← Quay lại trang sách

Phần 15

Ông Thành và ông Vượng cùng vào trường Bách nghệ một khoá. Rất thân thiết, thân thiết hơn cả anh em ruột. Nhưng khi ra trường, mỗi người đi theo một hướng riêng. Ông Thành vào sở công, còn ông Vượng tìm chủ, làm thuê. Ngay chuyện vợ con, mỗi người cũng tặt sang một ngả - Ông Thành lấy vợ theo tiếng gọi của tình yêu. Ông Vượng thì ngược lại, yêu một người và lấy vợ thì lại tìm người khác. Bà Ngòi không đẹp bằng người tình của ông nhưng bù lại bà có của hồi môn khá. Thời kháng Pháp, tình cờ hai gia đình cùng chạy lên chiến khu. Nhưng xuống nhà ông Vượng khác hẳn. Những ngày đầu, bà Ngòi bán vàng dần đi để ăn. Những vòng với xuyến, với lập lắc, dây chuyền bà đều đúc cô lại thành viên như những hạt ngô. Những lúc tản cư hoặc cần di chuyển, bà nuốt tất những "hạt ngô" đó vào bụng. Rồi đi ngoài vào bô, đãi lại, cần thì lại nuốt tiếp. Thời gian sau, bà Ngòi không phải ăn vào vốn mà thậm chí còn kiếm ra được nhờ chạy "thuốc tây" cho Việt Minh và "cơm đen" (tức thuốc phiện) cho vùng tạm bị chiếm. Thấy ông Vượng ngồi buồn, ông Thành kéo vào làm cơ điện ở công binh xưởng. Ngoài phần phụ trách máy nổ, ông Vượng còn tham gia dạy cơ khí cho nhiều lớp công nhân quân giới. Ngoài năng lực chuyên môn cao, ông Vượng còn tỏ rõ trách nhiệm của mình đối với tất cả mọi công việc dù được giao hay không được giao. Và ông cũng được tập thể tín nhiệm, đánh giá rất công bằng những công sức, đóng góp của ông. Nhưng hoà bình lập lại, chuyển về Hà Nội, ông xin ra ngoài ngay. Ông loay hoay với đủ thứ nghề từ mở lớp dạy sửa chữa rađiô đến lập xưởng cơ khí rồi chuyển qua dệt lụa, làm khăn mặt. Nhiều năm, ông sống rất lao đao. Bị nghi vấn và suýt bị bắt giam vì "sản xuất trái phép". Nhưng dường như ông không nản chí. Thua keo này, bầy keo khác, mặc cho vợ kêu nài, van vỉ "Tôi van ông! Cơm ngày ba bữa rượu thịt, tôi xin cung phụng. Chỉ mong ông nghỉ cho khoẻ. Việc gì mà cứ thân làm tội đời" Những lúc đó, ông lại cãi chầy, cãi cối bằng câu nói cửa miệng của mình "Đời chỉ có thế mà thôi". Dường như ông nhiễm phải thứ bệnh "cuồng" của giới nghệ sĩ. Chỉ thích làm việc, làm việc một cách sáng tạo, say mê. Và không bao giờ hợm hĩnh, khoe tài, khoe mẽ. Đó chính là chất keo còn lại để gắn giữ tình bạn giữa ông với ông Thành. Sau 1975 gia đình ông sống có phần thoải mái hơn về mặt tinh thần. Còn về mặt vật chất thì cả nhà, ai cũng ăn nên làm ra, phất lên như diều gặp gió. Tháng nào ông cũng phóng Vespa lên nhà ông Thành chơi. Nói chuyện cả buổi, ăn một bữa cơm đạm bạc với vợ chồng ông bạn rồi mới ra về. Rất nhiều lần ông mời ông Thành ra làm trong "tổ hợp" của mình. Nhưng lần nào ông Thành cũng cười, lắc đầu "Bỏ lâu rồi Nghề ngỗng quên hết. Không làm nổi đâu". "Thì làm quản lý, đốc công như thời Tây ấy. Còn việc giao dịch, chế tạo công nghệ thì mặc tôi. Kiêm cả, nhiều lúc tôi thấy mệt và buồn lắm". Ông Vượng cố nài nỉ nhưng ông Thành vẫn chỉ cười và lắc đầu.

