Phần 12
Nhưng rồi mọi việc không được gói gọn trong sự chờ đợi ấy. Đồng lương của hai ông bà cộng lại cũng là con số cũ nhưng sao nó cứ teo dần. Nhiều buổi, bà đi chợ có đến cả tiếng đồng hồ mà chỉ mua về một mớ tép "kỳ cò" tức là loại cá vừa nhỏ, vừa nát y như mới được lấy ở diều cò ra với mấy mớ rau muống già. Bà cằn nhằn "Cầm đồng bạc đến mướt mồ hôi tay ra mà không biết tính toán mua gì cho được". Ông đáp: "Thời buổi này có ai sống nổi bằng đồng lương đâu. Về hưu cũng phải nghĩ cách mà kiếm thêm thôi". Bàn tính mãi, ông bà quyết chí đi buôn rau. Thứ hàng này vừa ít vốn lại quay vòng nhanh. Ông bà lại có thuận lợi là ở ngay ngoại thành. Ông chỉ cần dậy sớm từ hai, ba giờ sáng, mua lấy một xe thồ, sáng ra bà ngồi bán, đến trưa là thu được vốn và đã lãi ra được dăm bẩy chục. Công việc đang trôi chảy thì ông lăn ra ốm vì tuổi cao, sức yếu, đâu còn được như thời trai trẻ là tay đua xe đạp, là con cá kiếm bơi hàng dặm bẩy cây số, là võ sĩ trong hội Hướng đạo sinh ngày nào. Giờ đây chỉ cần những hạt sương sớm cuối thu, đầu đông cũng đã quật đo ván ông bằng những cơn ho xé phổi vì viêm phế quản. Lần thứ nhất, sau lúc về hưu, ông phải giải nghệ. Lần thứ hai, ông tính "mình đã ở Bách Nghệ, nghề ngỗng có trong tay, ra dựng cái lều chữa xe đạp, xe máy chắc sống được". Nhưng sự đời ít khi chiều theo lòng người, nhất là đối với người đã về già "mãn chiều, xế bóng" suốt ngày phơi mặt ở ngoài đường, sửa được cái xe cũng chật vật, không dễ một chút nào. Xe ngoại, xe tốt, chẳng việc gì phải chữa. Khách tạt vào rặt một loại "tòng tọc", chỉ cần xiết mạnh cờ lê một tý là long ra như đồ hàng mã. Chiếc săm mục, sáng vá chỗ này, chiều xì chỗ khác, khách khứa kèo nhèo khiến ông khổ tâm. Khổ và nhục nữa! Bơm được một bánh xe, nhất là xe máy phải tỳ, phải đẩy, phải nhún, phải nén đến vỡ ngực, rã cánh tay đến phát ho, phát hen lên. Nhưng như thế vẫn chưa phải là đủ. Nay ông quản lý thị trường đến đòi thu thuế, kiểm tra giấy sửa chữa kinh doanh. Mai mấy chú công an mặt non choẹt đến hoạnh hoẹ đòi dỡ lều để đảm bảo mỹ quan và trật tự công cộng. Ông biết họ "sinh chuyện" thế cho vui đấy thôi. Chỉ vài điếu "đầu lọc" với câu "vâng, dạ" là êm tất. Nhưng vốn tự trọng, ông không cho phép mình làm như vậy. Là ông đành tặc lười, nhổ lều.
Cuối cùng, bà đề nghị để bà ra chợ, mở mấy mẹt hàng khô. Ngày xưa, bà đã có cả cửa hàng lớn ở một chợ chính ở Hà Nội... Ông gạt đi "thôi, quay lại cái nghề tiểu thương ấy làm gì". Ông đã có cách khác, nhẹ nhàng mà êm thấm biết bao nhiêu. Đó là chuyện Thắng vừa gửi Minh chuyển hộ về chiếc tủ lạnh. Vợ Thắng vốn ngại đưa về nhà. ở khu tập thể, có hàng ở Tây về dễ sinh chuyện, kẻ ghen thế này, người chọc thế nọ. Thế là ông tính, bán quách đi gửi vào tiết kiệm dài hạn. Cái vốn vẫn nằm đó, mấy năm sau Thắng về, cần chi dùng gì sẽ rút tiền ra... Còn lãi là phần ngọn, ông dùng thêm thắt vào việc chi tiêu hàng ngày của hai ông bà già. Thật nhất cử, lưỡng tiện. "Tự nhiên lại có ông con trưởng đem lương hàng tháng về mà lại không phải mời ăn". Ông đã đắc chí nói với cả nhà như vậy. Và tiền lãi tháng đầu tiên, ông dành hẳn ra mua quà cho tất cả các cháu. Nhưng rồi, ông cũng không học được chữ ngờ. Phải, một người như ông, không bao giờ có nổi một ý nghĩ quanh co, mọi cái đều thẳng băng thì chuyện ông va vấp cũng là lẽ thường. Vừa lĩnh xong lãi suất tiết kiệm của tháng thứ hai, đùng một cái, chính sách Giá - Lương - Tiền như chụp xuống đầu ông. Số dư trong sổ tiết kiệm của ông từ mười đồng, theo quy định mới bị đánh xuống còn một và tiếp theo đòn đó, giá thị trường lên theo chiều thẳng đứng của loại tên lửa hiện đại nhất. Bà cuống cuồng giục ông rút tiền ra nhưng không được. Sổ của ông thuộc diện gửi dài hạn, mà lãi suất đã trót lĩnh hai tháng rồi. Phải chờ hết ba năm mới được rút ra. Thế là than ôi, số tiền, giá bán một chiếc tủ lạnh để trong sổ tiết kiệm, sau vài ba tháng chỉ còn giá trị bằng nửa kilôgam thịt lợn. Và thực tế cuốn sổ tiết kiệm ấy ông chỉ để làm kỷ niệm.
