.
- Giầy lông đâu mà ông lại đeo cái của nợ mùa hè này?
- Rách từ năm ngoái rồi!... Mua đôi mới, không có tiền mà như thế lại đâm lãng phí ra. Về Việt Nam giầy hè còn ít khi dùng, nói chi đến giầy lông của mùa đông. Vả lại cũng sắp về rồi, chịu rét thêm một tháng nữa chứ bao nhiêu.
Minh thực thà đáp càng làm Thắng đau lòng. Anh hết nhìn chiếc áo pantô xám bạc phếch đến cặp kính trắng gọng nhựa và chiếc mũ lông hoá học rẻ tiền mầu tím than đã bắt đầu tơi ra, khẽ nén một tiếng thở dài.
- Ông sắp về nên cần hơn tôi, cầm lấy cả đi! Thắng đưa cho Minh bốn hộp mayso và nói thêm - cần gì nữa cứ đến tôi.
- Mình cũng chẳng biết phải cần gì nữa. Minh ngỡ ngàng thực sự.
- Thế tiền còn nhiều không?
- Cũng còn kha khá. Lại vừa nhận được liền mấy cái nhuận bút trên tập san kỹ thuật điện nữa.
- Thế này nhé! - Thắng ngẫm nghĩ một lát rồi bảo. Chiều mai tôi sẽ đến ông, nhất trí chưa? Tôi sẽ xem xét cụ thể về ông thế nào để chuẩn bị toàn bộ chuyến về cho ông. Bây giờ tạm biệt, tối nay tôi có chút việc bận.
Minh gật đầu, mỉm cười lặng lẽ. Không tỏ ý mời mọc mà cũng không tỏ ý gì là từ chối. Tuy nhiên, tối hôm sau Thắng vẫn đến. Nhìn mấy chiếc va li và hòm giấy gần như rỗng không của Minh, Thắng thấy mình có trách nhiệm phải giúp bạn. Anh nhận tất cả số tiền Minh đã gom góp được, phân tích cho Minh biết phải chi tiêu các khoản nào và nên mua các thứ gì. Chưa nghe Thắng nói hết, Minh đã rối ruột nói luôn "Thôi, trăm sự nhờ ông định đoạt". Thắng đã đứng ra làm tất cả không một chút vụ lợi nào. Cuối cùng, anh mới đề nghị Minh cho mình gửi ké một chiếc tủ lạnh. Minh cười hiền lành. "Thế ông cứ gửi thay tiêu chuẩn của tôi. Còn tiền mua thứ khác cũng được. Nhà mình có cóc khô gì để đâu mà phải tủ lạnh". "Không dùng thì bán, lo gì". Thắng lại phải thuyết phục. Hôm chia tay ở sân bay, Minh mới thực sự cảm động "Sao ông không gửi quà gì cho vợ con. Tôi sẽ mang nhanh theo người luôn".
- Cám ơn! Mình chỉ gửi thư và mấy thanh sôcôla
cho thằng nhỏ thôi. Ông nhớ đến thăm gia đình mình. Thắng đáp.
Chuyện tiền và hàng ở đây còn lắm nỗi éo le đến đau lòng. Thắng muốn kể cho bà thiếu tá Natalia một chuyện như thế này để nhấn mạnh luận đề "Có tiền là một chuyện. Còn tiền đó có mua được hàng không lại là một vấn đề không kém vất vả, đâu đầu".