Đến khi ông Vượng về rồi. Ông Thành mới bảo với vợ:

- Hai cuộc kháng chiến mấy chục năm với bao nhiêu xương máu, gian khổ, hy sinh mới đánh đuổi được cái thằng đế quốc, tư bản. Chả lẽ bây giờ lại đi ươm lại cái mầm cũ với ông ấy! Có đói ăn một tý nhưng mà nghỉ cho khoẻ.

Tuy không nói ra, nhưng giữa hai người, hai gia đình dường như có cuộc chạy đua ngấm ngầm. Cuộc chạy đua tới hai cái đích khác nhau nhưng ai cũng muốn cố chứng minh là mình đúng, mình là kẻ thắng cuộc.

Để viện dẫn cho chân lý của mình, ông Thành thường tấm tắc kể đi, kể lại câu chuyện cổ tích "Chiếc áo lót của vị Hoàng Đế" một cách đầy ý vị. Chuyện rằng ngày xửa ngày xưa có một vị Hoàng Đế trị vì trên một đất nước rộng mênh mông. Vàng bạc, châu báu, của ngon, vật lạ, gái đẹp, người hầu không thiếu một thứ gì. Nhưng ông luôn luôn cảm thấy buồn chán. Ông đã cho truyền khắp thiên hạ rằng "Ai làm cho ông cảm thấy sung sướng, ông sẽ xẻ cho nửa giang san". Một vị thầy tu dâng vua một lời khuyên "Nếu bệ hạ cảm nhận được ai là người sung sướng, bệ hạ hãy mua chiếc áo lót của người đó và đem mặc vào. Lập tức bệ hạ sẽ cảm thấy hạnh phúc". Gặp gỡ không biết bao nhiêu lớp người từ lái buôn đến nho sĩ, từ đứa trẻ vị thành niên đến ông già ngoài tuổi trăm, nhưng với ai, vị Hoàng Đế cũng cảm thấy họ có những nỗi đau khổ lớn lao, không một ai được thanh thản, sung sướng cả. Một buổi sớm, từ quán trọ, nhà vua tiếp tục bỏ đi lang thang chợt bắt gặp một người nông dân vạm vỡ, đang vui vẻ cầy trên thủa ruộng của mình. Vừa vắt trâu bằng những giai điệu phóng khoáng anh vừa cất lên tiếng hát ("Bao giờ cây lúa đâm bông. Ngọn cỏ lên đồng ta gặt trâu ăn"). Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời, vị Hoàng Đế cảm nhận được nỗi sung sướng của con người. Ông ngồi xuống vệ cỏ, chờ người nông dân cày xong, ông đến bên và hỏi: "Này anh, anh có cảm thấy mình hạnh phúc, sung sướng không? " Hạnh phúc, sung sướng là gì, thưa ông?". Người nông dân hỏi lại. "à đó là không bao giờ thấy buồn phiền đau khổ, cô đơn, chán nản. Ngươi có bao giờ thấy những điều đó không?". "Tôi cũng không rõ nữa. Nhưng quả là những cái khổ, cô đơn, buồn phiền, chán nản tôi chưa từng cảm thấy bao giờ". "Thế thì ngươi phải giúp ta. Ta chính là Hoàng Đế đi vi hành đây". "Tâu Hoàng thượng - người nông dân vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi hỏi - thần có thể giúp bệ hạ điều chi ạ?". "Rất dễ thôi. Nhà ngươi hãy bán cho ta chiếc áo lót mà ngươi đang mặc. Ta sẽ đổi cho ngươi một nửa giang san". "áo lót mình! Trời ơi! Muôn tâu bệ hạ, thần thật đáng tội chết! Từ lúc lọt lòng mẹ đến giờ, có bao giờ thần được mặc áo lót bên trong đâu ạ! Tứ thời thần chỉ có chiếc áo cánh nâu bạc phếch mặc khoác ngoài thôi ạ". "Thế có nghĩa là ta không bao giờ cảm thấy được hạnh phúc, sung sướng hay sao?". Nhà vua thất vọng thốt lên.

