Phần 9
Phải, sau bữa đi thị sát, thăm thú ở các trạm gửi hàng về, Thắng đã đề ra một quyết định chiến lược, quyết định triệt để thay đổi cơ cấu thùng hàng. Đúng như kế hoạch đã được vạch ra, các thứ lặt vặt, có số lượng lớn có trị số chuyển đổi cao mà Thắng đã mất bao công sức trong các chuyến đi "hoạt động cách mạng" mới săn lùng được, anh đã sẻ cho hai đoàn đi công tác ngắn hạn. Thế là xong được bước một. Nhưng bước hai, quan trọng hơn là mua những thứ gì thay thế đây để sao cho vừa mua hết được số tiền lớn mà về nước vẫn gữi được hiệu quả kinh tế tương đối là một câu hỏi không dễ trả lời.
Tủ lạnh ư? Tất nhiên là phải mua một cái rồi! Nhưng phải tìm một cái cho ra hồn. Giá trị của một cái loại này phải bằng năm sáu lần loại thông thường khác. Muốn thế thì phải tìm bằng được tủ Zim. Nhưng kẹt một nỗi là loại tủ này chỉ dành ưu tiên phân phối cho những cán bộ cao cấp, những cựu chiến binh từ thời chống phát xít, các nhà khoa học có vị trí và uy tín lớn, những người có thành tích nổi bật trong các lĩnh vực nghệ thuật và sản xuất... làm thế nào mà mua được? Để giải đáp câu hỏi này, Thắng đã phải lê gót đi khắp các cửa hàng, chầu hẫu ở những quầy tủ lạnh và đồ tiện, la cà quanh các ông bà già, nhất là các vị trên ngực lấp lánh cuống huân chương, dỏng tai nghe ngóng, phán đoán và bắt chuyện. Chưa hết, đi đến đâu, lên hoặc xuống các bến tàu, bến xe nào, Thắng cũng dừng lại, tìm đến quanh các cột đèn, lại các bức tường nơi có dán chi chít các loại giấy bướm, quảng cáo bán các thứ hàng tầm tầm của tư nhân. Thôi thì đủ thứ. Nhưng nhiều nhất vẫn là quần áo cũ và yêu cầu đổi nhà từ khu vực này đến khu vực khác. Một buổi trưa, sau khi đã đọc chán các giấy bướm đủ hình, đủ loại dán chi chít, quanh vách gỗ của một điểm chờ tại bến xe buýt, Thắng thơ thẩn đến bên chân cột bê tông của một cây đèn cao áp. ở đó chỉ lơ thơ vài tờ giấy bướm quảng cáo. Và mắt anh đã hoa lên khi những dòng chữ được viết bằng mực bút bi mềm tím, nét chữ chân phương của người ít học nhưng rất cẩn thận đập vào mắt "Cần bán một tủ lạnh Zim còn mới tinh, nguyên hộp". Phần địa chỉ ghi dưới mảnh giấy khiến Thắng phải lục mãi trong trí nhớ mới tìm ra là nó nằm tít ở khu ngoại ô phía bắc thành phố. Nhưng không sao. Xa một tý, lại có một cái tuyệt vời riêng mà ở trung tâm không bao giờ có thể có được. Thắng đảo mắt nhìn xung quanh, thấy không có ai để ý đến mình, như một tên ăn trộm, anh vội đưa tay bóc trọn cả tờ giấy bướm, nhét vội vào túi áo pantô - Vì cơ cấu của tờ quảng cáo bao gồm hai phần. Phần trên ghi thứ cần mua bán, trao đổi cùng địa chỉ liên hệ. Phần dưới ghi số điện thoại, được chia nhỏ và cắt thành hình đuôi nheo. Khách cần liên hệ chỉ việc cấu một tý đuôi nheo có ghi số điện thoại là đủ. Nhưng Thắng sợ nhiều người cùng có số điện thoại, tranh mua với mình thì phiền nên anh bóc trọn cả tờ cho gọn. Có lẽ đây là "cuộc chơi" duy nhất không được "đẹp" của Thắng trong suốt thời gian năm năm anh ở đây. Và sau hành động trộm cắp đó, anh lập tức nhẩy bổ sang bên kia đường, nơi có trạm điện thoại tự động. Cú gọi đầu tiên, vì hồi hộp quá anh để dính số phải quay lại từ đầu. Lần thứ hai, bình tĩnh hơn, anh thao tác chậm rãi, đúng quy trình nhưng khi đặt ống tổ hợp bên tai, một lúc lâu, từ đầu dây bên kia chỉ phát ra tín hiệu báo chủ nhân không có nhà. Để chắc chắn hơn, anh buông máy, đứng nghỉ một lát rồi gọi lại. Vẫn tín hiệu một ngắn, hai dài báo máy rỗi rãi nhưng không có người sử dụng.
Thắng gọi liên tục suốt ba ngày vào các giờ khác nhau mà không sao liên hệ với chủ nhân được. Đã vô cùng chán nản thì vào buổi tối thứ tư, tuyết rơi mù mịt, rỗi rãi vì không thể đi chơi đâu được. Thắng mò xuống tầng một của ký túc xá, nơi đặt điện thoại công cộng. Anh đã thuộc lầu số điện thoại nên không cần cầm tờ quảng cáo đi theo. Từ đầu dây bên kia, tiếng một ông già chắc nịch cất lên:
- A lô, ai gọi đó?
- Dạ, tôi!... Tôi có nguyện vọng mua tủ lạnh Zim của ông. Hy vọng là ông chưa bán cho ai chứ?
- Chưa! Tôi mới ra nhà nghỉ đông mấy hôm nay.
- Thế sáng mai tôi đến ông được chứ?
- Sáng mai tôi lại đi rất sớm rồi. Còn mười ngày ở ngoài nhà nghỉ nữa cơ. Lạnh quá, tôi phải tạt về lấy thêm ít đồ dùng.
- Gay quá nhỉ! Như vậy là tôi phải chờ rất lâu... Hay bây giờ tôi đến chỗ ông có được không?
- à, quên tôi chưa hỏi kỹ!...
- Gì cơ?
- Tủ của ông đã sử dụng rồi hay chưa?
- Sử dụng ư? Mới nguyên xi. Tôi mua từ năm ngoái. Sau khi đưa thợ bảo hành đến nhà kiểm tra, tôi lại đóng gói lại nguyên vẹn. Một mình, cũng chẳng có gì bỏ vào, dùng không hết công suất, phí!...
- Thế ông muốn bao nhiêu?
- Bao nhiêu à? Ông già cười khà khà. Bạn thân mến ơi! Anh có phải là người biết người, biết của không? Nếu là người biết người, biết của thì hãy đến. Rồi chúng ta sẽ thoả thuận. Trao đổi qua máy điện thoại không được tiện lắm, anh bạn ạ.
- Thôi được! Sau một giờ nữa, tôi sẽ có mặt ở chỗ ông.
- Được! Tôi chờ...
