← Quay lại trang sách

Phần 14

Đã ba tháng không thấy có thư của Tâm gửi về. Tâm ốm đau chăng? Hay việc "làm ăn" bên đó có gì trục trặc, hoặc vì lý do gì đó thư từ bị chậm?

Cho tới một buổi chiều, sau giờ làm việc, phóng xe về anh thấy một bức điện gài sẵn ở khe cửa. Nguyên văn bức điện như sau: "Chiều thứ sáu, mồng 9 tháng 5, Tâm sẽ có mặt ở Hà Nội. Anh không nên đi đón Tâm, vì chúng ta không thể gặp nhau lúc này. Tâm chỉ có một yêu cầu là anh đưa con đến cổng nhà bà ngoại vào đúng chiều Tâm về. Mong anh không từ chối sự mong mỏi của người mẹ phải xa cách con lâu ngày".

Lâm đọc đi đọc lại bức điện nhiều lần nhưng không hiểu được điều gì xảy ra. Cả đêm hôm đó Lâm suy nghĩ, đặt ra bao nhiêu giả thiết, song không tìm ra lời giải thoả đáng nào. Anh định tìm đến Nam "mèo". Nhưng đến sáng, anh thay đổi quyết định. Anh đến thẳng Bộ Đại học. ở đó, một cán bộ đứng tuổi và đôn hậu tiếp anh. Ông ta cầm bức điện trong tay, lựa lời thông báo cho anh hiểu:

- Thật đáng tiếc, chúng tôi phải nói với anh chuyện này, chị ấy có mang, không thể tiếp tục công việc nghiên cứu được nữa. - Ông dừng lại, dò xét thái độ của người nghe ngồi trước mặt mình.

Trời đất như đổ sụp xuống chân Lâm.

- Hả? Sao? Tôi không hiểu lắm! Xin đồng chí nói hoặc giải thích rõ hơn... Anh nói gần như không thành tiếng nữa.

- Vâng, thật đáng tiếc - người đàn ông tiếp tục. ở bên đó chị Tâm đã quan hệ không chính đáng với một người đàn ông. Một thực tập sinh Việt Nam. Chị đã có mang.

Mọi việc đã lướt qua đầu anh như mê, như tỉnh. Anh đau buồn nghĩ tới ngày mai không biết số phận sẽ đưa anh tới đâu. Đứa con gầy gò mảnh khảnh im lặng trong vòng tay anh. Có nên đưa nó về gặp mẹ không? Anh băn khoăn tự hỏi và nhớ lại ngày Tâm mới xa nhà. Có những tối, hai cha con nằm bên nhau mấy giờ mà thằng bé không nói câu nào. Anh tưởng con đã ngủ. Anh khẽ nhỏm đầu lên theo dõi. Đôi mắt thằng bé vẫn mở to nhưng hai bên má ướt nước mắt. "Con làm sao thế"? - Anh hỏi. Thằng bé úp mặt xuống giường thổn thức: "Bố ơi! Con nhớ mẹ quá". Không, không đưa nó đến gặp mẹ lúc này, anh cảm thấy mình nhẫn tâm quá.

Hai cha con cứ ôm nhau lặng lẽ ngồi như thế, mặc cho thời gian trôi đi. Cho tới lúc đã ngả về chiều. Lâm bế con đứng dậy, những ngấn nước mắt vẫn còn đọng bên khoé mắt anh. Anh lặng lẽ dắt con xuống nhà, nhấc nó lên xe máy và chở đi. Trời đất chợt tối sầm lại, trong cơn dông, gió quay tròn thốc mạnh khiến người anh gai lên như cơn sốt. Chiếc Cub chở hai cha con lướt ra ngoại ô rồi rẽ vào một con đường gạch dẫn vào làng. Đến ngã ba, chỗ con đường đất đi vào một chòm xóm, bên rặng tre, ngay cạnh đầu hồi một ngôi nhà gạch kiểu cổ, anh cho xe dừng lại. Anh đưa tay nhấc con xuống và quay mũi xe lại. Đứa con rất đỗi ngạc nhiên, níu lấy người cha, hỏi:

- Bố không vào gặp mẹ Tâm cùng với con ư?

- Con cứ vào trước đi!... Bố có việc bận... Rồi bố sẽ vào...

- Không, bố phải vào cùng với con!... Vào ngay bây giờ cơ! Thằng bé như linh cảm thấy điều gì, khóc nức lên.

