← Quay lại trang sách

Phần 11

Trước những lời lẽ đanh thép, sắc bén vừa có lý có tình của bà thiếu tá có sức nặng như "một quả truỳ" được vung lên lần thứ hai vào đúng chỗ hiểm đã làm Thắng quỵ hẳn. Ngay tại bến xe, khi Huy và Ivan kịp giữ được Thắng thì chợt thấy anh ngã quỵ xuống, người lả ra như một thân cây bị đốn gốc. Hai người phải khó khăn lắm mới xốc được tấm thân kềnh càng, mềm nhũn của Thắng vào xe tắc-xi.

Hai ngày đêm liên tục Huy phải trực trong buồng Thắng. Thắng dở mơ dở tỉnh. Có lúc lại ngất lịm đi. Huy chỉ biết cầu trời "cơn chấn động rồi sẽ qua. Hãy bình tĩnh! Thời gian sẽ làm Thắng hồi tỉnh dần". Nhưng sợ nhất là Thắng trở mình, ngồi bật dậy, nửa khóc, nửa cười. Đó là lúc Huy lúng túng, đâu khổ nhất. Anh không biết làm gì để an ủi Thắng. Bản thân Huy cũng đang rối bời bởi nỗi lo làm sao gửi được khối hàng tương tự như Thắng. Đó không phải chiếc ti vi, tủ lạnh, máy khâu, với nồi hầm, bàn là. Đó là niềm Hy vọng, để từ đó anh được tự do, được sống thanh thản và làm việc và nuôi dạy con cái trong ngôi nhà dù bé nhỏ nhưng riêng biệt, do chính tay mình làm ra, không phải khổ sở nương nhờ nhà vợ như cảnh "chó chui gầm chạn".

Suốt năm qua, Huy đã dựa vào Thắng. Coi Thắng như người bạn, người anh, người thầy bên cạnh mình. Thế mà giờ đây, sau khi đã vượt qua bao nhiêu cửa ải khó khăn, gian khổ và cả hiểm nguy nữa, đến giờ khắc cuối cùng, cửa ải cuối cùng, Thắng đã bị đánh bại và gục ngã. Huy biết dựa vào ai? Thương và lo cho Thắng bao nhiêu thì Huy cũng thương và lo cho bản thân mình bấy nhiêu. Sang ngày thứ ba Thắng như tỉnh lại được. Huy nhìn Thắng ngỡ ngàng và mừng rỡ, "bộ óc điện tử đã lại sống dậy và hoạt động rồi!" Huy muốn reo lên như thế. Nhưng rồi anh lại chợt ngao ngán khi bắt gặp cái đầu rũ ra của Thắng. Cái đầu có mớ tóc rễ tre bù xù cứ lắc liên hồi. Còn cái miệng với nét cương nghị ngày thường bây giờ luôn thở hắt ra với những lời lẩm bẩm cay đắng "Hết! Hết hẳn rồi. Lần này hết thật rồi".

- Tỉnh lại! Tỉnh lại đi anh Thắng ơi!... Ăn cam nhé! Hay uống sữa. Huy hết sức dỗ dành. Dù sao cũng phải nghĩ đến vợ con và người thân trong gia đình chứ?

- Vợ con ư? Vợ con là cái gì? - Thắng hỏi lại một cách ngớ ngẩn và bất chợt cười lên sằng sặc. Dứt tiếng cười chợt Thắng chuyển sang điệu kêu than rền rĩ. Mà chúng mình là những thằng ngu, thằng hèn! Ngu và hèn đến mức không lo nổi cho vợ con có được một cuộc sống cho ra hồn người. Thế thì còn đáng sống làm gì nữa cơ chứ?

- Nhưng thế nào cũng phải vác tấm thân về cho vợ con nó mừng. Đừng có nghĩ khùng! Huy cao giọng nói lại.

- Mừng! Ha! Ha! Mừng. Thân mình là cái gì? Vợ con nó có mổ thịt ra ăn và bán được không mà mày bảo là mừng... Giá như hồi đó, cái hồi chiến tranh ấy tao chết quách đi vì bom đạn, sốt rét rừng, chất độc hoá học có lẽ lại đỡ làm khổ một người đàn bà và thằng con đẻ ra sau này.

Huy im lặng. Anh hiểu, nói gì ra với hắn lúc này cũng là cái cớ để Thắng nổi khùng lên. Không, Huy biết Thắng không điên. Nhưng lần đầu tiên, Huy nhận thấy sự tuyệt vọng biểu lộ trong mọi cử chỉ, ý nghĩ, lời nói của Thắng. Một biểu hiện ngược lại hẳn với bản chất tháo vát năng nổ và lì lợm của Thắng.