Bầu trời thấp lè tè một mầu trắng đục. Tuyết mù mịt rơi như có những bàn tay khổng lồ vốc những nắm bột tung hê lên trời. Gió lốc quay tròn, thổi thốc lên từng hồi. Những hạt tuyết cứng như sạn ném vào mặt vào cổ Thắng bỏng rát. Nhưng đối với Thắng lúc này, rét thế chứ rét nữa cũng chẳng có nghĩa lý gì. Anh xuống xe điện ngầm phóng thẳng một mạch lên phía bắc. Lại đáp tiếp một cuốc xe buýt rất lâu mới tới một khu nhà cao tầng chơi vơi giữa một bãi tuyết như hòn đảo. Từ bến xe vào, lạnh ghê gớm, Thắng phải vừa đi vừa chạy. Ông già cựu chiến binh ở tận tầng chín. Một người nhỏ bé, khổ người còn thấp hơn cả Thắng. Hai người bắt tay nhau hồ hởi. Đúng phong tục Nga, ông già bắt Thắng phải cạn mấy cốc rượu trắng nặng đến cháy họng mới bắt tay vào việc mặc cả, mua bán. Có lẽ trước lúc Thắng đến, ông đã nhấm nháp ít nhiều nên sau lần chạm cốc thứ ba ông đã chuyếnh choáng say. Bởi thế khi Thắng bảo ông cho biết giá, ông đã chìa ra tám ngón tay (gồm cả bàn tay phải và ba ngón tay trái). Thắng cũng làm động tác thay cho lời nói bằng cách cụp hai ngón tay trái của ông lại. Ông quầy quậy lắc đầu. Nhưng rồi không hiểu nghĩ thế nào, ông lại tự nguyện cụp thêm một và chỉ một mà thôi. Thế là giá cả được thoả thuận. Bẩy trăm, đắt gấp đôi giá cung cấp nhưng Thắng cũng cảm thấy mình thật may mắn. Anh nghĩ giá như ông già cứ khăng khăng tám, anh cũng phải chấp nhận. Cho tiền cẩn thận vào túi áo sơ mi bên trong xong, ông già viết mấy chữ nghệch ngoạc chứng nhận cho Thắng rồi yêu cầu anh phải lập tức đem tủ đi ngay. Thắng muốn dùng điện thoại nhà ông để gọi tắc-xi. Khi nào xe tắc-xi đến, anh mới đưa tủ xuống. Nhưng có lẽ ông già đã say nên giục Thắng rất kiên quyết, ông còn bảo "Dưới đó thiếu gì... Cứ đưa tủ xuống là có xe ngay!". Sợ tính khí ông trong lúc say có sự thay đổi thất thường gây thêm phiền hà gì chăng, Thắng quyết định hành động. Anh buộc dây chằng cẩn thận nhưng cố để lòi bốn bánh xe đẩy ra, anh đẩy chiếc tủ ra cầu thang máy.
Khi xuống tới mặt đất, anh mới thấy mình quá vội vàng. Lúc đó mới khoảng chín giờ tối nhưng mùa đông trời lạnh nên có cảm giác khuya lắm rồi. Bãi tuyết mênh mông không một bóng người. ánh đèn cao áp toả xuống những quầng sáng xanh càng thêm lạnh lẽo. Xa tít tận đường quốc lộ, thỉnh thoảng mới thấy ánh đèn ôtô quét loang loáng như bay. Thắng nghĩ, cứ đứng trước tường nhà, chờ đến sáng mai cũng chưa chắc có chiếc xe tắc-xi nào mò vào. Bừng bừng một quyết tâm, anh quyết định đẩy dần chiếc tủ lạnh ra phía đường cái chính. Mặt tuyết đông cứng lại, lồi lõm, bánh xe nẩy lên rồi lại cắm xuống, chiếc tủ lật nghiêng về phía này, phía nọ nhích dần lên từng bước. Thắng hết đẩy lại kéo. Chiếc tủ mấy lần suýt lật nghiêng. Máu nóng bốc lên đùng đùng, cuối cùng Thắng quyết định quay lưng lại, oằn người xuống, cõng chiếc tủ trên lưng cố đi từng bước ngắn. Mồ hôi túa ra đầy người, đầy cổ vì nặng, vì mệt và nỗi bực tức bất lực. Đến giữa bãi tuyết, Thắng không còn sức để lê lết thêm một bước nào nữa. Anh đặt chiếc tủ xuống và thở dốc. Thở cả mũi và mồm cũng tranh nhau thở khiến ngực anh như tắc nghẹn lại. Anh vốc một nắm tuyết xoa lên mặt. Tuyết lạnh thấu da làm cho anh tỉnh ra đôi chút. Sau cùng, anh đành bỏ chiếc tủ nằm chỏng chơ giữa bãi tuyết trống, rảo bước ra phía đường cái, vừa đi, thỉnh thoảng vừa quay lại nhìn. Nửa giờ sau, anh "bắt" được một chiếc tắc-xi nhận vận chuyển với giá đắt gấp ba giá bình thường. Nhưng cả hai người đều loay hoay mất hơn nửa tiếng nữa cũng không làm sao đưa chiếc tủ lạnh vào xe được. Hai người phải tháo cả cánh cửa xe và ghế đệm phía sau cũng không tài nào cho nổi. "Phải kiếm tắc-xi tải thôi. Tắc-xi thường không kham nổi đâu". Người tài xế tiếc rẻ khuyên Thắng. Lúc đó Thắng vẫn còn đủ tỉnh táo để nhờ người lái xe tắc-xi, phóng xe đi tìm "tắc-xi tải" cho mình. Thắng còn ứng trước tiền cho anh ta. Nhưng một tiếng, hai tiếng rồi ba tiếng trôi qua, người lái xe tắc-xi không quay trở lại. Cũng chẳng thấy chiếc "tắc-xi tải" nào đến chi viện, giúp đỡ Thắng. Đó cũng là lẽ thường tình thôi. Cũng có thể anh ta đã gặp khách phải phục vụ một "cuốc" dài và vội. Cũng có thể anh ta rất chú ý nhưng không bắt gặp chiếc "tắc-xi tải" nào. Và còn có rất nhiều nguyên nhân khác trên đường. Vả lại số tiền Thắng ứng trước cho anh, dù cho có tới mười đồng thì cũng chẳng phải là lớn lao lắm, công anh ta hì hục tháo lắp cánh cửa và đệm xe cũng đáng được trả năm đồng rồi.