Gió vẫn thổi mạnh và những hạt mưa to đã bắt đầu lao chéo xuống. Bàn chân Lâm nặng nề, giận dữ đạp lên cần khởi động. Tay thằng bé vẫn níu chặt vào áo anh. Anh gỡ mạnh tay nó ra rồi rú ga lao vút đi.

- Bố. Bố ơi! Sao bố lại để con ở đây! Thằng bé gào lên trong nước mắt. Mưa đang xối xả như trút nước. Tiếng gào của thằng bé bị tiếng gió, tiếng mưa làm át đi. Không một ai trong nhà nghe thấy tiếng kêu của đứa trẻ..."

°

° °

Khi bà đọc xong, gấp cuốn tạp chí lại, ông chợt nhận thấy những giọt nước mắt lăn qua gò má nhăn nheo của bà.

- Sự đời đến là phức tạp, ông nói với bà nhưng đồng thời cũng như thể nói với chính lòng mình. Những tưởng đi Tây là sung sướng, chỉ việc đưa tay ra khuân của về. Ai ngờ cũng lắm chuyện đau lòng.

- Chẳng hiểu thằng Thắng nhà mình thế nào? Chứ cứ như trong truyện người ta viết thế này thì cũng cực lắm! Bà xót xa đế thêm. Mà ngày mai, ông đèo tôi đến chỗ con Vân, xem nó và cháu dạo này thế nào? Vợ thằng hai, thằng ba, được tiếng là chồng bộ đội nhưng mà một năm còn gặp nhau được đôi ba lần. Đằng này xa cách biền biệt bốn, năm năm ròng. Cũng khổ!

- Cũng là cái duyên, cái số thế nào! Giá như hồi ấy nó đồng ý cái Hoà, con ông Vượng... - Ông vội nói sang chuyện khác để giảm nỗi xúc động của bà.

- Cái con Hoà được cái nết na, hiền hậu. Nó mê thằng Thắng đến chết mệt. Còn ông Vượng quý thằng Thắng hơn cả con trai. Nhưng hoàn cảnh nhà người ta khác. Giàu có quá chắc cu Thắng nhà mình sợ. Nhất là tính khí bà Ba Ngòi. Sắc lạnh đến rợn người. Con mình nó cũng được cái tự trọng.

- ờ, đó là giả định thế thôi! Chứ giá mà thằng Thắng nó bập vào, có khi lại khó xử trong quan hệ giữa nhà mình với gia đình bên ấy. Thông gia không khéo thành oan gia. Cứ thế này lại hoá ra tiện. Tình bạn từ thuở thiếu thời giữa tôi với ông Vượng chẳng bao giờ mất, mặc dù mỗi người một chí hướng, một sở nguyện.

- Mà con Hoà cũng với được tấm chồng tươm tất lắm!

- Cũng được cái vỏ phó tiến sĩ. Nhưng ông Vượng bảo cũng phải tốn khối tiền mới câu được từ Hoàng Liên Sơn về Hà Nội đấy bà ạ.