Ông có buồn không? Buồn lắm nhưng không hề giận. Là một cán bộ suốt đời tận tuỵ với sự nghiệp cách mạng như ông mà lại đi giận Nhà nước sao? Không, không bao giờ. Mặc dù bây giờ đây, khối kẻ đáng quý không bằng một phần mười ông mà hưởng thụ hơn ông gấp chục gấp trăm lần mà hễ mở mồm ra là nói giọng bất mãn, mỉa mai, nói xấu chế độ những là tưởng là hay ho lắm, ai ngờ bị quả lừa "Hoặc mong mỏi bao giờ cho tới ngày xưa". Ông vẫn giữ lập trường kiên định của mình. Có lần, một ông già ở cùng Đảng bộ hưu nói đùa: "Tôi hoạt động cách mạng từ ngày cây đa Tân Trào còn bằng cây ớt mà bây giờ cũng chả được tích sự gì" đã bị ông Thành phê phán gay gắt đến giận dữ. Thậm chí, ông còn đề nghị khai trừ người nói câu đó ra khỏi Đảng.
Bề ngoài, ông là một con người như vậy. Nhưng trong tâm can sâu thẳm nhất, không phải đôi lúc ông không có những câu hỏi này nọ. Vì sao đời sống cứ ngày một tụt dần? Rơi, rơi mãi mà chưa tới đáy là thế nào? Chiến tranh ác liệt, đói rách, khổ sở đã đành! Hoà bình cả chục năm rồi chỉ còn làm mà ăn thôi, sao lại cứ thất bát, đổ vỡ là nghĩa làm sao? Nhiều đêm không ngủ được, ông cũng day dứt trước những câu hỏi rất chung cho cả mọi người. Nhưng rồi bản chất vốn là người cứng cỏi, chỉ có biết nhìn về phía trước, ông lại tự tìm ra câu giải đáp cho mình. Sự nghiệp xây dựng của chúng ta mới mẻ biết bao nhiêu, xưa nay đã làm gì có! Mà cái gì mới mẻ chả khó khăn, lúng túng lúc đầu. Đến như cỗ máy, cũng phải qua điểm "chết" mới chạy đều được nữa là. Và có lần tất có sai sót, lệch lạc. Sai thì sửa. Ngay như thời "chỉnh cán, rèn quân" trong những năm kháng Pháp chẳng hạn, ông cảm thấy thú vị nhớ lại. Phải nhớ lại hoàn cảnh lịch sử thời đó. Bản thân ông cũng được "cạo" một mẻ ra trò. Tất nhiên thời điểm này mà kể lại thì khối người sẽ cười. Nhưng hãy cười độ lượng vì lúc đó làm sao có thể làm khác được. Dưới ánh lửa bập bùng giữa rừng sâu, những cuộc "kiểm thảo" thâu đêm suốt sáng mới thiêng liêng làm sao! Mà lạ lùng nhất là sau khi nói được ra, nhận được là mình có sai sót, ai cũng cảm thấy lâng lâng sung sướng như vừa trút được gánh nặng tội lỗi đeo đẳng hàng chục năm. Có nhiều chuyện ngộ nhận về sai sót khuyết điểm đến tội lỗi rất ngây thơ. Và bản thân ông cùng với nhiều người đã khóc, khóc hết sức thành tâm... Đợt đó, ông được cơ quan giao cho một việc quan trọng cùng với một chú bé liên lạc áp giải một kẻ tình nghi về ban thanh tra đặc biệt của Liên khu. Mùa mưa năm ấy đến sớm. Cậu liên lạc và kẻ bị tình nghi đi trước, vừa lội ra giữa dòng suối Khuôn Câm, một con suối lớn thì nước lũ ào về. Dòng nước đục ngầu, sôi sùng sục cuốn phăng cả hai người đi. Lúc đó, ông Thành vừa đặt chân xuống mép nước. Theo phản xạ, ông nhảy lùi lại. Rồi sau một vài giây choáng váng, ông vứt ba lô chạy dọc theo bờ suối. Cách đó không xa là vực nước xoáy như là một chảo nước sôi khổng lồ. Ông chợt phát hiện thấy những mái tóc đen chồi lên, tụt xuống xoay vòng tròn theo xoáy nước. Không kịp đắn đo, suy tính, ông cởi phăng áo lao người xuống vực thẳm. Lập tức xoáy nước nhấn chìm ông xuống tận đáy. Nhưng vốn là người khoẻ lại thạo bơi lội, ông lựa theo chiều xoáy chồi được người lên để định hướng. Hai chiếc đầu vẫn nhấp nhô lượn lờ theo xoáy nước. Ông bơi đứng, cố ghìm