Huy đã đoán đúng Thắng không điên, không đến nỗi điên vì ở anh có một bộ thần kinh vô cùng nhạy cảm nhưng cũng vô cùng sâu sắc. Nhưng Thắng đang ở trong sự tuyệt vọng, sự tuyệt vọng lên tới đỉnh điểm khiến Thắng chỉ còn nghĩ đến cái chết. Trừ những lúc miên man không biết gì, còn những lúc tỉnh Thắng đã suy tính, lựa cho mình một cái chết. Chết để giải thoát nỗi tuyệt vọng. Đầu tiên Thắng dự tính sẽ đâm đầu vào ôtô hoặc xe điện. Ôi, chết thế thì thê thảm và khủng khiếp quá! Hay uống đại một liều thuốc ngủ vài chục viên? Cũng không được. Người ta sẽ đưa mình đi bệnh viện cấp cứu. ở đó, họ sẽ rửa ruột, giải độc cho mình. Đã không chết được lại còn làm bia miệng cho thiên hạ chê cười mai mỉa. ừ, thì kể ra đúng như một nhà văn nào đã viết: Sống được cho ra sống cũng thật khó khăn mà muốn được chết cũng không dễ dàng đơn giản một chút nào. Cuối cùng Thắng nghĩ ra một cách chết. Một cách hết sức nhẹ nhàng mà không phải đi đâu xa. Thắng chỉ việc mở rộng tấm cửa sổ hai lớp kính ở sát chân giường kia. Và sau đó lấy một hơi thở căng đầy lồng ngực để hét lên một tiếng thật dài vừa oán hận mà sảng khoái, trong suốt quãng thời gian mấy giây Thắng lao từ tầng 7 xuống đất. Cái chết này còn tuyệt vời ở chỗ, nó không thể đi vào lãng quên, bởi vì theo phong tục của xứ sở này, trên miếng đất có người gieo mình xuống tự vẫn bao giờ người ta cũng phải trồng xuống đó một cái cây làm bia tưởng niệm. Không biết để người sống cảnh tỉnh hay để hương hồn người chết có nơi nương tựa. Điều đó, Thắng không rõ. Nhưng anh biết chắc chắn chỗ anh nằm xuống vĩnh viễn sẽ có một cái cây mọc lên. Có thể là cây phong, cây sồi hay cây liễu bách diệp. ở chỗ ấy là bãi trống, theo quy hoạch sẽ là vườn hoa. Cái cây đó sẽ lớn lên, mọc hơi cô độc một chút. Nhưng như thế càng hay. Nó cũng làm cho mọi người gợi nhớ đến nỗi bất hạnh của một con người. Một con người có đầy đủ ý chí, nghị lực và tài năng nhưng đã phải chết vì tuyệt vọng, vì không tìm nổi lối thoát cho cuộc đời mình. Sẽ có nhiều người tiếc thương và cũng có nhiều người chê bai, phỉ nhổ. Nhưng phải ở hoàn cảnh như anh, mọi người mới hiểu.