Từ truyện trong sách, hai ông bà già chuyển đề tài, lan man sang những vấn đề tưởng chừng không đâu. Nhưng có điều lạ là từ sau hôm ấy, ông Thành hay nghĩ vẩn vơ. Có lúc ông lại cảm thấy tiếc cái tủ lạnh của thằng con gửi về mà ông đã trót bán và đem gửi tiền vào quĩ tiết kiệm để bị cái "Giá - Lương - Tiền" biến gần thành con số không. Đúng hơn là ông thấy thương Thắng. Những lúc nằm dưỡng sinh, lẽ ra phải tập trung tư tưởng cao độ vào việc luyện tập thì đầu óc ông lại miên man nhớ tới những kỷ niệm với đứa con từ tận ngày nảo ngày nào. Nhớ tới những đận tản cư đường dài thời kháng Pháp. Nhớ tới con đường đá dăm nóng bỏng dưới nắng hè gay gắt, thằng cu Thắng với đôi chân trần phải chạy lon ton mới kịp bám theo ông. Bên cạnh, mẹ nó với đứa em địu trên lưng, hai tay lỉnh kỉnh những nồi niêu, xoong chậu. Ông biết thằng bé mệt lắm với đôi chân nứt nẻ, bỏng rát. Nhưng trên lưng ông còn chiếc ba lô cóc căng phồng những quần áo, vật dụng của cả một gia đình kháng chiến. Ông đã dễ dàng và thoả thuận với nó, cứ đi hết mười cột dây thép - ông nhớ hồi đó còn loại cột bằng gỗ, có chăng các đường dây thông tin mà thời kháng chiến chưa kịp phá - thì ông lại chuyển chiếc ba lô cóc ra phía trước để cõng nó đi tiếp năm cột dây thép khác. Nhưng rồi cũng có lúc ông đã đánh lừa nó bằng cách kể những câu chuyện cổ tích thật hấp dẫn để nó quên cái mỏi đi, không chăm chú vào việc đếm cột dây điện thoại nữa. Nhưng rồi hai chân bỏng rát và mỏi nhừ, thằng bé chợt phát hiện ra là nó bị mắc lừa. Thế là nó oà lên khóc và bắt đền ông phải cõng nó bằng đúng đoạn đường nó đã đi. Thương con lắm nhưng ông vẫn phải vờ quát lên "đã được nghe chuyện rồi thì bây giờ phải đếm lại từ đầu chứ!". Tiếp đó là những ngày đói liên miên với một bữa cơm gạo hẩm độn ngô, thứ gạo đưa ra suối vo, vừa đặt vào nước đã tan mủn ra mất một nửa. Còn bữa chiều lót dạ bằng mấy củ khoai dây, loại khoai còn non không dóc, phải ăn cả vỏ. Rồi đến những ngày hoà bình đầu tiên, có vui nhưng cũng nheo nhóc lắm! Không kiếm được nổi chỗ chui ra, chui vào cho ra hồn mặc dù nhà cửa hồi đó còn rất sẵn, tiền thuê mỗi tháng cũng chỉ vài đồng bạc một buồng rộng. Nhưng vài đồng lúc đó với gia đình ông, một gia đình kháng chiến mới hồi cư về là to lắm. Thành ra hết dọn đến căn nhà mái tôn này lại phải chuyển đến căn buồng hầm khác. Mãi cho tới năm 1962, gia đình ông mới được chuyển về ở tại khu tập thể cao tầng đầu tiên, một căn buồng mười sáu mét vuông trên tầng ba.

Ông thương cảm vì Thắng sớm biết nghĩ. Ngày đó còn có trường công và trường tư. Trường tư ở ngay cạnh nhà. Nhưng Thắng vẫn quyết thi vào trường công; dù có phải đi học rất xa và còn bị đánh tụt xuống một lớp. Nhà ở gần bờ sông, những ngày lũ lụt, Thắng cũng biết ra sông vớt củi. Nhìn mái tóc bết lại, khét lẹt mùi nắng của con, ông biết là nó vất vả và cả nguy hiểm nữa. Ông thương lắm mà vẫn phải nhắm mắt làm ngơ như không biết gì vì túng bấn quá. Mỗi bó củi Thắng vớt về cũng đỡ được tám hào bạc đến một đồng. Đỡ hẳn một khoản chi. Rồi thời gian cứ vùn vụt trôi. Thắng vào đại học và tốt nghiệp, rồi vào thẳng tuyến lửa vùng khu Bốn cũ. Đến lúc đó hai cha con đã như bằng vai, phải lứa rồi. Bản thân ông cũng xông pha nơi mưa bom, bão đạn tại các công trường bảo đảm giao thông thời đánh Mỹ chứ có kém cạnh gì. Mấy ngày vừa rồi, hai ông bà đèo nhau đến thăm vợ con Thắng. Được Vân cho biết, Thắng viết thư về thông báo mọi chuyện vẫn bình thường. Nhưng nàng dâu cũng nói thêm cho ông hay rằng, một số người ở Tây về kêu ca là việc gửi hàng rất khó khăn, căng thẳng. Thậm chí có người đã hết hợp đồng lao động mà vẫn chưa về được vì có trục trặc trong việc chuyển gửi hàng hoá, đồ đạc. Câu chuyện của Vân càng làm cho ông thương cảm đến những nỗi vất vả của Thắng.

"Mình đã già, đổi tâm đổi tính rồi chăng? Hay sự thật là cuộc sống quá cam go, mệt mỏi?". Ông duỗi thẳng hai chân, nằm bất động, mắt nhắm lại, cố thở vào thật sâu kết hợp với đếm lẩm nhẩm để xua đuổi những hồi tưởng đang ám ảnh mình. Nhưng rồi cảm thấy bất lực, mặc dù ông đã vận hết cả bài dưỡng sinh của phép y-ô-ga thần diệu mà vẫn không xua đuổi được những ý nghĩ "tiêu cực" cứ miên man trong đầu...