người không để bị cuốn vào vòng xoáy và lừa thế túm được một mớ tóc. Vật lộn vất vả với xoáy nước và người bị nạn, một lúc lâu cả hai mới dạt được vào bờ. Lúc đó, ông đã mệt lắm rồi nhưng vẫn cố lao xuống một lần nữa. Song lần này ông đã không gặp may. Sau một vài vòng trôi quẩn, xoáy nước đã nhấn chìm và cuốn trôi người thứ hai đi. Đuối sức dần, ông phải tìm cách bơi vào bờ. Nhưng đau xót thay cái người mà ông vớt lên được cứu thoát lại chính là kẻ đang bị tình nghi chứ không phải chú bé liên lạc. Nếu tình huống đó xảy ra bây giờ, chắc chắn không ai nỡ lên án hoặc kỷ luật ông. Nhưng vào thời điểm đó, khi cuộc chiến dịch ta diễn ra một mất, một còn đến viên kẹo làm cho trẻ con cũng được nặn thành hình chiếc mũ sắt và gọi là kẹo "đầu Tây" để nói lên quyết tâm cao độ tiêu diệt kẻ thù của cả nước thì hành động "lầm lỡ" đó của ông bị kết tội là mù quáng vẫn còn nhẹ. Và tự đáy tâm can, ông cũng cảm thấy xót xa, đau đớn. "Phải, lập trường cách mạng, lập trường giai cấp trong con người tôi chưa được vững vàng nên tôi đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng ấy. Tại sao khi nắm tóc kẻ đó tôi lại không phát hiện ra sức nặng của nó gần gấp đôi sức nặng của chú bé liên lạc kia. Lập trường giai cấp chưa được tôi luyện của tôi đã dẫn đến sự nguy hại như vậy dẫn đến cái chết oan uổng của chú bé liên lạc... Tôi không mong các đồng chí tha thứ mà chỉ yêu cầu, đề nghị các đồng chí hãy phân tích, mổ xẻ cho thật sâu sắc lỗi lầm của tôi. Không những để cho tôi "sáng mắt sáng lòng" ra mà còn để làm tấm gương cho người khác. Đặc biệt cho tầng lớp tiểu tư sản, trí thức như tôi". Ông đã hết sức nghẹn ngào và thành tâm thốt lên những lời như vậy đấy.
Trước cách mạng, ông đâu phải là kẻ nghèo đói. Mà ngược lại, ông còn có thể trở lên giầu sang là đằng khác. Tốt nghiệp trường Bách nghệ vào loại ưu, biết bao công sở và tư nhân mời ông về làm việc, công tác. Mới qua dăm năm mà từ thợ cả ông đã được đề bạt đốc công và triển vọng còn đi xa hơn. Ông chưa tậu được ôtô. Nhưng nhà lầu thì coi như đã có với ngôi nhà hai tầng, bốn buồng ở một phố yên tĩnh. Trong nhà đã có "vú em" thổi nấu, giặt giũ. Vợ ông còn có cơ ngơi riêng với nhà ngói, vườn tược ở quê và quầy hàng khô đắt khách ở một chợ chính ở Hà Nội. Sập gụ, tủ chè, xa lông Tầu khảm trai đối với ông thời đó chẳng là cái gì. Đồng lương tháng của ông đủ nuôi hai chục người sung túc. ấy thế mà ông bỏ hết, bỏ tất cả để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của cụ Hồ. Mà ông đâu có phải như một số người, thụ động, bị dòng thác cách mạng, kháng chiến cuốn theo. Ông đã lên Việt Bắc từ trước 19 tháng 12 để lập công binh xưởng trong an toàn khu. Chiến tranh bùng nổ mới cho liên lạc về đón vợ con lên sau. ấy thế mà ngày chiến thắng trở về chỉ còn hai bàn tay trắng. Nhà trên phố đã có chủ khác ở từ lâu. Dinh cơ dưới quê Tây dỡ gạch xây bốt. Đất cát, họ hàng mỗi người xâu xé một mảnh. Nhưng nào ông có tiếc gì. Biệt thự, vườn tược, đời sống của lớp quý tộc ông còn chả tiếc nữa là đi tiếc cái tủ lạnh. Mà Thắng, đã có gì đóng góp lớn lao đâu ngoài bốn năm đem máy đo đạc đi khảo sát vùng tuyến lửa thời đánh Mỹ. Bù lại Nhà nước đã cho Thắng đi nước ngoài. Xuất xứ của chiếc tủ lạnh cũng từ đó mà ra có gì phải tiếc.