Thắng vẫn đứng đó, chờ một cách vô vọng. ánh đèn pha ôtô ở phía đường cái lớn cũng thưa thớt dần rồi gần như mất hẳn. Chỉ có gió tuyết vẫn thổi thốc từng hồi. Những hạt tuyết sắc lạnh như những hạt cát nóng bỏng vẫn không thôi quất vào mặt, luồn vào cổ Thắng. Những ngón chân trong đôi giày lông hảo hạng của Nam Tư mỗi lúc một nhức buốt, tê cứng như những con cá trong bể ướp đá dính lại với nhau, hành hạ Thắng. Biết chắc chắn là không thể thuê xe trong đêm bão tuyết mịt mù như thế này, mà cũng không thể bỏ của quý hiếm một đống tiền chơ vơ ở đường, không còn cách gì hơn, Thắng bắt đầu tháo dây chằng rồi lột chiếc vỏ các tông ra, đặt sang một bên. Đầu tiên, anh đã chui cả mình vào trong tủ lạnh co ro ngồi trong đó. Không còn gió lốc, còn tuyết gì nữa người anh ấm dần lên. Nhưng vì ngăn làm đá của tủ lạnh rất lớn, đầu anh bị kích, ôm gối ngồi co ro mãi, mỏi không chịu nổi. Thắng lại phải chui ra. Song với đầu óc của một nhà kỹ thuật, cuối cùng Thắng cũng "thiết kế" được cho mình một chỗ ngủ ngồi qua đêm bằng chiếc khay nhựa đựng hoa quả lộn ngược làm bệ ngồi và chiếc vỏ thùng các tông làm tường vây xung quanh. Trong chiếc vỏ ấy Thắng đâu có được yên tĩnh vì gió lốc cứ đập những cạnh hộp vào người anh không dứt. Nhưng khổ nhất vẫn là đôi chân, đôi chân lạnh cứng, tê buốt đến tận óc khiến anh không chịu nổi. Cứ độ nửa tiếng. Thắng lại phải chui ra khỏi chiếc hộp chụp, nhẩy cẫng lên tại chỗ một hồi, đến lúc thấy các chân tự cử động được mới lại thu lu vào ngồi trong hộp. ấy thế mà cũng có lúc anh ngủ được. Hay nói đúng hơn, tâm hồn anh từ trạng thái thực tại vụt biến sang trạng thái huyền ảo của những giấc mơ. Đột nhiên, anh thấy đứa con trai tám tuổi của anh với nét mặt nguệch ngoạc, hai cái tai to vểnh lên như tai chú béc giê, hàm trên không còn chiếc răng sữa nào, đang mút mát những viên nước đá như những hòn cuội đựng trong chiếc cốc nhựa màu vàng chanh. Thằng bé rất hồ hởi nói với anh "Mai bố mua xoài về nhé! Xong rồi đánh ra, cho vào tủ lạnh làm kem xoài, ăn hết ý đấy bố ạ! Anh cười, xoa xoa tay lên cái đầu húi cua và chăm chú nhìn vào cái gáy lõm đen đủi, gầy gò như một chiếc ống bơ gỉ. "Mày tham ăn thế mà chả béo lên được là vì sao?". Đột ngột anh hỏi con. "Bố cứ cho con ăn nhiều kem vào là thế chứ!" "Ăn đá chỉ tổ nóng, hại người chứ ích gì!" "Đá lạnh cứng cả tay mà bố bảo là nóng. Mẹ bảo bố dở hơi là phải". Thằng bé lý sự. Anh thì lại cười cười... Rồi anh thấy một người đàn bà len đến ngồi giữa hai bố con anh từ lúc nào. Cái vai xuôi xuống với cái lưng phẳng trong chiếc áo cánh phin cột tay cũ kỹ để lộ đôi cánh tay trần tròn lẳn, sạm nâu thì đúng là dáng dấp của vợ anh, không để lẫn với ai được. Nhưng sao mặt lại là mặt một người đàn bà khác với đôi mắt tròn, trong suốt như hai viên bi ve và cái mũi nhòn nhọn hơi hếch lên. Người đàn bà đó, tay cầm một thứ gì mềm bằng xô màn cứ lau miết vào cánh cửa tủ lạnh. Vừa lau, mồm vừa lẩm bẩm "vận chuyển hàng vạn cây số mới về được đến đây. Qua cả kênh Xuy-ê. Rồi eo biển Xanh-ga-po nữa đấy nhé. Được thế, không bẹp khi cẩu lên, cẩu xuống là mừng lắm rồi" "Anh thì cái gì cũng như là của bắt được ấy. Cái mặt tủ sát sơn thế mà còn kêu mừng với chả mành". Thấy bố mẹ tranh luận, thằng con toét cái miệng đen đen không còn chiếc răng sữa nào, quay về phía anh có vẻ ủng hộ. "Mẹ chỉ được cái hay tiếc của thôi bố nhỉ?".
Đột nhiên, không hiểu sao, anh lại buột ra cái câu cửa miệng của ông Vương, bạn thân của bố anh từ hồi họ còn học với nhau ở trường Bách Nghệ; và anh suýt nữa thành rể của ông "à, đời chỉ có thế mà thôi!". Sau câu nói ấy, anh bỗng thấy trời tối đen lại. Không thấy đứa con trai và người đàn bà có cái lưng, đôi tay mang dáng dấp của vợ anh đâu nữa. Sau đó, như ánh đèn trên sân khấu bật lại khi đã thay cảnh xong, anh lại thấy trời sáng trở lại. Nhưng lúc này trước mặt anh chỉ có độc chiếc tủ lạnh. Cánh cửa tủ mở tung ra. Rồi thì đá, những khối nước đá như những chiếc bánh mỳ gối tự động trôi ra, hết tay này đến tay khác "ồ, đá này cung cấp cho các quán cà phê, giải khát mùa hè thật là tuyệt vời! Hái ra tiền chứ chả phải chơi" anh vừa lẩm bẩm tính toán đến đó thì một khối nước đá trôi vào chân anh. Anh không cảm thấy lạnh mà hai chân lại thấy nóng lên như có lửa đốt... Và lửa, lửa thật, lửa từ tay tủ lạnh cháy lem lẻm trên các tảng nước đá trôi ra. Trời ơi! Thế là thế nào? Tủ bị chập điện à? Nhưng sao lửa lại có thể cháy trên các tảng băng được. Sợ quá, lửa đang cháy dưới hai chân anh, đã bắt vào hai ống quần và đang cháy dần lên. Anh thét lên một tiếng và choàng tỉnh dậy. Trong một hai giây đầu, anh không biết mình đang ở đâu. Bỗng anh nghe thấy những người đàn bà nước ngoài ở đâu đi vừa rất gần mà lại như văng vẳng ở tận nơi xa. Chính những tiếng người đàn bà lao xao đó đã khiến anh tỉnh hẳn lại. Và anh mới chợt định thần là hiện tại mình đang ở đâu. Anh đứng dậy, lật chiếc vỏ hộp các tông tủ lạnh, chui ra. Tiếng lao xao bên ngoài vỏ "ồ" lên từ miệng bốn năm người đàn bà. Họ hết sức ngạc nhiên nhìn Thắng như một thứ cây thức củ ở dưới đất đột ngột chồi lên.
- Chào một buổi sáng tốt lành! - Thắng nhanh nhảu lên tiếng trước.
- Chào một buổi sáng tốt lành!
- Chào một buổi sáng tốt lành!
Những người đàn bà nhao nhao đáp lại theo phản xạ.
- Các bà ngạc nhiên lắm phải không? Thắng vừa cười vừa hỏi.
- Không ngạc nhiên làm sao được? Giữa bãi tuyết trống thế này lại mọc lên một chiếc tủ lạnh. Mà lại là tủ lạnh Zim mới kỳ lạ chứ! - Một giọng đàn bà hiền hậu cất lên.
- ồ mọi cái đều có thể. Đó chẳng phải là câu ngạn ngữ của nước bà đó sao. Thắng giải thích.
- Thế anh kiếm đâu ra chiếc tủ tốt và mới tinh thế này? Một người khác vẫn không giấu được sự tò mò.
- Tất nhiên là tôi không đi thuổng ở nhà nào trong khu tập thể này. Giả sử như tôi có ăn trộm mà không bê nổi thì giờ này cũng phải chuồn, phải bỏ của chạy lấy người thôi. Thắng nửa pha trò nửa kể lại. Xin các bà yên tâm. Tôi mua của một ông già cựu chiến binh...
Giờ đây, câu chuyện đó tái hiện lại trong óc Thắng đủ tất cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Nhưng anh không thể kể lể dài dòng cho bà thiếu tá Natalia được. Anh chỉ lấy ra một vài điểm đặc trưng như giấc mơ khi anh chợp mắt được đôi chút, giữa bãi tuyết trống mênh mông trong vỏ chiếc hộp các tông để chống chọi phần nào với cái rét khắc nghiệt của đêm bão tố.
- Anh không "phăng-tê-di" câu chuyện của mình đấy chứ? - Sau khi nghe xong bà thiếu tá hỏi.
- Đó là sự thật một trăm phần trăm, thưa bà! - Thắng đáp.
- Thôi được rồi! Anh cho đóng gói lại và chuyển cùng một chỗ với cây đàn Pianô kia! - Bà thiếu tá nhẹ nhàng ra lệnh. Dường như những đấu tranh day dứt trong lòng bà đã qua. Trên nét mặt bà không biểu lộ sự gợn gạo nào. Thắng liếc nhìn vẻ mặt bà cũng cảm thấy yên tâm.