ý nghĩ và quyết tâm đó đã được Thắng lựa chọn vào lúc anh cảm thấy đầu óc mình tỉnh táo nhất. Thậm chí anh còn có cảm giác thanh thản và tự mỉm cười trước dự định và quyết tâm của mình. Chờ lúc Huy ra ngoài, Thắng xuống giường, lần lần đến bên cửa sổ. Anh thử xoay quả đấm để mở cửa nhưng không nổi. Sức anh yếu quá rồi, anh buông mình ngồi phịch xuống chân giường. Anh vừa thở dồn dập vừa lẩm nhẩm nghĩ "Phải đợi vậy! Còn một việc, một việc quan trọng suýt nữa mình quên! Mình phải viết bức thư cuối cùng, bức thư tuyệt mệnh trăng trối với vợ con. Có như thế sự "ra đi" của mình mới thanh thản được. Không thế, vợ con mình sẽ day dứt, băn khoăn suốt đời, không biết mình chết vì lẽ gì thật ân hận". Nhưng thói thường, những người muốn đi tìm cái chết từ ý nghĩ đến hành động phải được tiến hành song song và diễn ra rất quyết liệt. Chứ còn suy tính đắn đo, lựa chọn cái này, thêm bớt cái khác thì khó lòng mà thực hiện nổi. ở Thắng, cuối cùng cũng diễn ra như thế. Qua mấy ngày sau, cùng với sức khoẻ tăng dần lên, ý nghĩ về cái chết cũng dịu dần đi. Nhất là sau khi anh hồi tưởng về chuyến về phép cách đây ba năm. Buổi chiều hôm anh gần đến ngày ra đi, đứa con trai sáu tuổi cứ sà vào lòng đòi vuốt ve, âu yếm. Bất chợt, Thắng phát hiện thấy ở vành tai thằng bé, chỗ khuất ở phía sau bị nồm (một loại nấm) ăn rộp lên. Anh khẽ sờ tay vào, thằng bé giẫy nẩy vì đau đớn. "Để bố xem! Bố còn chữa cho. Không nồm ăn rụng tai thì chết!" Thắng vừa dỗ dành vừa doạ nạt. "Nếu không chữa được có chết thật không hả bố". Thằng bé hỏi lại. "Chết thật chứ sao lại không?" Rồi Thắng kéo hẳn vành tai ra chỗ sáng, xem từng đường tưa ăn đã để rộp lên. Đau và xót lắm. Nhưng thằng bé vẫn im lặng, không có phản ứng gì. Đột nhiên, sau đó Thắng bỗng thấy những giọt nước nóng hổi rơi xuống tay mình. Anh ngạc nhiên hỏi "Đau lắm hay sao mà khóc?" "Không, không đau tí nào. Nhưng con sợ chết lắm! Chết thật thì chết". Nói xong câu đó thằng bé mới khóc oà lên nức nở. Thế đấy! Quyền sống như là một thứ bản năng, bản năng mãnh liệt nhất của muôn loài. Đến sinh vật còn biết quý trọng, biết bảo vệ mạng sống của mình. Thế sao ta lại có thể phí hoài, tước bỏ đi cái quyền thiêng liêng, cao cả nhất đó. Không! Không! Ta không thể dại dột như vậy được. Ngay cả bom đạn suối lũ ngày nào, khi đó ta mới dăm ba tuổi mà còn vượt lên được như một cánh dơi, quyết bám chặt lấy cuộc sống. Thế mà bây giờ đây, giờ đây ta lại chịu buông mình từ tầng bảy xuống ư? Không! Chết! Tự kết thúc đời mình. Thắng thấy mình không thể làm nổi nữa rồi. Nhưng sống như thế nào? Hướng đi cho những ngày tới ra sao? Thắng đã huy động tất cả sức suy nghĩ, sự từng trải lăn lộn của mình ra mà không sao tìm được. Lại sống như cũ ư? Thật là công cốc, công cò! ý nghĩ ấy lại khiến Thắng vật vã, đau đớn đến cùng cực.

Thấy Thắng đã tỉnh lại dần, Huy vô cùng sung sướng. Nhưng nỗi lo canh cánh về số hàng chưa gửi được ngày càng đè nặng trong tâm trí Huy. Bây giờ Huy đã mất hết hy vọng dựa vào Thắng rồi. Huy tự loay hoay ra phố đến những chỗ bạn bè thân quen để nghe ngóng, dò la xem có lối thoát nào không. Nhưng mọi lối, mọi ngả đường như là vô vọng. Người nào may mắn, giỏi giang lắm cũng chỉ lo được cho bản thân mình một cách hết sức phập phù, không có gì đảm bảo là chắc chắn.

- Ông có thư từ nhà sang đấy! Một buổi trưa, Huy vừa bước vào phòng Thắng. Vừa quẳng xuống giường gần chỗ Thắng đang nằm một phong bì mỏng teo. Thắng cầm lên. Đó là thư của vợ Thắng, phong bì và con tem là của nước sở tại. Điều đó chứng tỏ, vợ anh gửi người quen sang đây bỏ tiếp vào thùng thư thành phố cho nhanh. Thắng run rẩy xé vội mép phong bì. Một mẩu giấy học sinh bé bằng bàn tay rơi ra. Thắng không nhận ra nổi nét chữ của vợ mình. Nét chữ của vợ anh vốn cứng cáp, đẹp như chữ in. Đằng này nét chữ nguệch ngoạc như gà bới. Và chỉ vẻn vẹn có mấy dòng: "Có anh Minh, bạn cũ của anh sang bên đó. Vậy em báo để anh đến chỗ anh Minh ngay, theo địa chỉ anh ấy ghi ở dưới thư này. Mọi việc ở nhà, anh Minh sẽ kể tỉ mỉ cho anh hay".

Dưới mấy hàng chữ trên là nét bút bi bay bướm của Minh: "Tôi đã có mặt ở đây sáng sớm nay. Hiện ở khách sạn Matxcơva tầng 4, phòng 405. Nhận được thư này, ông đến chỗ tôi ngay nhé. Nhưng nhớ là từ 8 giờ tối trở ra, tôi mới có mặt".

- Thế này là thế nào hả Huy? Thắng đọc tất cả những dòng chữ khác nhau ghi trên mảnh giấy từ một quyển vở học sinh xé ra. Nhưng anh không hiểu nổi nội dung chứa đựng điều gì. Giá như trước đây, có ai hỏi anh trường hợp tương tự, anh đã trả lời theo thói quen trầm tĩnh, bình thản "Cứ đợi đấy! Tám giờ tối gặp tay Minh là rõ cả thôi mà. Có gì mà phải vội". Nhưng bây giờ, Thắng như trở thành người khác. Anh ném tờ giấy cho Huy và hỏi:

- Tay Minh sang à? Có phải tay Minh ở trường điện không nhỉ? Huy vừa đọc lượt qua lá thư, vừa hỏi. Cái tay Minh Bêdukhôp khi trông thấy dây mayso bày bán ở cửa hàng đã chết run, chết dế lên như thằng con trai lần đầu đặt tay lên ngực người yêu không nhỉ?