Chuyện của anh chàng Minh, cả chục năm sống ở bên này, thế mà trông thấy những sợi dây mayso bầy bán trong quầy hàng đã sung sướng, hồi hộp đến phát run lên như đứa con trai mới lớn, lần đầu tiên đưa tay cởi khuy áo ngực, sờ vú người yêu mới chỉ nặng về phía hài. Chuyện sau đây thì lại thực sự nặng về phần bi hơn. Hôm đó, Thắng vừa ở một thư viện ra, anh chợt bắt gặp một người đàn bà Việt Nam run rẩy lần từng bước theo lan can sắt của một cửa hàng. Tưởng người đàn bà đó bị cảm lạnh, theo kinh nghiệm Thắng biết, anh dìu chị vào một cửa hàng ăn cho khuất gió và gọi mấy cốc chè đường thật đặc. Thấy vậy, người phụ nữ thều thào bảo "Mua hộ tôi món ăn gì đó... Từ sáng chưa kịp ăn gì". Thắng bê đĩa mì xào thịt bò lại. Người đàn bà ăn ngấu nghiến và một lát sau thì tỉnh lại. Chỉ kể cho Thắng hay, cả đời dạy ngoại ngữ chỉ hy vọng vào chuyến đi chỉnh tiếng ba tháng này. Nhà nghèo, phải giật lãi vài chỉ để mang hàng đi. Đã hai tháng rồi mà vẫn chưa mua sắm được gì. Nghĩ đến món nợ ở nhà mà thêm rối ruột. Vừa tan học, không kịp ăn uống gì phải lao tới các cửa hàng ngay...
Thắng còn muốn kể cả nỗi phẫn uất cho bà thiếu tá nghe cả cảnh người Việt Nam đi mua hàng bằng tiền của mình mà quá là cảnh người ăn xin, bị người bán hàng gắt gỏng, xua đuổi, không muốn giao dịch. Và không ít các nhân viên, tuồn hàng ra cửa sau, để ăn chênh lệch giá của khách. Nhưng cũng như các câu trả lời trước, Thắng phải lựa lời, bởi vì chỉ một sự nổi nóng vô lý của người thi hành công vụ cũng có thể gây cho anh những phiền hà, ách tắc khôn lường. Bởi thế anh lại đổi giọng và đổi cả sắc mặt, giải thích cho ba thiếu tá Natalia một cách hài hước rằng:
- ở nước chúng tôi có một câu như thế này. Vấn đề chính yếu, đầu tiên là tiền đâu? Khi đã có tiền thì mọi cái trở nên dễ dàng, đơn giản vô cùng. Riêng với tôi ư? Hàng hoá cần vận chuyển đã có tắc-xi giúp cho hết. Tôi nghĩ đó cũng là chuyện hợp tình, hợp lý.
- Tôi cũng hỏi đùa anh vậy thôi! Bây giờ đi vào việc chính nhé! - Bà thiếu tá nói giọng dàn hoà. Anh nói là anh đã nắm vững quy chế mới của Hải quan rồi?
- Thưa bà, tôi đã trả lời, đúng như vậy! Thắng đáp dứt khoát.
- Mỗi thứ không quá một đơn vị, anh hiểu chứ? Bà gặng thêm.
- Thưa bà, đúng như quy định mới. Cái gì đến số hai, xin bà cứ thẳng tay gạt lại.
- Được, anh dỡ hàng ra đi! ồ, chúng ta chuyện trò sắp hết cả buổi sáng rồi đấy. Bà liếc nhìn vào chiếc đồng hồ nữ, mặt hình bầu dục đeo nơi cổ tay tròn lẳn của mình - Ta bắt tay vào việc chính thôi!
- Thưa bà vâng! - Thắng trả lời rồi ghé tai Huy nói nhỏ bằng tiếng Việt.
Huy quay ra phía cửa nhà kho. Chưa đầy năm phút sau đã thấy ba người đàn ông lực lưỡng cùng với Huy bước vào. Đó là những công nhân bốc vác ở bến kho này mà Thắng đã hợp đồng sẵn từ chiều hôm qua.
Rồi Thắng thò tay vào túi áo vét lấy ra một chiếc chìa khoá. Anh tra chìa vào khoá mở và rút thanh sắt chốt ngang ra. Cánh cửa thùng hàng được mở ra nhẹ nhàng như mở hai cánh tủ. Sau đó anh lùi lại. Như một phương án tác chiến đã được luyện tập kỹ càng, ba người thợ bốc vác ném những mẩu thuốc cháy dở xuống sàn kho, giậm những bàn chân nặng nề cho tắt lửa, bước lên. Họ lần lượt lôi ra những kiện hàng lớn nhỏ, dài, cao khác nhau. Tất cả có tám kiện như thế được đóng vào tám chiếc hộp các tông cứng. Chiếc thùng gỗ thông trở thành ruột toa xe rỗng.