- Cha tiên nhân cái con mẹ đẻ thằng bố nhà chúng mày! Cái con vật nó ở nhà bà thì nó là con gà. Nó vào nồi nhà chúng mày thì nó là cú, là quạ, là thần đanh đỏ mỏ mổ vào mắt, móc đứt ruột gan nhà chúng mày!... Những đứa ăn không, ăn hỏng kia! Con gà nhà bà, mào đỏ như thế, nó đang tìm ổ đẻ mà nó nỡ ăn thịt của bà... Tiên nhân cha cái con mẹ đẻ ra thằng bố nhà chúng bay...

Đã mấy hôm nay, đi đâu thì thôi, chứ có mặt ở nhà là mụ Thoán lại cất mồm chửi rủa. Giọng chửi của mụ trầm bổng, có bài có bản như một khúc ca dân gian nhưng không vì thế mà kém phần chua ngoa, cay độc. Nhà mụ cùng đi chung một ngõ nhưng cách nhà ông Thành một

gia đình nữa. Những đứa trẻ ở sát nhà mụ, nghịch như quỷ sứ luôn là nỗi bất hoà của cả khu. Nhưng mụ Thoán cũng chẳng phải vừa, chuyên ăn cắp vặt và vay quỵt như ranh mà nhà ông Thành là điểm quấy quả chính của mụ. Lần chỉ thấy thoáng vụt qua ngõ đã mất biến bộ quần áo phơi trên dây thép căng trước sân. Từ ngày vợ chồng

ông Thành chuyển sang ăn gạo lức mụ mới ít sang vay mượn.

Mụ chửi ra rả như bơm bữa. Miệng liền tai, mụ chửi, chính mụ phải nghe, ít ai quan tâm hoặc đối đáp lại với mụ. Nhưng lần này, ông Thành đang ốm, tiếng chửi rủa của mụ khiến ông rất khó chịu. Cái ốm chuyển mùa bởi những trận mưa tầm tã cuối xuân cộng cái gió nồm nam xông xổng thật khắc nghiệt đối với người già. Cái ốm còn nặng thêm bởi mấy ngày trước đó, ông phải đội gió, dầm mưa xuống tận nghĩa trang Văn Điển nhân giỗ bốn chín ngày bà Ngòi vợ ông Vượng. Tình bạn giữa ông với ông Vượng và sự gắn bó giữa hai gia đình khiến ông không chỉ phải có mặt trong những ngày tang gia bối rối mà trước đó gần trọn một năm, khi bà Ngòi bị phát hiện một căn bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa là bệnh "ung thư máu" thì ông đã đến thăm luôn luôn.

Và sau mỗi lần đi thăm hỏi về, ông bà Thành lại tâm sự, suy ngẫm việc đời. Ông vừa thông báo diễn biến sức khoẻ của bà Ngòi vừa đưa ra những lời nhận xét, bình luận ngắn: "Khi tôi đến, bà ấy vừa được tiếp nửa lít máu tươi. Sắc mặt hồng hào hẳn ra. Cái miệng dẻo của bà ta mỉm cười có vẻ phấn chấn và tin tưởng lắm. Rồi bà ta huyên thuyên đủ thứ chuyện. Hết hỏi thăm sức khoẻ của bà lại hỏi đến tình hình thắng Thắng ở bên Tây, đến thằng Hai, thằng Ba ở biên giới, hải đảo. Nhưng đến lúc tôi về thì mặt bà ta lại ỉu xìu lại. Bà ấy bảo "Như ông bà thế mà hoá ra lại sướng. Chết là hết, là thanh thản... chả phải lo nghĩ, tiếc thương gì". Tôi lại phải an ủi: "Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Bà cứ yên tâm điều trị. Nếu số trời còn cho thì rồi bà sẽ bình phục, khoẻ dần lên".

- Ông trời ăn ở bất công thật nhưng ngẫm ra cũng còn một lẽ công bằng. Bà Thành chêm vào câu chuyện chồng đang nói dở. Cứ suy ra từ cảnh ngộ nhà mình với nhà ông Vượng thì rõ... - Bà không dám nói hết câu, sợ chồng tự ái, trách mình nhẫn tâm với bạn bè. Không, tự trong thâm tâm bà, không hề có sự suy bì, ganh tỵ hoặc ghen ghét nào. Bà chỉ muốn rút ra một kết luận từ thực tế để tự an ủi mình. Tự an ủi đôi khi cũng là một bài thuốc an thần tốt, nhất là đối với lớp người tài chí đủ cả mà suốt đời vẫn long đong, lận đận vì miếng cơm, manh áo.