Đó, bản chất của ông là con người như thế đó. Nhưng cuộc sống sôi động với những va đập gay gắt hàng ngày không phải đã không tác động đến ông. Mặc dù giờ đây ông đã điều chỉnh nhịp sống sinh hoạt đến mức tiết kiệm tối đa bằng gạo lức, muối vừng kết hợp với luyện tập dưỡng sinh theo phương pháp y-ô-ga. Tuy vậy, sáng sáng sau lúc tập luyện và tắm nước lạnh, ông vẫn thờ thẫn ra thị trấn xếp hàng chờ báo về. Lúc này những bài chống tiêu cực đang rộ lên. Ông háo hức theo dõi với một tâm trạng vừa vui mừng vừa bực bội. Những bài phê phán sự yếu kém trong quản lý thì ông cười, thừa nhận là đúng vì ông vốn là con nhà kỹ nghệ nên ông hiểu. Nhưng những bài về cơ chế về đường lối, chính sách và những chuyện tham ô, hối lộ làm thất thoát tài sản lớn của các cán bộ có chức, có quyền thì ông rất nghi ngờ. Quả nhiên ông thấy mình đúng, những bài chống tiêu cực chỉ nở rộ một thời gian ngắn rồi lịm đi. Nhưng ở ông đã hình thành một thói quen, một nhu cầu cần đọc. Đọc để giải trí, giết thời giờ nhàn rỗi quá nhiều trong ngày. Mặt khác, việc đọc làm cho ông mềm mại ra, uyển chuyển hơn trong tính cách và suy nghĩ. Và rồi tình cờ, trên một tạp chí Văn nghệ ông đọc được một truyện ngắn viết về vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài. Một đề tài lạ, chưa thấy ai đề cập, khai thác. Mới đầu ông chỉ ngó lướt qua. Nhưng rồi do sức cuốn hút của cốt truyện và vấn đề đã khiến ông phải đọc lần thứ hai một cách chăm chú hơn. Đọc xong, ông lặng đi, tháo cặp kính lão bỏ vào chiếc bao bằng nhôm. Không hiểu thế nào, ông lại chuyển tờ tạp chí Văn nghệ cho bà vợ lúc đó đang ngồi khâu vá một chiếc sơ mi cũ.
- Bà đọc đi! Đọc đi! Chuyện họ viết về thằng Thắng nhà mình ở nước ngoài đấy bà ạ! Nói rồi ông chép miệng rồi buông một tiếng thở dài và khẽ lắc đầu.
Thấy chồng sốt sắng, lại nói là chuyện viết về đứa con mình ở bên Tây, bà cũng hào hứng đón nhận. Để cho dễ đọc hơn, bà còn tìm đổi một cặp kính có độ phóng đại lớn hơn. Và trước mắt bà một dòng chữ to, đen đậm hiện ra với tiêu đề Hạnh phúc mỏng manh.
Đọc hết khổ mở đầu, bà chưa thấy gì lạ. Nhưng từ
khổ thứ hai bà bị cuốn hút ngay. Bà phải lùi lại, tựa hẳn tấm lưng mỏng và gầy vào thành những chiếc nan của chiếc thành giường dẻ quạt cũ kỹ, tỏ rõ quyết tâm đọc cho đến hết.
"Đã gần ba năm trôi qua, nhưng Tâm vẫn nhớ như in những ngày đầu mới đặt chân đến thành phố xa lạ này. Nhớ đến đoạn tầu điện ra khỏi thành phố, chạy men theo ngoại ô, Tâm gần như dán mắt vào cửa kính, nhìn ra ngoài. Gió như thổi mạnh hơn. Hai bên đường những cây phong lá rực lên như dát vàng, xen giữa màu vàng rực rỡ ấy, những khóm lá dâu cành vàng nõn nà. Gió vẫn thổi dài từng đợt. Tâm thấy lòng mình quặn lại khi nhìn thấy những chiếc lá vàng lật lên, cụp xuống liên hồi theo gió. Chị có cảm tưởng những chiếc lá ấy như những bàn tay trẻ nhỏ đương run rẩy vẫy gọi. Chị đột ngột nghĩ tới đứa con đang ở cách xa mình hàng vạn dặm. Chị như nhìn thấy khuôn mặt bé nhỏ của thằng bé với đôi mắt to đen âm thầm hiện ra giữa đám lá vàng nõn đang run rẩy ngoài kia. Trong tiếng gió thét gào, chị nghe như có tiếng gọi "mẹ ơi, mẹ ơi!" của đứa trẻ.