- Tôi xin bắt đầu từ hòm thứ nhất! - Thắng quay sang nói với bà thiếu tá. Rồi anh nhẹ nhàng rút một vài đầu dây ở phía đáy thùng. Sau đó, anh quay lại nói với nhóm thợ bốc vác như ra lệnh.
- Xong! Nhấc tấm lưới ra trước, rồi nhấc đến chiếc
hòm các tông chụp ra. Cẩn thận. Có thể còn dây vướng dưới đáy đấy!
Bà Natalia khen thầm cách tổ chức cũng như những nút dây buộc khéo léo của anh. Những người khác, khi tháo dỡ thế này, các nút dây thường rối tung, rối mù lên. Nhiều khi phải dùng dao cắt từ trong. Mồ hôi đổ nhễ nhại càng làm họ luống cuống hơn. Riêng Thắng, anh chỉ thấy nhón mấy đầu ngón tay là xong. Cuộn dây được Thắng đan thành một tấm lưới chụp vào hoặc gỡ ra chỉ cần ném vài đầu mối là xong. Nhẹ nhàng, thuận lợi và chắc chắn biết bao.
Những người thợ bốc vác đã rút chiếc hộp các tông chụp phía trên ra. Họ phải lột một tấm chăn chiên rồi một tấm mút đệm nữa mới thấy lộ ra nước sơn nâu lâu ngày bóng lộn lên. Một chiếc đàn dương cầm hiện ra.
- Thưa bà, đây là chiếc đàn Pianô! Số lượng một ạ!
Thắng làm ra vẻ lễ phép nhưng không giấu nổi vẻ khiêu khích!
- Được!... Nhưng hình như không phải là đàn của chúng tôi. - Bà thiếu tá hỏi lại.
- Dạ! Đúng thế! Bà quả là người thật tinh. Chiếc Pianô này của Ytalia đó, thưa bà.
- Anh kiếm ở đâu ra thế? Không phải ở viện bảo tàng âm nhạc đấy chứ? - Bà vẫn giữ giọng hài hước, như đùa.
- Không, ở ngay cửa hàng đồ cũ trung tâm! Của một bà cụ rất già sống độc thân. Bà ký gởi đã bốn năm mà không có ai ngó ngàng tới. - Thắng trình bày - Tôi có lấy biên lai của cửa hàng. Bà có thể kiểm tra ngay ạ!
- Anh có biết cây đàn này được sản xuất vào năm nào không?
- Dạ, không chính xác lắm! Nhưng theo lời kể của bà cụ thì đã rất lâu. Cụ cho biết, từ lúc đẻ ra, cụ đã thấy cây đàn này kê ở một góc phòng rồi!
Bà thiếu tá ngó xung quanh cây đàn. Thắng nghĩ, chắc bà ta muốn kiểm tra xem mình có giấu cái gì đó bên trong hộp đàn chăng? Nhưng không phải, bà lẩm bẩm. "Đây là loại đàn rất cổ". "Dạ, vâng, có lẽ thế!" Thắng đế theo. Sau khi đã cố tìm "êtikét" quanh các góc để tra cứu lý lịch của cây đàn mà không thấy, bà thiếu tá lật nắp đàn lên. Những ngón tay phải của bà lướt qua một lượt trên các phím mầu trắng ngà. Rồi như hứng chí, cũng chỉ với những ngón tay đó, bà nhấn mạnh hơn vào một số phím, đánh lên một bản nhạc ý rất vui, bài "Mặt trời của tôi". Tiếng đàn ấm, ngân rất sâu dưới bàn tay của bà thiếu tá làm mọi người sửng sốt, thán phục.
- Bà chơi không kém gì một nhạc công chuyên nghiệp. Thắng buột miệng thốt lên khi tiếng đàn ngừng bặt, và anh đột ngột hỏi tiếp. - à, bà có biết Đặng Thái Sơn của chúng tôi?