- Chắc là tay Minh đó chứ làm gì còn Minh nào ở đây nữa. Nhưng không hiểu hắn qua đây theo phái đoàn cấp nào mà được ở khách sạn Matxcơva, khách sạn sang loại nhất thành phố này nhỉ?

Như hai kẻ mất trí, Thắng và Huy cứ hỏi lại nhau.

- Ai mà biết được! Tốt nhất là tối nay, tôi và ông cùng đến chỗ hắn. Ngoài chuyện gia đình ông, tôi cũng muốn hỏi xem thời sự ở nhà thế nào? Không hiểu hoàn cảnh gửi hàng bị mắc kẹt của tụi mình ở nhà có biết không nhỉ.

Cuối cùng Huy chỉ còn cách nói đó để an ủi Thắng và động viên cả bản thân mình.

Đúng tám giờ, Thắng và Huy có mặt ở khách sạn. Trực tầng báo là Minh vẫn chưa về. Hai người phải ra khoảng hành lang rộng kéo xa lông có bánh xe quay về vị trí thuận lợi, ngồi chờ. Khoảng nửa giờ sau, một tốp khách Việt Nam từ thang máy bước ra. Thoạt đầu cả Thắng lẫn Huy đều không nhận ra Minh. Mãi đến khi thấy một người cao, to mà gọn, mái tóc ốp rất đẹp ôm lấy cái gáy phẳng, ngực lủng lẳng chiếc máy ảnh Minonta của Nhật, vai đeo túi khoác, loại túi trống du lịch loại sang, mầu xanh cánh chả, chân đi giầy thể thao Adiđát nhẹ nhàng bước tới phòng 405 thì dừng lại, tra chìa khoá vào ổ khoá, Huy kéo Thắng đứng lên và bảo.

- Cha Minh về hay sao ấy?

- Không có lẽ! Có thể người đàn ông đó ở cùng phòng với hắn chăng? Thắng hoài nghi nhưng cũng đứng lên. Khi Minh đã mở khoá xong, vừa đẩy cửa ra thì Thắng và Huy bước tới.

- ồ, ông Thắng đấy à! Người đàn ông hơi quay lại kêu lên. Cả Thắng và Huy thoáng một chút ngỡ ngàng. Người đứng trước mặt hai anh đây là Minh, anh chàng Bêdukhôp ngờ nghệch trước đây mà cũng không phải là Minh vì giờ đây anh ta đã là một con người khác hẳn. Cái dáng gọn, chắc mà nhanh nhẹn thì đã đành. Gương mặt béo bủng với nước da xanh mai mái giờ cũng khác. Không còn lớp mỡ lùng bùng dưới lớp da bì bì mà là những đường nét phong trần với nước da rám nắng đỏ hồng. Chỉ còn phảng phất nét hiền hậu của khuôn mặt hơi tròn. Cặp kính trắng gọng đen xì đã được thay bằng loại kính cận đổi màu, gọng to, mạ vàng. Minh túm lấy vai Thắng, cái túm vai mạnh mẽ cũng khác hẳn ngày xưa, cái ngày mới cách đây ba năm.

- Đây là Huy, bạn tôi, học cùng khoá. Chắc ông Minh còn nhớ chứ? Thắng chỉ vào Huy và bảo.

- Xin lỗi. Quả thực ông này - Minh chỉ vào Huy - thì tôi quên mất rồi. Còn ông, Minh chỉ vào Thắng - dẫu sang thế giới bên kia, tôi cũng vẫn nhận ra được. Rồi Minh giục rối rít - Các ông vào phòng, vào phòng đi.

Thắng và Huy nhẹ nhàng đặt mình xuống những chiếc xa lông đệm mút loại nhỏ được kê ở một góc phòng. Minh cởi chiếc áo bludông sặc sỡ bằng một loại hàng vinilông cao cấp để lộ chiếc áo phông cá sấu và đôi tay rám nắng cứng cáp.

- Các ông dùng gì để mình gọi phục vụ đưa vào? Vừa nhắc ống điện thoại lên, Minh vừa quay sang hỏi hai bạn.

- Tuỳ ông! Gọi gì cũng được. Thắng thủng thẳng từng tiếng một.

- Tôi sẽ gọi bánh ngọt, hoa quả và một chai rượu vang nho nhé! Phải nâng cốc một chút nhân dịp hội ngộ. Và cũng phải có chuyện nói với ông Thắng. Chuyện dài đấy!...