Ngay từ phút đầu tiên sau khi trút bỏ bộ quần áo từ Việt Nam sang để đặt chiếc va li nhẹ bỗng xuống gầm giường. Tâm đã vội vã lấy bút giấy viết thư ngay về nhà. Chị vừa đặt bút viết được dòng đầu tiên: "Anh và con thương nhớ" thì hai hàng nước mắt đã trào ra, khiến chị không sao viết tiếp được nữa. Chị gục đầu xuống bàn khóc nức lên. Cho tới quá trưa, có tiếng gõ cửa, rồi một khuôn mặt phụ nữ thô đen với đôi mắt to man dại ló vào. Khác hẳn với cái tướng đàn ông cao lớn, gầy guộc, giọng nói của chị ta đầm ấm lạ lùng. Chị tự giới thiệu tên là Mai, đang làm luận văn tiến sĩ. Sau đó chị mời Tâm đến gặp đồng chí phụ trách Hội đồng hương Việt Nam. Tâm không thể tưởng tượng được người đứng trước mắt mình lại được sứ quán giao cho lãnh đạo, dẫn dắt một đơn vị lưu học sinh. Dáng người tầm thước nhưng to khoẻ, chắc nịch của anh ta bó gọn trong chiếc quần bò "din" và chiếc áo phông cá sấu với những sọc ngang vằn vện. Mái tóc đen mượt, uốn làn sóng bồng bềnh trên khuôn mặt hồng hào, rạng rỡ. Đôi mắt đen ướt át luôn liếc đi, liếc lại và cái miệng tươi tắn luôn uốn éo làm duyên. Chiếc cổ tròn của anh ta còn được trang điểm thêm một sợi dây chuyền bằng loại i-nôc không gỉ. Anh ta như một chú gà trống đẹp mã, từng trải đang ở độ sung sức nhất. Thoáng nhìn dáng người cao thon thả nhưng đầy đặn, nở nang với làn da trắng mịn màng, mái tóc đen dày và nhất là đôi mắt, đôi mắt to đen mỗi khi mở to như phát sáng ra những vầng sáng xanh đen biêng biếc như vực thẳm đến nao lòng người của Tâm, anh ta thoáng ngỡ ngàng nhưng rồi trấn tĩnh lại được rất nhanh. Bằng một cử chỉ khoát tay rất điệu, anh ta mời hai người phụ nữ vào phòng mình rồi anh ta tự giới thiệu tên là Đông, đã từng là diễn viên trong một đoàn văn công trung ương, hiện làm công tác văn hoá quần chúng ở một cơ quan dân sự. Anh sang thực tập sinh, không phải bảo vệ luận án nên có nhiều thời gian rảnh rỗi. Sau đó với vẻ trịnh trọng hơn, Đông giới thiệu với Tâm nội quy, nền nếp sinh hoạt học tập của trường. Rồi anh giao cho Mai nhiệm vụ giúp đỡ Tâm cho khỏi bỡ ngỡ trong những ngày đầu.
Mặc dù đã phân công rõ ràng như vậy, nhưng không hiểu sao những buổi Tâm đến trường hay đi cửa hàng bách hoá nhận quần áo trang bị, vẫn thấy Đông tới đi kèm. Anh ta tỏ vẻ rất tự nhiên và có những cử chỉ rất "Tây" khi đưa tay đỡ Tâm lúc xuống tàu, lúc khoác tay Tâm qua đường, mặc cho cô bạn Mai kín đáo ném sang cái nhìn chế nhạo hoặc lườm nguýt.
Rồi mùa đông ập đến. Mùa đông ở xứ lạnh, ngày co lại, chín mười giờ sáng mới le lói tí ánh sáng mặt trời. Hơn ba giờ chiều Tâm bước chân ra khỏi phòng học thì đường phố đã lên đèn. Cả tuần lễ, Tâm không được trông thấy ánh sáng mặt trời. Chỉ có ánh điện tràn ngập trong lớp học, phòng ở và ngoài đường phố. Thứ ánh sáng ấy làm cho chị như say, như mê đi khiến cho thời gian tưởng như ngừng trôi, dài vô tận. Nỗi nhớ chồng, nhớ con mỗi lúc một tăng lên. Có cả sự giày vò, tự trách móc đã dấn thân tới nơi xa lạ này. Rồi những trận cảm lạnh liên tiếp xảy ra. Tâm thấy nản vô cùng, trong đầu chị đã le lối một ý "xin về". Đã vậy, anh chàng Đông lại luôn luôn quấy rầy săn đuổi Tâm ngày một gấp gáp. Anh ta đến phòng Tâm ngồi lì hàng giờ, huyên thuyên đủ mọi thứ chuyện. Đông trổ tài, ôm hôn những cô gái nước ngoài trước mặt Tâm như muốn nói mọi việc như thế ở đây là bình thường, và được phép thoải mái. Anh ta lợi dụng trong lúc nhảy (Tâm không có mặt trong các đêm vũ hội, trừ các buổi liên hoan hữu nghị giữa các hội sinh viên của nước ngoài), kéo sát Tâm vào người mình. Anh ta tuôn ra những lời thì thầm nịnh nọt, tâng bốc "Tâm có biết không, từ ngày có mặt Tâm, hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam trong mắt người nước ngoài thực sự là một cuộc cách mạng đấy. Anh cũng thấy tự hào".