- Biết! Người đã đoạt siêu cúp Sôpanh chứ gì? Hồi còn ở thủ đô, tôi cùng con gái có đi xem anh ta biểu diễn một lần ở nhà hát lớn. Một tài năng âm nhạc thực thụ và rất lớn đó!... Khi anh ta đã kết thúc buổi biểu diễn mà khán giả chúng tôi vẫn chưa muốn ra về! Chúng tôi cứ đứng mà vỗ tay. Để đáp lại sự ngưỡng mộ của công chúng, anh ta đã trình bày một bản dân ca Việt Nam với tiếng vó ngựa khua rất rộn ràng và vui. Tôi mường tượng ra như tiếng nhạc ngựa đám cưới thì phải.
- Bà thực sự có thẩm mỹ âm nhạc tuyệt vời! Đó là bài "Lý ngựa ô". Một khúc dân ca nói về tình yêu của tổ tiên chúng tôi từ ngàn xưa. Người con trai, sau khi đã đỗ đạt, vinh thăng, không quên mối tình cũ, đem ngựa về đón người yêu về chung sống trọn đời.
- Tuyệt quá nhỉ? Thế anh có định cho con anh thành một Đặng Thái Sơn thứ hai không?
Câu hỏi này của bà thiếu tá quả thực làm cho Thắng rất bất ngờ. Nhưng rồi anh cũng tìm cách trả lời được.
- Ước muốn về tương lai của con cháu ai mà không có, thưa bà! Nhưng ở đất nước tôi, đất nước nông nghiệp lạc hậu nên ước muốn gì thì gì, không bao giờ thoát ly thực tế. Bởi vậy mới có câu ca thế này, "nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ".
- Thế à? Thế thì tôi hiểu! Hiểu rõ rồi. Bà thiếu tá hạ giọng lẩm bẩm vẻ suy nghĩ rất lung. Thắng hoàn toàn không hiểu cái hạ giọng và những suy nghĩ đang diễn ra rất quyết liệt trong đầu óc bà. Anh bảo mọi người đóng gói lại rồi để ra góc kia! - Bà chỉ tay ra một chỗ trống.
Thắng vẫn không nắm bắt được ý định của bà thiếu tá. Anh những tưởng bà đã cho qua. Anh vui vẻ khoát tay cho những người thợ bốc vác.
- Nào, anh giới thiệu tiếp đi! Còn gì nữa nào? Bà thiếu tá cố lấy giọng như lơ đãng hỏi.
- Đây là tủ lạnh. Số lượng, thưa bà, cũng chỉ có một. Thắng chỉ vào một chiếc thùng các tông dựng đứng cao ngang đầu anh.
- Mở ra đi! - Bà ra lệnh cụt lủn.
- Xin sẵn sàng!
Thắng cũng đáp lại đanh gọn. Rồi anh lại nhón tay rút một loạt nút dây ở phía trên. Chiếc lưới chụp được kéo tụt xuống phía dưới. Những người thợ bốc xếp đã trực sẵn ở bên. Họ làm tiếp những thao tác nặng nhọc, vẫn nhấc chiếc thùng các tông cứng chụp trên chiếc tủ lạnh ra.
- Tủ lạnh loại gì mà quá kích cỡ thế anh bạn? Bà thiếu tá dường như đã lấy lại được giọng hài hước hỏi tiếp.
- Thưa bà tủ Zim đấy ạ! Loại này mới có 350 lít. Còn loại Zim lớn hơn đấy chứ. Theo tôi phải tới 500 lít chứ không thể nhỏ hơn. Thắng cũng hào hứng đáp lại.
- Zim à? Hừ! Anh kiếm được tủ lạnh Zim ở đâu thế? Tôi biết là ở tất cả các cửa hàng làm gì có bán đại trà loại tủ lạnh này?
- Vâng, thật không có gì giấu được bà. Thắng lại mở đầu sự giải thích bằng một lời khen. Mà quả thực bà rất xứng đáng được nhận những lời khen đó. Ngoài nghiệp vụ Hải quan rất sành sỏi, bà còn thể hiện mình như một nhà xã hội học rất sát với đời sống thực tế và nắm bắt được cả diễn biến tâm lý phức tạp của con người. Chiếc tủ lạnh Zim này tôi mua lại của một ông già. Một cựu chiến binh từ thời chống phát xít...