Minh rót rượu vào ba cái ly cao chân. Mọi người cùng đứng dậy, nâng cốc. Sau khi đã rót xong lần thứ hai Minh mới có dịp quan sát kỹ Thắng qua cặp kính cận đổi mầu, có lẽ lúc này Minh mới nhận thấy vẻ phờ phạc, mệt mỏi của Thắng toát ra từ nét mặt đến các cử chỉ, động tác.

- Không biết có ai gặp báo tin đó cho ông chưa?... Tôi chắc là chưa. Bởi thế, trước hết, ông hãy đọc thư của vợ ông đi đã. Rồi sau... tôi sẽ kể. Minh ái ngại nhìn Thắng.

Thắng đón nhận chiếc phong bì tự làm lấy bằng loại giấy cứng từ tay Minh. Minh đã nói sát sạt đến như thế mà dường như Thắng vẫn chưa cảm nhận thấy mình có tin dữ từ bên nhà. Bây giờ tâm trí anh đâu có còn được sáng suốt như trước lúc gửi hàng. Những lập luận sắc bén của bà thiếu tá Natalia, một cú "chầy gỗ" giáng xuống đầu Thắng và dường như đã biến anh thành một con người khác. Người có hình dáng, cử chỉ bên ngoài hao hao giống "thằng" Thắng. Còn đầu óc nhanh nhạy đã khác hẳn. Bằng động tác chậm chạp vụng về. Thắng xé bung chiếc phong bì hình chữ nhật. Vật đầu tiên rơi ra đập vào mắt Thắng và sau đó lập tức đập vào mắt Huy là một mảnh lụa đen trơn tuột rơi ra. Thắng vội vàng nhặt lên. Đó chính là băng tang đen, được may vội để xỏ vào cánh tay. Thắng vẫn như người mộng du quay sang hỏi Minh:

- Cái gì thế này?!

- Ông đọc thư sẽ rõ! - Minh trả lời, anh đưa một ngón tay đẩy cặp kính đổi màu lên rồi quay mặt đi, tránh nhìn vào mặt Thắng.

- Anh ơi đau đớn lắm!

Em phải gắng gượng mới viết được mấy dòng để báo tin cho anh là bố chúng ta, ông nội của các cháu đã qua đời ngày 9 tháng 4 âm lịch vừa rồi. Một cái chết tức tưởi, bi thảm và khủng khiếp mà em không thể nào kể cho anh được. Dù mười ngày rồi mà cả nhà ta vẫn chưa ai hết kinh hoàng, đau đớn. Giả bố già, ốm yếu bố ra đi vì tuổi tác, bệnh tật là lẽ thường tình. Đằng này, không hiểu sao bố lại tuẫn tiết. Bởi thế nỗi đau càng tăng lên gấp trăm ngàn lần. Mẹ giờ vẫn chưa tỉnh. Lúc nào ngất đi thì thôi chứ khi tỉnh, miệng luôn luôn than vãn là vì mẹ nên bố mới chết thảm khốc như thế này. Nhà có ba con trai, không ai về được. Anh ở bên đó đã đành. Chú hai đang tít ngoài hải đảo. Chú ba, chôn cất bố xong mới từ biên giới về được. Bây giờ cái khó khăn lớn nhất là không ai có thể khuyên giải được mẹ. Giá như có anh ở nhà lúc này nhỉ?... May mà nhờ sự đùm bọc của bà con, nhất là các cụ ở tổ hưu nên mọi việc lo lắng cho bố đã vẹn toàn cả. Chỉ thương bố ra đi tức tưởi vội vàng! Bố ơi vì lẽ gì mà bố tự làm khổ mình đến như vậy? Sao bố không đợi anh Thắng con về!... ối, bố ơi..

Trang giấy trắng nhoè nhoẹt những giọt nước mắt bây giờ đã thấm khô. Thắng không khóc được. Anh chỉ cảm thấy cổ họng nghẹn tắc lại, tức thì. Rồi những giọt nước mắt cứ tự nhiên tràn ra. Những giọt nước mắt to, tròn thi nhau lăn xuống. Và đột ngột những kỷ niệm về người cha thân yêu bỗng chốc ào ạt hiện về. Thắng như đang mê đi, như đang được sống lại quãng đời thơ ấu ngày nào. Những ngày còn ở chiến khu Việt Bắc, giữa rừng già Khuẩn Cảm, núi đá vôi Chợ Chu, rừng vầu Quán Vuông... Có những ngày mưa buồn, dài lê thê như không bao giờ dứt. Những cơn mưa giăng giăng từng lớp trên các triền núi, đuổi nhau từng đợt như những con sóng rồi đổ ào xuống cánh rừng trầm mặc. Những ngày như thế ông Thành, cha của Thắng thường tạt về nghỉ phép thăm gia đình. Cả mấy bố con bụng lép kẹp. May mắn lắm mới có hôm được lót dạ buổi sáng bằng mấy củ khoai luộc. Loại khoai vỏ đỏ, dài, mới là dây chứ chưa thành củ. Trong chiếc áo bludông Mỹ mầu lá cây rộng thùng thình khoác trên đôi vai rộng mà xương xẩu, ông Thành thường đi đi, lại lại, toàn bộ trong căn nhà tranh chập hẹp, nền dốc thoai thoải theo sườn đồi nằm ép giữa những lùm cây ven đường.