Sáng nay tuyết rơi mịt mù, Tâm thấy người khó chịu, không muốn tới trường. Nhưng buổi học trước, Tâm còn nợ một bài thơ chưa học thuộc nên buổi này, không thể không đi được. Tan học Tâm loạng choạng xuống phòng giữ áo khoác ngoài. Đông đã đứng chờ chị từ bao giờ. Đông thân mật bảo Tâm: - Anh có hai vé xem Balê, vở diễn hay lắm. Ta đi ăn bữa chiều rồi vào rạp xem luôn.
- Cám ơn, em mệt lắm, phải về ngay thôi.
Nhìn vẻ mặt nhợt nhạt của Tâm, Đông tỏ ra cuống quýt.
- Chết, Tâm bị cảm lạnh rồi... Để anh gọi tắc-xi.
- Không cần, em quen đi xe điện.
Đông kèm sát bên cạnh. Anh ta khoác tay như muốn dìu Tâm đi. Chị gạt nhẹ ra. Về tới nhà, Tâm như không còn sức nữa, người rét run lên. Hai bàn chân tê cóng, các ngón dính vào nhau như bị đóng băng. Chị vội bỏ giầy, đưa cả hai bàn chân lên những chiếc ống ga lò sưởi bằng hơi nước nóng. Thấy vậy, Đông vội kêu lên:
- Dừng lại, cước hết chân không cứu được đâu!
Đông cắm ấm điện, đun nước, pha một cốc chè đường thật đặc. Tâm uống liền hai cốc vại. Nhìn sắc mặt Tâm hồng trở lại. Đông bắt đầu ba hoa về cách chống cảm lạnh ở xứ sở băng giá này. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, anh ta lục tìm trong túi áo vét và lấy ra một lọ dầu cù là:
- à quên, còn thứ thuốc của quê hương nữa. Để anh xoa vào thái dương một lúc là khỏi đau đầu ngay.
Không chờ Tâm trả lời có đồng ý hay không, bàn tay Đông đã đặt lên má chị. Như linh cảm thấy điều gì không bình thường, Tâm vội kéo chăn lên trùm kín đầu và lên tiếng.
- Thôi cảm ơn anh! Tâm thấy dễ chịu rồi. Anh về cho Tâm nghỉ một chút.
Một chút im lặng trôi qua. Tâm không hiểu Đông nghĩ gì trong phút đó. Chợt chị thấy bàn tay ấm nóng, ram ráp của Đông đặt lên má mình. Chị tung chăn và nhỏm dậy. Sự việc tiếp theo diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Đông đang ngồi trên ghế bên cạnh, bỗng cúi xuống, đưa cả hai tay ôm choàng lấy chị. Rồi nửa người phía trên của Đông đè ập xuống. Hai tay ghì chặt lấy cổ Tâm, Đông tới tấp đặt những cái hôn lên má, lên môi chị. Sau một vài giây bàng hoàng, không ngờ Đông lại dám liều lĩnh như vậy, Tâm lựa thế vùng lên được. Chị chồm lên, nhìn thẳng vào khuôn mặt đỏ bừng bừng của Đông và bất ngờ đến mức Tâm cũng không tin. Chị giơ thẳng tay tát Đông một cái cực mạnh.
- Hãy cút đi! Nếu anh còn muốn giữ thể diện mà trông thấy mọi người.
Những năm tháng chiến tranh phá hoại ác liệt của giặc Mỹ, trường Giao thông của Lâm và trường Tổng hợp của Tâm sơ tán lên vùng rừng núi Thái Nguyên, Lâm có cô em con bà cô ruột học cùng khoá và là bạn thân của Tâm.
Dáng người tuy mảnh khảnh nhưng bù lại Tâm có khuôn mặt trái xoan, nước da trắng mịn màng, mái tóc đen dày và đặc biệt là đôi mắt, đôi mắt to đen với những vầng sóng biêng biếc đến vô tận làm nao lòng người. Tâm có giọng hát hay nhưng những lúc rỗi rãi thường hát những bài hát buồn buồn như "Khúc ca của nàng Xim biếc" bởi thế các bạn mới gán cho biệt hiệu là Tâm "xanh". Còn Lâm có vẻ đẹp khoẻ mạnh của một chàng trai với nước da bánh mật, thân hình dong dỏng, cặp đùi cầu thủ, vầng trán cao, mũi thẳng dọc dừa và cái miệng rộng với hai hàm răng đều tăm tắp, chàng sinh viên mới trông như một pho tượng bình thường, nhưng nhìn lâu dù ở góc độ nào, cũng toát lên đường nét đẹp gãy gọn. Mỗi lần chuyển hộ quà "tiếp tế" cho cô em, Lâm thường ngại tiếp xúc và chuyện trò với Tâm. Anh luôn giữ khoảng cách xa hơn khoảng cách cần có. Nhưng thật không ngờ, khoảng cách Lâm tạo ra lại là khoảng cách tốt nhất trong nghệ thuật tạo hình để người xem đánh giá vẻ đẹp chân thực nhất của tác phẩm. Thái độ tự trọng ấy của Lâm đã tác động mạnh đến Tâm hơn mọi lời vuốt ve tán tỉnh cua các chàng trai khác. Rồi những tín hiệu đầu tiên của tình yêu bắt đầu được phát ra nhưng cả hai đều giấu kỹ trong lòng. Cho tới một buổi Lâm bất ngờ gặp Tâm từ nơi sơ tán về, đang đứng chờ xe điện. Họ phải chờ rất lâu, nhưng khi hai người đã đặt chân lên bậc lên xuống, Tâm bỗng quyết định rủ Lâm xuống đi bộ. Mãi cho tới sau ngày cưới, cùng ngồi ôn lại những kỷ niệm xưa. Tâm mới nói rõ lý do của buổi "cuốc bộ" hôm đó. Thì ra trong túi Tâm chỉ còn tiền đủ mua một vé cho mình. Cô không muốn lần đầu tiên đi với Lâm lại để anh "bao" mặc dù đó chỉ là chiếc vé xe điện.