Về phía ông Vượng, ông không tuyên bố gì mà muốn tranh thủ một đồng minh, một trợ thủ theo mình, đó là Thắng. Bởi thế, lần đến chơi nào, ông Vượng cũng hỏi thăm ông Thành về Thắng. Những câu hỏi han rất bình thường. Nhưng từ đáy lòng, ông luôn tỏ ra sự ngưỡng mộ và luyến tiếc ở Thắng một cái gì đó, một điều gì đó mà chỉ có ông mới hiểu mà không tiện nói ra. Ngoài Hoà là con gái út, ông Vượng còn có hai đứa con trai mà đứa nào cũng "giỏi giang" cả. Thằng Hưng cùng lứa với Thắng. Nhưng nó ghét cay, ghét đắng kìm, búa với kỹ nghệ. Ngày bé ông Vượng bắt nó tập việc gì là nó giẫy nẩy lên như bị tra tấn. Nó thi vào trường Tổng hợp, khoa Sử, ngành Khảo cổ. Một ngành bị cánh trẻ hồi đó chế giễu là nghề "bốc mộ" và "đào mả". Nhưng Hưng lại có năng kiếu về lĩnh vực này. Và nó đột ngột giầu sụ lên nhờ những đồ cổ nó mua bán, tích cóp từ những ngày còn chiến tranh. Thằng thứ hai đi bộ đội. Nhưng không phải cầm súng ngày nào. Thay vì súng nó cầm máy ảnh tập tõm chụp mấy kiểu "lễ lạt" ở đơn vị, rồi được kéo lên trên, chuyển sang ngạch tuyên huấn. Nhưng cái "gien" của nó thuộc thể "lạnh", nghiêng về phía bà Ngòi. Nó không tiến lên được bằng kỹ thuật cũng như nghệ thuật làm ảnh. Nhưng nó lại nổi tiếng ở lĩnh vực khác, lĩnh vực buôn bán, trao đổi vật tư, máy móc nghề ảnh. Từ khi có phong trào chơi ảnh mầu thì nó phất nhanh như diều gặp gió. Hai đứa mua đất xây cất biệt thự ra ở riêng. Nhưng chính ông Vượng lại buồn vì lẽ đó. Buồn vì không có người cộng sự có tài năng và cùng chí hướng với ông. Bởi thế ông thường nhắc nhở, hỏi han về Thắng với một sự trân trọng và luyến tiếc ngậm ngùi. Không phải luyến tiếc vì chuyện Thắng không trở thành con rể ông. Mà ông thực sự luyến tiếc cho một tài năng, một tài năng của một nhà chế tạo cơ khí, mà theo ông, được phát huy đúng hướng, được đặt vào đúng vị trí thì không biết triển vọng sẽ to lớn đến đâu, có ích cho đất nước và cho bản thân, cho gia đình to lớn đến chừng nào.