- Có lẽ giờ đã đến lúc nghỉ trưa - Thắng nhìn vào chiếc đồng hồ xitizen vàng chanh đeo trên tay và đề nghị bà thiếu tá. Chúng ta có thể nghỉ độ nửa giờ không ạ? Chúng tôi có đem theo phích đựng cà phê nóng và cả đồ ăn nguội. Nếu bà cho phép, xin bà tạm dừng tay ăn bữa trưa với chúng tôi.
- Cám ơn anh bạn! Nếu thấy cần anh cứ nghỉ tự nhiên! Hôm nay chỉ có mình anh gửi hàng. Tôi muốn làm thông tầm luôn, rồi về sớm có chút việc. Bà thiếu tá vẫn thân mật đáp.
- Thế bà dùng tạm một cốc cà phê sữa nóng ạ! - Thắng nài nỉ.
- Cám ơn! Tôi cũng có đem theo. Nhưng quả thật là hôm nay, tôi không muốn dùng gì!
- Dạ, nếu thế xin bà cho tiếp tục làm việc ạ!
- Được! Nếu tiếp tục anh cho mở chiếc hòm các tông kia! - Bà Natalia chỉ tay vào một hòm dài, đặt nằm như một chiếc giường đệm cá nhân.
- Dạ thưa bà, đấy là chiếc thùng đựng môtô ạ! - Thắng tỏ vẻ xun xoe đáp. Rồi anh vẫy tay cho cánh thợ bốc vác mở phanh chiếc vỏ hộp các tông ra.
Mười phút sau, một chiếc môtô, loại 350 phân khối, hai ống xả, nước sơn đã bóng loáng được dựng lên. Bà thiếu tá hết nhìn chiếc môtô lại quay sang nhìn Thắng như so sánh, ước lượng điều gì.
- Anh mua chiếc môtô dài thế này để làm gì?
Cuối cùng, theo thói quen, bà vẫn hỏi.
- Hơi lớn quá so với thân thể tôi phải không ạ!
Thắng hỏi lại rồi lại giải thích luôn. ở nước tôi, phương tiện giao thông còn nghèo nàn lắm, thưa bà. Có một nhà báo phương Tây đã gọi Hà Nội là thủ đô của xe đạp. Bởi thế, tôi định về nước sẽ đóng thêm một chiếc thùng phía sau làm xe "lôi" chở hàng hoá, hoặc cả gia đình ngồi lên đó, đi du lịch rất tiện lợi ạ.
- Có thể đây là một sáng kiến tuyệt vời đấy! - Bà thiếu tá buông một lời khen. - Anh cho đóng gói lại đi.
Thắng cảm thấy nhẹ người. Như vậy, thùng hàng đã kiểm tra được một nửa. Còn lại ba khối các tông nữa chưa được mở ra. Chưa thấy bà thiếu tá có biểu hiện gì cáu kỉnh hoặc không hài lòng. Còn lúc này, bà đang chậm rãi đi vòng quanh các hộp các tông chưa được kiểm tra. Rồi bất chợt bà chỉ vào một khối vuông như một chiếc bàn làm việc.
- Anh cho mở thùng ở giữa kia ra! Bà chỉ tay ra lệnh.
- Xin sẵn sàng, thưa bà! Thắng đáp. Và lần này, tự tay anh cởi nút dây, tự mình thao tác dỡ từng mảnh các tông ống vào khối hàng ra. Anh làm rất thận trọng như trong thùng toàn hàng chứa đồ thuỷ tinh dễ vỡ. Qua một lớp mút dầy bọc ngoài, một chiếc hộp các tông bên trong nữa hiện ra. Hai chữ xanh in đậm trên mặt các tông đập vào mắt bà thiếu tá. Bà thốt lên.
- Sanyo à!
- Dạ, vâng Sanyo ạ! Thắng đáp.
- Ti vi hả?
- Không, Viđiô đa năng - ba chiều ạ! Tiếng Thắng như gió thoảng.
- Viđiô đa năng ba chiều ư? Lại Sanyo của Nhật nữa!
Hừ, thế ra từ sáng đến giờ anh toàn lừa tôi. Bà thiếu tá bắt đầu dài giọng, có phần giận dữ. Anh kiếm thứ này ở đâu? ở đâu?... Tôi nói cho anh biết nhé, những thứ này chỉ có bán ở cửa hàng Inteshop mà bán bằng đôla. Bán bằng đôla để mua Viđêô, anh hiểu chưa? Anh thành khẩn nhận và không chối cãi chứ? - Ôi, lúc đầu tiếng bà hơi rít lên, nhưng đến câu cuối cùng lại hạ nhịp xuống một cách hết sức tình cảm.
- Xin bà hãy bình tĩnh! Bình tĩnh!... - Dường như Thắng đã chuẩn bị kỹ "pha" gây cấn này. Đúng, thưa bà! Chỉ có cửa hàng bán bằng ngoại tệ mạnh mới có thứ xa xỉ cao cấp này. Nhưng tôi không mua ở đó! Và thú thực là tôi cũng chỉ dám đứng bên ngoài cửa kính nhìn vào... Đúng là cửa hàng rất rộng cửa, mọi người ngoại quốc (mà chúng tôi cũng thuộc diện này) đều có thể tự do ra vào. Nhưng bà cũng có thể biết rằng, chỉ riêng việc chúng tôi ra vào đó chơi và xem thôi chứ chưa cần mua gì mà có ai đó trông thấy báo cáo về sứ quán lại có kèm theo bằng chứng nữa thì ôi thôi! Chỉ có một cách "gút bai", xách va li về nước "tốt nghiệp trước thời gian" mà thôi, thưa bà.
- Vậy anh kiếm cái thứ này ở đâu? Anh nghĩ là buôn lậu qua tay người khác thì sạch sẽ hơn chứ gì?
Bà thiếu tá lại muốn nổi nóng lên, căn vặn.
- Tôi mua lại của một người bạn! Không phải là buôn bán qua tay người khác. Tự anh ta có. Anh ta dùng một thời gian, chán và cần tiền anh ta bán thẳng cho tôi. Tên anh ta là Rikak, một sinh viên Bắc Phi. Anh ta cũng theo học tại đây, tại trường Quan hệ Quốc tế.
- Một người châu Phi! Tuyệt thật! Nhưng làm sao anh quen được anh ta? Bà thiếu tá cố giữ vẻ bình tĩnh để có thể sáng suốt đặt ra những câu hỏi hiểm hóc bắt Thắng phải khuất phục. Đặc điểm này của bà gần với nghề luật sư hơn là nghề Hải quan. Đó cũng là đặc điểm rất quý của bà, con người muốn đi tới cội nguồn của vấn đề.
- Tôi sẽ kể cho bà nghe từ đầu. Câu chuyện có thể hơi dài một chút!... Nhưng dưới đây là toàn bộ sự thật.
Thắng biết và quen với Rikak ngay từ mùa hè, sau năm học đầu tiên. Hay nói một cách thật chính xác là Rikak đã "săn lùng" Thắng suốt hai mươi mốt ngày của kỳ nghỉ ở một bãi biển tít tận phía Nam của đất nước chủ nhà này. Dưới bãi tắm buổi sáng, trên sân bóng chuyền cầu lông buổi chiều hay bên quán bia hơi. Thắng đi tới đâu, Rikak cũng mon men bám theo, tìm cách tiếp cận, làm quen.