- Cũng tự trọng ghê nhỉ - Lâm nhìn vợ nói đùa.
- Em có thể vượt qua được tất cả. Em chỉ sợ... sợ nhất là phải nhờ cậy đến ai, phải nhờ vào họ điều gì. Tâm nói một cách chân thành. Về sau, trong phút thoáng qua. Lâm có nhớ lại câu nói này. Nhưng tiếc thay, anh đã không hiểu hết về vợ mình... Sau lần "cuốc bộ" ấy, tình cảm giữa hai người có phần gần gũi hơn, nhưng cũng chưa có buổi phát triển nhảy vọt. Một năm rưỡi sau, Lâm đang học dở dang năm cuối cùng, đang chuẩn bị bảo vệ luận án thì được tin nhà trường cần tuyển một số sinh viên sắp tốt nghiệp bổ sung cho mặt trận. Mặc dù trong diện được giữ lại đào tạo cán bộ giảng dạy, Lâm vẫn là người xung phong đầu tiên. Cùng với những người ra đi đợt ấy, anh được xét đặc cách tốt nghiệp.
Tâm chép vào cuốn sổ lưu niệm của Lâm bài thơ "Cuộc chia ly màu đỏ". Và trước lúc chia tay, trước lúc Lâm leo lên thùng xe vận tải, Tâm đã nói với anh qua hai hàng nước mắt: Em sẽ chờ, dù mười năm hay lâu hơn, em vẫn chờ... Hãy tin ở em.
Lâm trở thành chiến sĩ mở đường Trường Sơn. Rồi một đại đội trưởng công binh với những cú đánh mìn táo bạo. Đầu năm 1973, sau hiệp định Pari anh mới được ra Bắc ít ngày. Lúc ấy Tâm đã trở thành một cán bộ giảng dạy văn học phương Tây ở một trường nghiệp vụ của Bộ Văn hoá. Vào thời điểm đó, hoà bình đã nằm trong tầm tay, nhưng chiến tranh cũng không ai đoán được đến bao giờ kết thúc. Có gì mà phải chờ đợi. Thế là lễ cưới của họ được tiến hành.
Sau lễ cưới hai tháng. Lâm lại đi vào. Mãi cho đến ngày toàn thắng, đất nước thống nhất, họ mới gặp lại nhau.
Ba năm sau họ mới sinh được cháu trai đầu lòng - thằng Hùng. Sau khi sinh nở Tâm phổng phao hẳn ra, đẹp lộng lẫy như một đoá hoa đương độ hương sắc nhất.
Bỗng một hôm Tâm nói với chồng:
- Nhà trường bảo em làm hồ sơ thi nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Nhưng em ngại lắm.
- Ngại gì? Ngại anh không đồng ý à? Rõ vớ vẩn!
- Không, em ngại phải xa... Lại những bốn năm... Phải xa thằng Hùng, em sợ không chịu nổi.
Những ngày sau, Lâm phải thuyết phục mãi Tâm mới đi thi và nhập trường ngoại ngữ. Nhưng đến cuối cùng, có giấy gọi chính thức của Bộ Đại học, Tâm lại muốn ở nhà.
Lâm lại động viên vợ:
- Chúng mình đã quen chịu đựng. Xa nhau gần chục năm trong chiến tranh còn chả sao nữa là... Con cũng đã lớn, sang năm là vào học lớp một rồi.
- Giá để anh đi thay em thì tốt hơn. Tâm cảm động, rơm rớm nước mắt trước lòng tốt của chồng.
Thằng Hùng bỏ cơm rồi đột ngột lên cơn đau bụng dữ dội. Lâm tức tốc đưa con vào bệnh viện. Đến phòng chờ, thằng bé lả đi trong tay anh nhưng cơn đau có phần dịu lại. Những người trực cấp cứu đang chuẩn bị cho bữa ăn chiều. Tiếng vòi nước chảy xè xè và tiếng các cô y tá cười rúc rích. Một người đàn ông, trạc ngoài bốn mươi, thân hình hộ pháp chắc nịch trong chiếc áo choàng trắng đưa cặp mắt lồi toàn lòng trắng và cái cằm lẹm, cộc lốc hỏi Lâm: "Anh cần gì?". Lâm đưa cho hắn cuốn y bạ.