"Ta đi trong một chiều thắm, vang lời ca vào trong khóm lá, nơi u sầu u, ù, u, ú, u, u..." Cặp mắt mở to nhưng vô định hướng về những lớp mưa bay, hết lớp này đến lớp khác, và không hiểu nghĩ gì mà tự nhiên ông cao hứng cất lên tiếng hát. Tiếng hát từ đáy lòng sâu thẳm, từ những kỷ niệm của thời thanh niên sôi nổi ngày nào mới qua đi. Tiếng hát khiến ông gợi nhớ về những buổi cắm trại, đua xe đạp, đồng diễn thể dục, thi đấu võ thuật của Hội hướng đạo sinh thuở trước. Và là những nỗi buồn vơ vẩn sau những đêm lửa trại, cũng bỗng chốc hiện về như xô đẩy, chen lấn không khí hào hùng hiện tại. "Chiều về hôm nay. Khi gió mùa thu. Ai ngồi bên sông mơ bóng chim cu. Chim rừng chim reo ríu rít rập rờn. Chim rừng chim reo ríu rít rập rờn trong bóng chiều. Chiều về hôm nay...". Ông lại tiếp tục hát, giọng mượt mà rất đúng giai điệu buồn mà thiết tha. Cậu bé Thắng lúc đó khoảng năm sáu tuổi là cùng. Nhưng hình như Thắng được bố yêu chiều hơn cả. Nhất là từ sau lần chết hụt trong trận Tây nhảy dù Bắc Cạn. Lúc đó, cu Thắng thường chui đầu vào giữa hai chân người cha. Hai tay nó vùng ra ôm chặt lấy hai chân bố. Đôi chân trần của nó lúc co lên, lúc lê theo những bước đi tản bộ, chậm chạp của người cha. Tiếng hát ngọt ngào, tha thiết nhưng hơi đượm buồn từ một tâm hồn đang bồi hồi xúc động, như rót vào tai Thắng một thứ nước quả vô cùng dịu ngọt "Chiều bâng khuâng như muôn tiếng đàn - Chiều bâng khuâng sao vương vấn lòng? Gió thóc mách rằng cô em tôi sầu, hoa tươi trên cành nhớ chi trong lòng?" Những lúc xúc động nhất, ông thường dừng lại, cúi xuống, âu yếm nhìn vào khuôn mặt vàng bủng beo vì sốt rét rừng và thiếu đủ loại vitamin của đứa con. Còn Thắng cũng xúc động ngửa mặt lên nhìn ông như chờ đợi một cái gì thật gần gũi mà cũng thật xa xăm mơ hồ. Sự chờ đợi vô vọng của đứa con khiến tâm hồn ông như có một ngọn lửa xót xa chợt cháy bùng lên. Nhưng rồi bằng tất cả lý trí cứng cỏi, ông lập tức dập tắt ngọn lửa đó ngay. Ông vẫn nhìn con và từ cái miệng rộng với đôi môi cương nghị chợt mở một nụ cười. Nụ cười không thành tiếng nhưng rất dài và rất sâu. Nụ cười có pha chút xót xa, thương cảm mà như vỗ về đứa trẻ. Rồi ông lại chậm rãi, đi từng bước một kéo lê theo cả đứa con đang bíu chặt... Ông im lặng rồi lại hát, lần này có phần buồn hơn nhưng sao Thắng cảm thấy giống như đúc khung cảnh đang diễn ra lúc bấy giờ. Cũng có tiếng mưa rơi, có núi, có rừng và cả tâm trạng buồn thương vô hạn. Với tâm hồn non nớt, cậu bé cứ tưởng rằng cha mình tự nhìn trời mà hát ra. Những lời hát sâu lắng ấy cho tới tận bây giờ, cho tới tận suốt đời Thắng cũng không thể nào quên được. Đó là bài "Nụ cười sơn cước" với những đoạn lời ca "Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi. Mây mù buông xuống núi đồi và trong lòng tôi mưa hơn ngoài trời. Cỏ cây hoa lá, thương tiếc một người đi và lệ sầu đôi mắt người về...".