- Tiếng Việt, khi gặp nhau để tỏ lòng thân thiện người ta nói với nhau thế nào? Có lẽ Rakak đã nghĩ mãi mới tìm cách bắt chuyện với Thắng, khi hai người cùng ngồi chầu rìa ngoài sân bãi, cùng thả hồn lơ đãng theo những pha bóng chuyền không lấy gì làm hấp dẫn lắm của cánh sinh viên cùng đi nghỉ thi đấu với nhau.
- Xin chào! Thắng nói chậm rãi từng từ một.
- Xin chào! Rikak gắng gượng nhắc lại như một con vẹt.
Thắng cười lăn ra. Rikak không hiểu Thắng cười gì, lại tưởng là anh vừa bầy cho mình một câu đùa tục tĩu nào đó. Anh thành thực hỏi lại "Chuyện nghiêm túc thế sao mày lại cười? Thắng chằm chằm nhìn vào dáng người to gọn, đanh chắc như một pho tượng đồng đen của Rikak với mái tóc đen, quăn từng lớp như làn sóng. Cái mũi dọc dừa dưới đôi mắt to, sáng mầu đồng thau, hai tròng mắt mở to, trong suốt. Hàng râu quai nón ngày nào cũng được cạo để lại hai mảng xanh rì trên má, và lớp lông đen, hơi loăn xoăn dưới bộ ngực nở căng như ngực chim sẻ. Thắng cảm nhận thấy Rikak có vẻ đẹp rất đàn ông, nhưng không có gì dữ tợn mà ngược lại có những nét phóng khoáng, hiền hậu một cách hoang sơ. Thắng cảm thấy có thể bắt chuyện với Rikak được.
- Xin chào là lời chào tỏ mối thiện cảm và lòng kính trọng còn mày lại nói là xin cháo. Hai từ này có vẻ giống nhau nhưng về nghĩa thì khác nhau hoàn toàn. Cũng như nhiều từ của tiếng Âu châu ấy, trọng âm nhấn nhầm một tý là nghĩa khác hẳn. Không phải mình mày nhầm lẫn đâu. Người nước ngoài đều nói xin cháo như mày đó! Đó là lời kẻ ăn mày đi xin ăn. Bởi thế tao mới cười lăn ra.
- Hiểu! Hiểu rõ rồi! Và Rikak lẩm bẩm nhắc lại hai tiếng "xin chào". Nhưng chỉ được một vài lần đầu. Đến lần thứ ba thì lại trở thành "Xin cháo". Rồi, thế là từ đó, gặp người Việt Nam nào ở trại nghỉ, thay cho lời chào phổ thông của nước chủ nhà, Rikak lại "Xin cháo" làm cho không ít người lúc đầu ngớ ra, mãi sau mới hiểu anh ta vừa chào mình.
Nhưng điều đó đối với Rikak không quan trọng. Điều quan trọng nhất, theo anh ta là đã tiếp cận và chiếm được cảm tình của Thắng.
- Mày có biết Karate không? Đến ngày hôm sau, gặp Thắng ở quán bia hơi, Rikak đã rụt rè hỏi Thắng một câu đột ngột như thế.
- Không! Giọng Thắng hết sức thành thực. Nhưng chính sự thành thực đó làm cho Rikak tưởng lầm là Thắng cố tình giấu.
- Mày nói dối! Rikak buột miệng.
- Sao mày lại bảo là tao nói dối?
- Chúng tao biết chứ! Karate Việt Nam là tuyệt đỉnh. Ngay cả phụ nữ Việt Nam cũng biết võ nữa là mày.
- Mày nghe chuyện đó ở đâu ra thế? Thắng nghiêm giọng hỏi lại.
Còn ở đâu ra nữa? Rikak chợt hăng lên, hùng hồn tranh luận. Cứ suy ra thì khắc rõ. Nếu Việt Nam không có võ riêng thì thử hỏi người chúng mày nhỏ bé thế này mà từ ngàn xưa, cha ông chúng mày đã đánh thắng cả đế quốc Nguyên Mông, lũ giặc hung hãn nhất thời đại bấy giờ. Vó ngựa của chúng tung hoành từ á sang Âu, chỉ có đến Việt Nam mới nếm mùi thất bại... Còn gì nữa! Nếu Việt Nam không biết võ làm sao có thể tồn tại và phát triển bên cạnh một nước Trung Quốc khổng lồ mà dân số lúc nào cũng hơn dân số Việt Nam hai ba chục lần. Còn gì nữa! Không biết võ làm sao Việt Nam có thể đánh thắng thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ với những đội quân mà quân đội nước khác trông thấy phải đứng nghiêm, ngả mũ chào.
- Mày học ở trương Quan hệ Quốc tế nên cũng hiểu biết rộng đấy! - Thắng buông một tiếng khen lấp lửng. - Đúng là chúng tao, dân tộc tao có một thứ võ riêng.
- Mày đã bắt đầu tin và không giấu tao nữa phải không? Rikak tỏ vẻ sung sướng thốt lên.
- Giấu mày làm gì! Mà điều đó có gì mà phải giấu!
- Thế thì tuyệt vời!... Mày phải biết rằng, bố tao trước đã từng sống ở Việt Nam nhiều năm đấy nhé!
- Cái gì? Mày lại tán dóc cái gì vậy? - Thắng hỏi lại.
- Không đâu!... Tao nói thật là bố tao đã từng là lính trong các đơn vị Âu Phi khét tiếng thời Việt Nam đánh nhau với Pháp đấy.
- Thật à! - Đến lượt Thắng ngạc nhiên.
- Tao nói dối mày làm gì! Để tao kể cho mày rõ.
Nước tao hồi đó cũng là thuộc địa của Pháp. Bố tao hồi đó đang học dở dang trung học thì bị động viên, bắt lính sang Việt Nam vào quãng 1950, tức là sau chiến thắng biên giới nổi tiếng, nối thông Việt Nam ra các nước dân chủ. Vì có học và biết tiếng Pháp nên bố tao đã leo lên được tới chức thiếu uý. Có nghĩa là quan một rồi đấy! Nhưng đến chiến dịch Điện Biên Phủ thì bố tao mới sáng ra. Đơn vị của ông thời đó được coi là tinh nhuệ nhất, là con át chủ bài của lũ lính viễn chinh Pháp. Tiểu đoàn ông như một quả đấm thép được phiên chế trong đội quân phản kích. Ông kể là chính đơn vị ông đã từ sở chỉ huy trung tâm Mường Thanh của tướng Đờ Cát, đánh ra chiếm lại đồi A1 trong giai đoạn hai của chiến dịch. Ông đặc biệt nhấn mạnh đến những trận đánh giáp lá cà mà trong đơn vị không ai là không kinh khiếp. Quân số của tiểu đoàn ông thường gấp đôi quân số của Việt Minh, ấy thế mà đã phải bỏ chạy. Bản thân ông phải vứt cả súng đấy!... Mày bảo không có võ thì những người lính nhỏ bé như mày làm sao đuổi đánh được những người lính to lớn trong đơn vị Âu Phi của bố tao hả?
- Kể tiếp nữa đi! - Thắng giục, muốn tìm hiểu xem câu chuyện của Rikak thực hư đến đâu.