- Thưa bác sĩ, tôi nghĩ cháu bị viêm ruột thừa cấp.
- Người đàn ông ném mạnh cuốn sổ xuống bàn, giọng thé lên cáu kỉnh:
- Chúng tôi cần gì cái này... Ra phòng chờ sẽ có y tá trực giải quyết. Nghi, nghi... các người cứ làm như mình giỏi hơn thầy thuốc ấy. Lâm chưng hửng quay ra. Trên mảnh chiếu bẩn thỉu, rách mướp, trải trên chiếc giường, thằng Hùng nằm co quắp như một chú mèo con. Bỗng nó lại kêu thét lên, quằn quại. Lâm ôm choàng lấy nó. Anh lúng túng một phút rồi bế thốc đứa bé lên lao trở lại phòng trực. Hai cánh cửa đã được chốt chặt từ bên trong. Không có cách nào khác, Lâm lấy mũi giầy dồn dập thúc vào. Lại khuôn mặt béo núc với cặp mắt ốc nhồi trắng đã ló ra. Nhưng lần này, thấy thằng bé đang kêu thét dữ dội và đôi mắt trợn trừng của người cha khiến hắn chùn lại. Hắn cất giọng đàn bà, quát lác mấy cô y tá "dẹp ngay đi". Rồi giằng đứa bé trong tay Lâm, bế thốc vào phòng trong. Lâm cũng lao theo. Trao đứa bé cho cô y tá, hắn quay lại. Có lẽ bây giờ hắn mới nhìn kỹ người đàn ông vận quân phục với quân hàm đại uý trên ve áo. Nhưng hắn vẫn giữ giọng khinh nhờn: "Xin mời ra... ra cho chuyên môn chúng tôi làm việc chứ!".
Thằng Hùng đã qua cơn hiểm nghèo, nhưng vết mổ do cẩu thả bị nhiễm trùng, vẫn âm ỉ sốt. Suốt mấy ngày nó nằm bẹp, không ăn uống gì. Một người đàn bà có con cùng nằm viện khuyên: "Cháu cần phải tiếp máu và đạm thì mới vực lên được". Những người khác xì xào: "Những thứ ấy bây giờ có phải đâu nước lã. Phải có tiền. Tiền hoặc quà..." Lâm ngơ ngác đến hoang mang. Anh rụt rè đến gặp người bác sĩ béo mập. Phòng hắn đương có khách. Lâm nhẫn nhục ngồi chờ ở chiếc ghế băng bên ngoài. Tiếng cửa kẹt mở, khi người khách bước ra, Lâm vội đứng lên. Người khách chợt dừng lại rồi reo lên: "Lâm, Lâm đấy hả?". Anh ngạc nhiên không hiểu người đứng trước mặt mình là ai. Như đoán được ý nghĩ ấy người khách thốt lên: "Nam đây... Nam "mèo" khoa cơ khí ôtô đây mà!".
Nam "mèo" à! Trong tâm trí anh bỗng loé lên hình ảnh một thanh niên hơi thấp, nhỏ con nhưng chắc nịch tóc một bên vót nhọn như bút chì. Hắn đá trung phong trong đội tuyển nhà trường cùng với Lâm. Thằng ôn nhanh như sóc, luồn lách rất tài và sức bật đánh đầu đến kỳ lạ. Hắn còn vào loại đa mưu và mồm mép. Suốt mấy năm học sơ tán, nhờ đồng tiền rách bươm, hắn không mất một đồng xu tàu xe nào. Đó là tờ giấy bạc mười đồng (loại tiền lớn nhất lúc bấy giờ) đã nát mùn thành nhiều mảnh. Hắn lấy giấy bóng kính, dán cả hai mặt lại rất cẩn thận. Không bao giờ hắn mua vé ở dưới ga. Chỉ đến khi lên tàu, hắn mới chìa đồng tiền đó ra lấy vé bổ sung. Biết bao người đã lật qua, lật lại đồng tiền đó, lắc đầu trả lời hắn và cho qua.
Thế mà trước mặt Lâm bây giờ là một con người khác hẳn: đẫy đà, bệ vệ, mặc áo bay, quần bò nhung, mũ bê rê chụp trên mái tóc loà xoà. Cặp kính râm gọng mạ vàng to vừa phải trên khuôn mặt chững chạc.
- Ông thay đổi thế này thì ai mà nhận ra được. Rồi Lâm kể qua cảnh ngộ của con mình và phàn nàn về những vụ việc đã chứng kiến ở đây. Nam cười và vỗ vào vai anh: "Khổ lắm! Bây giờ nó là thế mà". Sau đó Nam nói tiếp: "Thôi được rồi, tôi có thể giúp ông. Trong túi xách còn năm bao ba số đây. Tôi cũng phải vừa xin hắn cái giấy cho vợ nghỉ vài ngày trông con ốm đấy". Khoảng năm phút sau, Nam trở ra, vừa đi vừa nói: "Xong, xong rồi. Chiều thằng bé sẽ được tiếp đạm".