Cho tới lúc đã quá trưa, hoặc có khi đã ngả về chiều (thời gian lúc đó ngừng đọng, không thể xác định được) cái bóng thấp loà xoà trong tấm áo tơi lá cọ đột ngột hiện ra ở khung liếp. Trong chiếc làn mây rộng, không có nắp đậy xách theo người có đủ các thứ bà vừa đi bán và mua ở chợ về. Đó là lúc nhộn nhịp, vui vẻ nhất trong ngày. Những đứa trẻ buồn thiu nằm, ngồi ngả ngốn vội ngóc cả dậy như những con vắt nằm dưới phiến lá chợt phát hiện thấy hơi người. Nhưng không đứa nào dám ào xuống bám mẹ. Chúng chỉ đưa những cặp mắt vàng như nghệ hau háu nhìn vào chiếc làn mây. Hôm nào kiếm được món gì, trong chiếc làn kia thường có gói kẹo "đầu Tây". Loại kẹo làm bằng đường kính với bột đậu xanh được nặn thành hình chiếc mũ sắt, to bằng ngón chân cái người lớn. Thắng còn nhớ cho tới tận lúc này là không bao giờ lũ trẻ dám bỏ cả chiếc "đầu Tây" đó vào miệng. Mà chúng thường bấm từng tí một. Lúc nào hứng chí lắm chúng mới dùng những chiếc răng sữa cù cù để từng chút bụi đậu có trộn đường rơi ra, thấm dần vị thơm ngọt vào từng chân răng cho tới đầu lưỡi. Và dường như niềm vui nhỏ ấy của những đứa trẻ đã có tác dụng trực tiếp tới người cha. Ông vẫn đi chậm rãi, nhưng giọng hát của ông đã đổi khác, đôi mắt đã không còn nhìn vô định. Bài hát thật vui nhộn, thực tế và lạc quan: "Anh em ơi vui vì có bát cơm đầy! Thợ thuyền bộ đội dân cầy ấm no này anh em ơi! Anh em ơi! Bao giờ Tây kéo về làng? Tây kéo về làng thì làm sao? Tây kéo về làng thì... gậy tày, lựu đạn, súng rường ta giết Tây...". Giờ đây Thắng thấy mình như được bé lại giữa hai chân của người cha, và hai tay ôm lấy hai chân ông lê theo bước dạo trên nền nhà mấp mô. Không, Thắng như được sống mãi mãi trong những kỷ niệm đó, để anh không bao giờ mất đi người cha thân yêu của mình. Không! Không! Anh hét lên trong mơ và chợt như bừng tỉnh. Trước mắt anh là bức thư với những dòng chữ to, nguệch ngoạc vì đau đớn của vợ. Anh đưa tay, vụng về gạt những giọt nước mắt và đọc tiếp.

"... Anh Thắng ơi! Em không biết viết gì cho anh lúc này. Nhưng qua tin tức của những người đã đi về, em biết rằng cuộc sống của anh bên đó cũng có những khó khăn, đảo lộn mới. Việc gửi quà bánh, hàng hoá không còn được dễ dàng như trước đây. Nhưng anh Thắng ạ! Mẹ con em ở nhà lúc này chả cần thiết thứ gì đâu. Chỉ cốt sao thấy anh về, khoẻ mạnh là mẹ con em sung sướng nhất rồi. Tuỳ anh liệu xem thế nào. Đừng coi việc làm của mình là vô vọng. Gửi được cái gì thì gửi. Không thì thôi anh ạ! Cuộc sống mới là cái quý giá nhất. Con sâu, con kiến còn biết yêu quý mạng sống của chúng. Gặp hiểm nguy, đe doạ còn biết chạy trốn nữa là. Ôi, cái chết của bố mới đau đớn làm sao! Chỉ mong sao, anh đừng nghĩ quẩn. Em biết là anh có đức kiên trì, có sức chịu đựng ghê gớm. Nhưng anh cũng hung tính lắm! Tuy chưa một lần biểu hiện ra ngoài nhưng em biết. Em hiểu anh mà!... Em van anh đấy! Anh không được liều lĩnh, anh Thắng ạ! Hàng triệu người ở nhà, chẳng bao giờ biết đến Tây và của cải từ Tây đưa về, mà họ vẫn sống được thì lý gì chúng ta không sống được hả anh? Thôi nhé! Em không còn đủ sức viết nữa đâu. Mọi chi tiết, anh Minh sẽ kể cho anh. Nhớ lời em dặn đấy! Mẹ con em chỉ cần một thứ duy nhất để sống là anh thôi, anh Thắng ạ!".

Thắng đã đọc đến dòng cuối cùng. Nhưng hai mắt anh vẫn mở trừng trừng. Anh quay sang nhìn Huy rồi lại nhìn Minh như muốn tìm một lời giải thích.