- Đến sáng ngày cuối cùng của chiến dịch, tức là ngày 7-5 lịch sử ấy, ông bị mảnh pháo bắn vào chân trong đột tổng công kích cuối cùng. Lạy Chúa là ông đã bị thương và đã được bắt làm tù binh. Qua ngày hôm sau, được phép của Việt Minh, máy bay cứu thương của lính viễn chinh Pháp đáp xuống cánh đồng Mường Thanh. Nhưng ông đã không được đưa lên vì đến khi tàn cuộc mới nhận ra rằng vị trí đó chỉ được dành cho sĩ quan Pháp hoặc lính Âu châu thôi. Ông đã được chính những người thắng cuộc băng bó, chăm sóc cẩn thận. Rồi cùng theo đoàn tù binh đưa về xuôi. Những ngày đầu, sợ bị Việt Minh bắn bỏ nên ông cố cắn răng, chống nạng để đi. Nhưng vết thương, do phải cử động nhiều nên chân ngày một sưng tấy lên. Đến ngày thứ tư vừa đau, vừa lên cơn sốt, không thể đi tiếp được nữa. Ông đã khóc rống khi toán tù binh sắp lên đường. Ông kể, lúc đi ông nghĩ là sẽ được Việt Minh cho xơi một vài viên đạn kẹo đồng và vĩnh viễn nằm lại ở xó rừng nhiệt đới làm mồi cho thú dữ. Thế là hết! Ông bảo, chưa lúc nào ông lại ham sống, sợ chết như lúc ấy. Nhưng rồi mọi việc diễn ra theo chiều hướng khác. Một cán bộ Việt Minh, bố tao mô tả, ông đó người tầm thước mặc bộ quần áo lưới dây dù để nguỵ trang nhưng không thấy có gắn quân số, ông ra lệnh bằng tiếng Pháp rất mạch lạc, rõ ràng, cắt ra một số tù binh khoẻ mạnh làm nhiệm vụ giúp đỡ, kèm cặp những người ốm yếu và bị thương để đảm bảo tốc độ hành quân. Riêng bố tao được ông ấy chọn ra bốn người, bắt thay nhau cáng. Một tên sĩ quan gốc Đức (trước hắn từng là sĩ quan của Hítle) lúc ấy đã phản đối ra mặt. Nó làm một số động tác như diễn kịch câm, mồm huýt sáo ra hiệu cho người cán bộ Việt Minh nọ, cho một viên đạn vào sọ bố tao rồi quẳng xác xuống vực là xong. Người cán bộ Việt Minh đã rút khẩu súng côn từ hông ra. Nhưng ông ta không nhằm vào đầu bố tao, lúc ấy đang gục xuống gối vừa khóc lóc, van lạy như tế sao, mà chĩa thẳng vào bộ ngực rộng của viên sĩ quan Đức quốc xã. Ông nghiến răng ra lệnh bằng tiếng Pháp "Mày có thi hành mệnh lệnh không? Tao bắn, bắn chính mày chứ không phải ai khác". Thế là mọi việc đâu vào đó, êm răm rắp. Nhưng chỉ được một ngày. Đến trưa hôm sau bọn chúng lại dở trò phá bĩnh. Chúng quẳng bố tao xuống đất, tí nữa lăn xuống vực. Rồi vừa đi, vừa đồng thanh hát nghêu ngao. Người cán bộ Việt Minh nọ, từ phía sau chạy lên, túm ngực áo tên sĩ quan gốc Đức kẻ cầm đầu. Cơn giận như muốn nổi điên lên. Mấy lần ông đã đưa tay xuống phía hông để rút súng ra. Nhưng chắc ông sợ vi phạm chính sách khoan hồng của Việt Minh nên lại rụt tay lại. Song cũng phải cảnh cáo viên sĩ quan gốc Đức kia, ông đã tống cho hắn một cú vào quai hàm ngã lăn lông lốc mấy vòng. Bíu đất đứng lên, thấy trên tay ông không có súng hắn hùng hổ xông lại. Nhưng chỉ một cái duỗi chân tiếp theo, hắn đã phải ôm bụng lăn lộn như một con sâu bị quăng vào lửa. Lát sau, hắn mới bò dậy được, đưa cặp mắt xanh lấm lét nhìn người cán bộ Việt Minh rồi lùi vào giữa đám tù binh. Bố tao đã chứng kiến tất cả. Thắng hơi ngẩn người ra nghe, đoạn này sao giống như một truyện anh đã được đọc trên tờ tạp chí văn nghệ quân đội hồi nào. Có thể Rikak cũng đã đọc khi truyện trên được dịch ra tiếng nước ngoài, rồi "phăngtêdi" đi một chút, nhận là chuyện của bố mình chăng? Nhưng nhận như thế để làm gì nhỉ? Đã có hàng vạn người Phi, theo đội quân viễn chinh Pháp sang đánh nhau ở Việt Nam trong suốt chín năm. Chính Thắng hồi còn nhỏ ở Việt Bắc cũng đã chứng kiến tận mắt, thậm chí còn đến gần, đùa với những tù hoặc hàng binh Châu phi, khi họ dừng chân nghỉ tại quán bánh chưng của mẹ Thắng. Vậy chuyện bố Rikak bị thương, bị bắt làm tù binh là chuyện bình thường, Rikak cũng chẳng có gì vụ lợi trong chuyện này. Thắng nghĩ như vậy, bởi thế anh không cắt ngang mà cứ để cho Rikak kể tiếp. Nhưng cuối cùng, chuyện này mới kỳ lạ chứ! Là chính ông ta, cái ông cán bộ Việt Minh ấy đã cùng bố tao đi hàng trăm cây số đường rừng. Chắc trong khoảng thời gian đó, ông đã được người cán bộ Việt Minh biết tiếng Pháp kia giác ngộ nhiều điều. Không thấy bố tao kể nhiều về việc này, ông chỉ kể có một sự thật là những người áp giải tù binh ăn uống chả có gì, chỉ có cơm nắm với muối vừng. Còn tù binh thì được no đủ hơn, thậm chí nhiều bữa còn có cả thịt bò nữa. Ông cán bộ Việt Minh nọ còn nhường cả phần thuốc lá cho bố tao, mặc dù thứ thuốc lá Đoàn Kết hay Cẩm Thuỷ gì đó rất nặng và hay tắt. Nhưng thuốc lá ở mặt trận, điều ấy thật là quý giá vô cùng. "Một miếng lúc khó như có cả bọc vàng" câu châm ngôn của nước tao là như vậy đó. à mà mày không hút thuốc nhỉ? Bởi thế mày không hiểu cơn nghiện nó hành hạ người ta như thế nào đâu? Trong cái hoả ngục ở lòng chảo Điện Biên ấy, bố tao đã chứng kiến biết bao nhiêu cái chết, nhưng ông nói có một cái chết do "cơn nghiện" thuốc nó xông lên một cách bột phát, dữ dội và phi lý làm sao. Có tuần cả tiểu đội Âu Phi mười người mới được cấp phát một điếu thuốc lá côtáp. Những người lính hôi hám, chui rúc tranh nhau hơi thuốc. Người lính cuối cùng lúc đó chắc bị khói thuốc của những người rít trước nhả ra hành hạ đến như mù đi. Trong phút chờ đợi căng thẳng, anh ta phải nén sự thèm khát của mình bằng cách nuốt nước bọt khan tới chục lần. Đến lúc điếu thuốc được truyền đến người thứ chín, người kề sát anh ta thì chỉ còn lại một mẩu tròn như một hòn sỏi. Người lính thứ chín nhắm mắt lại và rít liền một hơi dài. Tàn lửa đỏ đốt dộp môi, anh ta mới mở mắt ra như người choàng tỉnh. Không còn gì nữa, ngay cả đến khói anh ta cũng không chịu nhả ra. Người lính cuối cùng bỗng gầm lên tiếng man rợ. Sẵn lưỡi lê bên sườn, anh ta rút soạt rà rà nhằm thẳng vào yết hầu của bạn mình đang chạy lên, chạy xuống, nuốt khan nốt những sợi khói cuối cùng chọc thẳng vào không thương tiếc. Khủng khiếp như vậy đấy!... Kể xong chuyện ấy, bố tao không nói gì thêm về người cán bộ Việt Minh nọ. Nhưng tao biết chắc rằng, chính trong thời gian đó, cái mà bây giờ ở đây người ta dạy cho tao là "Thế giới quan" ấy mà... Phải, đúng như thế "Thế giới quan" của bố tao đã chịu sự tác động của người cán bộ Việt Minh nọ làm cho thay đổi. Bởi thế, sau hiệp định Giơnevơ, bố tao được hồi hương, ông đã lập tức nhảy ra vùng hoạt động của Mặt trận giải phóng dân tộc nước tao, trong thời gian đó mới được nhen nhóm lên. Ông là người có chút ít kiến thức văn hoá và quân sự; cộng với sự từng trải và có thể cả dũng cảm nữa, ông được thăng cấp dần dần và cho đến cuối cuộc chiến đã lên đến cấp chỉ huy quân khu.