Giữa lúc gia đình ông có những buồn vui xen kẽ như thế thì bà Ngòi đổ bệnh. Đầu tiên bà chỉ thấy chóng mặt, da xám lại, môi bợt ra. Đến khi đi khám, làm xét nghiệm thì ra bị ung thư máu. ở những trường hợp khác, người bệnh không kéo nổi ba tháng. Nhưng ở một gia đình giàu có, đương lên như gia đình ông, bà Ngòi đã chạy chữa không thiếu một phương pháp nào. Kể cả đông, tây y kết hợp với thuốc "thánh" ở nhà chùa. Thuốc quý và đắt tiền nhất là máu tươi, bà cũng được thay và tiếp đều đặn hàng tuần. Giường bệnh được kê ngay tại nhà. Có thầy thuốc đông, tây y túc trực hơn cả chế độ bệnh viện. Cần gì là các loại cub vùn vụt phóng đi sau. Nhưng cái gì cũng phải đi đến kết cục của nó. Nhất là đối với căn bệnh hiểm nghèo như bệnh ung thư, y học hiện đại mới chỉ kéo dài thêm được một giới hạn ngắn ngủi. Những ngày cuối, mặc dù được cấp cứu, truyền máu tươi liên tục nhưng bà Ngòi đã quỵ, lúc tỉnh, lúc mê. Song giây phút cuối cùng của đời bà mới thật khác lạ, ghê gớm. Sáng hôm đó bà rất tỉnh, đòi được tắm gội, thay quần áo mới sạch sẽ. Bà sai chải tóc, vấn khăn nhung the quanh đầu. Tất cả mọi người mà bà coi là người dưng gồm bác sĩ lẫn thầy thuốc đông y cho đến con dâu, con rể bà đều yêu cầu ra ngoài. Trong phòng chỉ có ông Vượng, các con trai, con gái và một người ngoài duy nhất là ông Thành. Đầu tiên bà đòi ông Vượng và hai cậu con trai đưa bà đi khắp nhà gồm hai căn buồng trên gác ba, sáu căn buồng ở gác hai và tầng một. Trong mỗi buồng, bà đều đưa mắt nhìn bao quát toàn bộ khung cảnh như vừa để ghi nhớ, vừa có tính chất giã biệt luyến tiếc rất thương tâm. Còn những đồ đạc ở dưới thấp từ cái sập gụ, cái tủ chè, bộ xa lông, chiếc ghế ngựa, thậm chí đến chiếc đôn sứ bà cũng đưa những ngón tay rờ rẫm, ve vuốt, miệng lẩm bẩm như đếm. Bà làm những động tác thật gượng nhẹ, thật âu yếm một cách run rảy nhưng cũng thật chính xác. Và môi bà luôn luôn mấy máy, khấn khứa điều gì đó rất linh thiêng. Cuối cùng bà được dìu về phòng của mình. Ông Vượng mời bà nằm xuống giường nghỉ ngơi nhưng bà xua tay. Bà đòi được ngồi trên chiếc ghế tựa cao. Rồi bà bắt hai người con trai ngồi hai bên và mời chồng cùng ông Thành ngồi xuống hai chiếc ghế xa lông thấp hơn trước mặt. Khuôn mặt tròn sạm đen chan hoà nước mắt - nhưng giọng nói của bà vẫn rất rõ ràng:

- Tôi đi đây!... Trời đã bắt thì tôi phải chịu. Tôi không oán trách điều gì... Nhưng trước khi đi, có ông Thành đây và các con trai, con gái, tôi chỉ yêu cầu ông Vượng một điều... Một điều thôi!

- Trời ơi! Bà đừng nói thế!... Bà hãy ở lại với tôi... Với các con. Ông Vượng vội thụp xuống dưới chân bà, van vỉ.

- Không! Không! Không được nữa rồi! Bà ngoẹo đầu sang một bên nức nở. Bởi thế tôi mới yêu cầu ông một điều...

- Một điều... Chứ đến chục, đến trăm tôi cũng xin nghe bà... Nhưng bà hãy ở lại... Kìa, các con, các con giữ mẹ ở lại đi. Đột nhiên ông khóc rống lên.

- Tấm lòng ông thì tôi biết... Nhưng dù sao tôi vẫn mong. Không, tôi không mong mà là ra lệnh cho ông... ông hiểu chứ? Tôi chết đi rồi, ông cứ bồ bịch đâu thoả sức, thoả lòng... Nhưng cấm, tôi cấm ông không được đưa con đàn bà nào về ăn ở tại cái nhà này. Ông phải nhớ đấy... Các con, hãy nhớ lời trăng trối của mẹ... Và cả ông, ông Thành nữa, ông cũng chứng giám lời này hộ tôi.

Rồi bà ngừng bặt. Khoé miệng khẽ mỉm cười. Nụ cười héo hắt đầy luyến tiếc và ngậm ngùi trước lúc trút hơi thở cuối cùng...

Và đám ma, cái đám ma được chuẩn bị từ trước rất kỹ càng với tất cả các nghi thức cũ, mới. Có cả lời chia buồn lẫn cảm ơn của thân quyến được đăng trên báo, phát trên đài truyền thanh lẫn truyền hình. Ông Thành rất đau buồn. Giỗ bốn mươi chín ngày, mặc cho mưa gió sụt sùi, ông Thành cùng gia quyến ông Vượng vẫn xuống tận nghĩa trang, thắp hương trên mộ bà Ngòi.