- Uống đi! Uống lấy mấy ngụm nước mát này! - Chờ cho Thắng đọc hết bức thư một lúc, Minh mới đẩy chiếc cốc thuỷ tinh đầy nước trắng tới trước mặt anh - Mình sẽ còn ở đây một tuần. Mình sẽ tuần tự kể cho ông nghe mọi chuyện ở nhà. Nhưng trước hết, ông phải bình tĩnh lại đã. Bình tĩnh và tỉnh táo. Chuyện chắc dài và phức tạp. Nhưng biết tới đâu mình sẽ kể để ông rõ tới đó...

Trước lúc nghỉ hưu, ông Thành, cha của Thắng đã từng trên mười năm ngồi trên chiếc ghế vụ phó một vụ quan trọng của ngành giao thông vận tải. So với những bạn đồng lứa, ông thuộc loại trung bình, không được thăng tiến nhanh chóng nhưng cũng không thuộc diện hẩm hiu. Bạn bè đồng ngũ từ thời chống Pháp rồi đi suốt chiều dài của cuộc chống Mỹ, trước lúc trút bỏ quân phục về nhà, cũng chỉ leo lên hàm đại tá. Ông về ngay từ trước 1960 theo yêu cầu của công cuộc xây dựng hoà bình. Mặc dù thế suốt những năm chống chiến tranh phá hoại ông luôn có mặt ở những điểm nóng nhất trên các công trường đảm bảo giao thông. Ông rất thanh thản, không một chút kêu ca oán thán gì. Mặc dù ông biết, khối kẻ thiếu đức, bất tài và cả hèn nhát nữa đã nhanh chóng vượt qua đầu ông, ngồi trên những chiếc ghế sang trọng và béo bở hơn. Khác với nhiều cán bộ cùng thời, ngoài nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước là "Tính tốt cơ bản" ở ông có một vài "thiếu sót" nhỏ là hơi lưu ý vào chuyên môn và đôi lúc còn có biểu hiện "rơi rớt" thứ lãng mạn tiểu tư sản. Bởi thế mãi tới 1950, ông mới được kết nạp vào Đảng. Nếu ông được kết nạp sớm hơn, chắc chắn ông đã được đề bạt ở ghế lãnh đạo cấp bộ hoặc tổng cục, chứ không phải chiếc ghế vụ phó "èng èng" như mọi người vẫn nói. Nhưng ông chỉ cười xoà. Nụ cười đầy tự hào về sự cống hiến suốt bốn mươi năm cho cách mạng. Ngay từ trước tháng 12 năm 1946, ông đã được điều lên Việt Bắc lập an toàn khu kháng chiến.

Trong thời gian "thực tập hưu" tức lúc nghỉ chờ chế độ, lãnh đạo Bộ có ý nới thêm diện tích nhà cho ông. Nhưng ông đã từ chối. Ông nghĩ, các cụ già bây giờ rất khó sống chung với con cháu. Tốt nhất là kiếm một mảnh đất nhỏ ở ngoại ô cho yên tĩnh. Về quê lắm cái phiền. Ông bán mảnh đất "hương hoả" ở quê để mua mảnh vườn ở phía tây thành phố. Vì không lấy thêm nhà nên ông được cơ quan phân phối cho vạn gạch, một tấn xi măng và mấy trăm cân sắt với giá rẻ gần như biếu không. Những năm tháng đầu tiên, ở ngoại ô ông cảm thấy khoái chí. Không khí vừa tĩnh, vừa thoáng. Nhưng rồi chỉ ít lâu sau, ông mới thấy vô vàn sự bất tiện nảy sinh ra. Trước hết là điện và nước. Những lúc nóng nhất hoặc lạnh nhất cần đến điện thì bị cúp. Còn cả thị trấn mới có một vòi nước công cộng, chảy chậm rì rì như són ra từng giọt. Nước mưa chỉ có mùa. Rồi chuyện tem phiếu cũng lắm lôi thôi. Phiếu dầu nội thành được bốn lít. Còn ngoại thành chỉ có hai lít rưỡi. Gạo hàng tháng cũng chậm hơn vì không được quan tâm như khu vực nội thành. Và thật lắm cái phiền, từ chuyện chiếc bờ rào, cái giọt gianh cho đến cái lối đi chỉ đủ đặt hai bàn chân cũng đã để thù nhau đến suốt đời. Lần đầu tiên trong đời, ông chợt thấy mình sai lầm. Một sai lầm rất nhỏ nhưng không còn khả năng để sửa. Không hiểu có phải sai lầm đó đã gây nên cái chết sau này của ông hay không? Nhưng ông muốn đổi nhà ra nội thành ư? Tiền đâu? Đóng cửa để nhẩy ra với con cháu trong căn buồng mười sáu mét vuông ở tít tầng ba ư? Cũng không được. Thế là hai ông bà già đành thúc thủ, bó gối chờ ngày đến cõi.