Rikak kể đến đó dừng lại, anh ta ngả tấm thân to gọn, rắn chắc xuống đám cỏ thưa ở bìa rừng, nơi hai người rủ nhau đến đó để trò truyện. Đến lúc này Thắng tin chuyện của Rikak kể là sự thật.
- Trước khi tao sang học, bố tao biết thế nào cũng được gặp người Việt Nam ở đây, nên ông dặn đi dặn lại tao đến bây giờ, ngay cả trong thư ông cũng dặn đối với người Việt Nam phải hết sức kính trọng... Kính trọng vì họ là ân nhân của bố, của gia đình mình mà còn vì nhiều lẽ khác nữa, ông đã viết như thế. Mày phải biết rằng, họ nhà tao rất đông. Nhưng chỉ có riêng bố tao là được sùng kính như một vị thánh. Ông nói gì họ cũng đều rất tin tưởng.
Không bao giờ ông nói ra điều này. Nhưng qua cử chỉ ngôn ngữ, sự biểu hiện của ông, mọi người trong họ đều hiểu rằng "Phải, ông là thánh đấy nhưng người Việt Nam còn là thánh của các vị thánh cơ".
- Và chính ông ấy bảo mày là người Việt Nam nào cũng có võ chứ gì? Thắng đột ngột cắt ngang.
- Không hẳn thế! Tao cũng nhiều lần hỏi cụ thể chuyện này, ông chỉ nhắc đi, nhắc lại "Người Việt Nam thật tuyệt vời! Dân tộc Việt Nam là tuyệt vời".
Và thực tế đã chứng minh đúng như ông nói. Các chuyên gia y tế và giáo dục Việt Nam sang nước tao công tác rất được vị nể và tôn trọng vì trình độ chuyên môn cao, sự cần mẫn và tinh thần đầy trách nhiệm. Cô em gái tao, đã con đầu, mà lại đẻ ngược. May nhờ một thầy thuốc Việt Nam - có tác dụng vô cùng lớn lao đối với bệnh nhân. Các thầy thuốc khác, mổ xong là hết nhiệm vụ, trách nhiệm. Việc còn lại chăm sóc sau khi mổ là của người khác. ở người thầy thuốc Việt Nam, chỉ khi nào bệnh nhân khoẻ ra viện họ mới cảm thấy hết một phần trách nhiệm... à, tao còn thấy phải nói thêm cho mày rõ điều này là nhà tao không treo ảnh ai ngoài chân dung hai người là cụ Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đâu nhé! Và cũng không chỉ riêng ở gia đình tao. Một lần, tao theo bố tao vào dinh Tổng thống chúc mừng sinh nhật ông ta. Tao đã trông thấy ảnh toàn thân Đại tướng Võ Nguyên Giáp được vẽ phóng to, choán cả bức tường sau lưng chỗ làm việc của Tổng thống đấy.
Thắng không ngờ được Rikak đã dẫn dắt câu chuyện sang phía rất trang nghiêm như thế. Anh không dám hỏi gì thêm.
- Còn chuyện học võ ấy mà! Mày đừng giấu tao nữa! Mày hãy dạy cho tao mấy "Miếng đi"! Tưởng Rikak đã quên chuyện mà Thắng coi là tào lao, tầm phào ấy rồi, không ngờ sau một lúc im lặng hút hết nửa điếu thuốc còn lại, Rikak ra sức van nài, năn nỉ - Tao đã quan sát kỹ mày ngay từ hôm đầu. Trong số người Việt Nam, tao nhận thấy mày có vẻ giỏi võ hơn cả... Từ dáng đi đến dáng chạy, lúc chèn bóng, lấy bóng, đánh gót trong lúc chơi đều rất nhẹ nhàng khéo léo. Tao còn nhớ cái cú va chạm khi giành bóng giữa mày với thằng bạn tao. Nó to khoẻ thế mà ngã chổng kềng đến mấy lượt. Còn mày thì cướp được bóng, nhẹ nhàng như không. Chỉ có người giỏi võ ở trình độ cao mới điều khiển những cú va chạm hết sức tinh tế nhẹ nhàng mà không tốn sức. Mày nhất định phải dạy tao! Hoàn cảnh đã đẩy Thắng đến tình thế vừa hùng, vừa hãi, thật oái oăm, khó xử. Nói thật ra Rikak nhất định không chịu tin. Mà úp úp, mở mở hoá ra Thắng lại là kẻ bịp bợm, lừa dối. Anh đã qua trường lớp quân sự nào đâu mà biết võ, mới vẽ để mà dạy. Nhưng Thắng vốn là người có bản lĩnh, anh có đặc điểm gần như là thiên phú, đó là sự ứng xử trước những tình huống gay cấn bất ngờ, biết lựa cách tìm ra kẽ hở thoát ra êm đẹp nhất mà lại không ảnh hưởng đến ai.
- Nhưng mày muốn học võ để làm gì? Thời đại hoà bình này, từ đối đầu chuyển sang đối thoại, ngay cả đến vũ khí chiến lược các nước còn phải ngồi lại họp với nhau để cắt giảm kia kìa. Thắng làm ra vẻ lý sự.
- Đó là chuyện khác! Võ là chuyện khác! Nếu mày đồng ý dạy, muốn gì tao cũng đền ơn. Tiền ư? Đô la ư? Hay nhẫn kim cương? - Rikak năn nỉ, đập đập vào mu bàn tay đen bóng, nơi ngón giữa có một chiếc nhẫn trắng với một hạt xoàn lóng lánh.
- Chúng tao không dạy kẻ khác đánh nhau vì tiền! Thắng vờ nổi xung lên để tìm cớ thoát ra tình trạng khó xử.
- Xin lỗi! Tao thành thực xin lỗi!... Tao đã quên lời dặn của bố tao là phải hết sức kính trọng, không được đối xử tầm thường đối với người Việt Nam. Mày bỏ quá cho tao!... Rikak rối rít như một đứa trẻ phạm tội bị bắt quả tang.
- Nhưng tao hỏi điều này, mày phải trả lời thật nhé? Mày muốn học võ để đánh ai? Hoặc là để trả thù ai?
- Không! Tao không đánh ai cả! Cũng không có thù hận với ai phải trả cả! Tao chỉ thích... thích học để biết thôi mà. Và thí dụ hả, có đứa nào gây sự như trường hợp gặp lưu manh chẳng hạn, còn biết cách mà tự vệ. Lưu manh ư? Bọn mất dạy ấy, ở đâu và lúc nào mà chả có. Chỉ có điều là nơi này ít, nơi kia nhiều. Lúc này hiếm, lúc kia sẵn. Bởi thế nên phải học võ... Học võ để tự bảo vệ mình. Rikak thanh minh, trình bày một cách chân thực và hùng hồn nhưng cũng rất đỗi ngây thơ làm Thắng không giữ được vẻ nghiêm trang mà phải bật cười.
- Được rồi! Tao biết mục đích của mày như vậy hả? Tao sẽ dạy cho mày một môn võ tự bảo vệ tuyệt vời.
- Trời ơi! Thế thì tốt quá! Thật là tuyệt diệu.
Rikak cắt ngang lời Thắng, nhào tới, hôn vào tay anh.
- Đó không phải là võ của Việt Nam, mà là một câu châm ngôn rất hay của Trung Quốc. Ba mươi sáu chước chỉ có chuồn là tốt hơn cả. Như thế, mày chả phải học ai cả, mà chỉ cần luyện đôi chân cho dẻo cho nhanh là được.
Vẻ thất vọng bao trùm lên gương mặt rắn rỏi mà ngây thơ của Rikak.
- Mày biết đấy! Võ cũng là một bí mật quân sự! Tao mà dạy cho mày có nghĩa là tao làm lộ bí mật quân sự của nước tao. Nếu ai đó mà biết là tao lập tức bị đi tù ngay. Mày hiểu chứ? Bởi thế, mày có đánh tao lúc này, tao cũng không dám tiết lộ bí mật ấy cho mày đâu. Giọng Thắng hết sức nghiêm trang và đanh thép. Rikak ngồi ngẩn ra một lúc. Thắng nói có lý quá. Ai lại có thể tiết lộ bí mật quân sự của nước mình cho người ngoại quốc được. Nhưng chẳng lẽ lại chịu thoái lui, không vớt vát được chút gì. à, mà cứ suy ra điều Thắng vừa nói có nghĩa là anh ta biết võ rất giỏi. Không, không thể bỏ lỡ cơ hội này được. Rikak cố năn nỉ một lần cuối cùng.
- Không, ở đây chỉ có tao với mày! Thôi, mày không dạy cũng được. Nhưng mày hãy biểu diễn cho tao xem một vài đường. Một vài đường cơ bản, phổ thông nhất, không có gì là bí mật cũng được!
Trời ơi! Thắng cũng là tay "lỳ" có hạng, chẳng ngờ lại gặp phải tay Rikak này còn "lỳ" hơn. Cực chẳng đã, Thắng vụt nhớ lại những trò chơi tinh nghịch, những trận đánh lộn nhau trên bãi bóng của thời học sinh ngày nào. Lúc đối thủ đang hăng máu, chống trả quyết liệt, đánh được cho trúng, cho đau, cho đo ván mới khó chứ đối tượng đứng yên như một số sách dạy võ mà Thắng đã từng được đọc lướt qua, đánh cho ngã thì có khó gì. Nghĩ tới đó, anh vụt đứng dậy, nghiêm giọng bảo:
- Tao chỉ nói với mày một lần! Và chỉ một chỗ đánh nguy hiểm nhất trên người thôi nhé!
- Được! Thế là đủ! Tao không dám đòi hỏi gì hơn.
Thắng vẫy tay đánh xi nhan ra hiệu cho Rikak đứng lên. Thắng đứng vừa đến mũi anh ta. Và trước mặt anh là một khối đồng hun rắn chắc, sừng sững như không sức gì lay chuyển nổi. Nhưng Thắng cố lấy hết sức cho vở diễn mà anh buộc phải sắm vai đạt được như ý. Anh thuyết trình như một võ sư:
- Ngực, bụng là chỗ dễ bị đối phương tấn công. Nhưng ngực và bụng vẫn chưa phải là chỗ nguy hiểm nhất. Mà chỗ nguy hiểm nhất chính là bộ hạ. Mày thấy đấy, các cầu thủ đá bóng, khi làm hàng rào chống đá phạt, đều phải đặt bàn tay che bộ hạ là vì thế. Rikak lắng nghe, không dám chớp mắt như nuốt từng lời. Bất cứ môn phái võ nào cũng tìm chỗ đối phương sơ hở nhất. Và với một lực bỏ ra ít nhất mà lại đạt được hiệu quả tối đa. Bộ hạ chính là chỗ như vậy.
Thắng vừa chỉ chỉ, vừa giải thích, rồi bất ngờ anh nắm lấy hai vai Rikak, chân trái anh hơi kiễng lên trên năm đầu ngón chân còn chân phải thì gấp lại, co lên đầu gối thúc nhẹ vào hạ bộ và cả khu vực bụng dưới của Rikak. Thắng dứ dứ vài lần và lần sau cùng, chính anh cũng không ngờ là mình sơ ý hay có chủ định, đầu gối anh thúc hơi nhanh và mạnh. Rikak kêu "ối" một tiếng, tấm thân như được đúc bằng đồng hun đổ vật ra, quằn quại trên nền đất. Thắng sợ đến toát cả mồ hôi, anh vội vàng nhào xuống ôm lấy Rikak vực dậy. Nhưng Rikak không đứng lên nổi, chỉ lồm cồm ngồi lên, người vẫn cúi gập xuống xuýt xoa vì đau tức. Phải mất mấy phút mặt Rikak mới hết tái xanh vì đau đớn và sợ hãi, cả Thắng cũng vậy. Nhưng "vở kịch" chưa đến chỗ hạ màn, Thắng vẫn phải cố gắng gượng đóng tiếp.
- Đó là miếng đánh dưới! Miếng thứ hai đánh ở phía trên. Bốc xơ thường đấm vào mặt. Đánh vào mặt, vào quai hàm cũng được. Nhưng ít khi hạ đo ván đối phương ngay từ cú đầu. Võ thuật đã đánh là phải đánh dứt điểm ngay. Mà chỗ nguy hiểm dễ đánh, ít khi trượt ra ngoài là đánh vào cổ, phía dưới mang tai. Tốt nhất là dùng gan bàn tay chém vào cổ đối phương...
Thắng giảng tới đó bèn tiến đến sát mặt Rikak. Bàn tay anh vừa dí ra chặt chặt khe khẽ vào đoạn dưới mang tai, Rikak đã vội co rúm người lại vô cùng sợ hãi. Thấy "vở diễn" đã phải kết thúc đúng chỗ, đúng lúc, Thắng dõng dạc tuyên bố:
- Thôi nhé! Tuyệt đối bí mật nghe không? Từ giờ trở đi, mày không được nhắc tới chuyện học võ nữa nghe chưa? Mày mà tiết lộ với ai chuyện hôm nay là nguy hiểm cho tao và tao mà nổi giận lên thì mày cũng khốn đấy!... Thắng doạ như thật.
- Nhất trí! Nhất trí!... Tao sẽ giữ mồm. Rikak thốt lên vẻ vừa khuất phục, vừa tiếc rẻ nhưng phải bấm bụng chịu.
Rikak học trường đại học Quan hệ Quốc tế, cùng thành phố Lêningrát (nay trở lại tên cũ là Xanh Pêtécbua) với Thắng. Bởi vậy thỉnh thoảng họ vẫn gặp lại nhau tại nhà Hữu Nghị, nơi dành riêng cho các sinh viên ngoại quốc. Những lần đi trên phố, trông thấy Thắng, Rikak đều tỏ ra hết sức vồn vã, coi Thắng như một người anh hùng, một thần tượng sống của mình. Rất nhiều lần Rikak mời Thắng đến ký túc xá của mình chơi nhưng Thắng đều từ chối khéo, anh không muốn lợi dụng lòng tin của Rikak đối với anh.