Sự gắng sức của tuổi cao cộng với cái khắc nghiệt của thời tiết lúc chuyển mùa đã khiến ông Thành bị sốt và cảm lạnh. Rồi chuyển qua ho. Tiếng ho sâu và nặng của chứng viêm phế quản. Phòng khám đa khoa cấp cho ông hai chục viên kháng sinh loại đầu đen, đầu đỏ cùng với C và B1. ấy thế mà chưa uống hết liều bệnh ông đã thuyên giảm. Nhưng nước da tái xanh và mí mắt mòng mọng. Khi lên cơn ho, nước mắt lại dào ra. ấy thế mà ông vẫn cười - nụ cười đượm vẻ lạc quan. Giá như ông không cười, bà lại đỡ đau lòng. Đã quá kỳ phát lương hưu nửa tháng mà ngân hàng vẫn chưa có tiền mặt. Những đồng tiền lẻ loi cuối cùng bà Thành cũng đã vét sạch nhẵn. Hàng ngày phải nhìn ông đưa quai hàm gầy guộc ra đưa đi, đưa lại liên tục để nghiền gạo lức cứng như hạt bo bo trộn ít muối vừng, lòng bà xót xa như bị xát muối. Bà đã toan đến những người thân quen cùng cánh tổ hưu. Nhưng cảnh ngộ của họ cũng chẳng hơn gì. Đến chỗ Vân vợ Thắng ư? Bà không dám, chiếc tủ lạnh nó gửi giữ hộ đã bán đứt mất đi rồi, lại còn vác mặt đến vòi vĩnh gì nữa? May mà có đứa con dâu tốt, chứ không, nó xỉ nhục, mắng mỏ cho cũng đành ứ họng.

Giữa trưa, ông Thành đang thiu thiu ngủ trong buồng, bà Thành ngồi gian ngoài ngán ngẩm, chua xót với những ý nghĩ như vậy chợt nhìn thấy một vật gì đen đen đang lục sục trong chiếc chạn cũ đã bỏ không ở nhà ngang dưới bếp. Bà nhìn kỹ thì ra một mái gà lông đen xám với cái mào đỏ rực đang loay hoay tìm ổ đẻ. Một ý nghĩ bất ngờ vụt đến. Bà rón rén, khom người bước xuống. Việc đầu tiên là bà khép vội cánh cửa bếp lại. Động tác thứ hai là ập chiếc cửa chạn. Trong bóng tối âm thầm của dãy nhà ngang, con gà mái bị quáng khiến nó gần như không có phản ứng gì. Tim bà đập rộn lên trong lồng ngực. Nhưng những động tác từ đôi tay già nua nhanh nhẹn, chính xác đến không thể ngờ. Thoáng một cái, bà đã đưa được chiếc đầu nhỏ của con gà quặt ra phía hai chiếc cánh. Rồi sau khi đưa một đường sắc ngọt của lưỡi dao mài mỏng vào cổ vừa được vặt qua loa một đám lông, bà đã vội vã quẳng dao, giữ chặt lấy đôi chân khiến con vật đáng thương hết đường giẫy giụa. Dăm phút sau quẳng con gà đã hoàn toàn rũ ra, bà vội vàng lên nhà lấy phích nước nóng. Bây giờ, tim bà không còn đập dồn dập vì hồi hộp nữa. Vặt lông, làm lòng xong bà nhét tất cả các thứ bỏ đi vào một túi nilông rồi bọc thêm một lần giấy báo nữa mới nhét xuống đáy chiếc làn nhựa, rảo bước ra chợ.

Sau giấc ngủ trưa ngon lành, ông Thành khoan khoái trở dậy đã thấy bà đặt trên bàn một bát cháo gà thơm phức.

- Cái gì thế này? - Ông có vẻ ngạc nhiên.

- Thì ông cứ ăn đi! Cháo gà chứ có phải thuốc độc đâu! Bà giục cuống quýt.

- Có lương hưu rồi à? - Ông phấn chấn hỏi.

- Rồi!... Nhưng mới được tạm ứng mỗi người dăm ngàn.

Ông yên tâm và rất vui vẻ cầm lấy thìa. Trước khi đưa lên miệng, ông còn thở hít hít vài cái như muốn tận hưởng vị thơm ngon rồi mới ăn. Bà lặng lẽ ngó theo từng động tác nhỏ của ông...

Tối hôm đó không có chuyện gì xẩy ra. Mụ Thoán đi đâu đó mãi đến khuya mới về. Nhưng sáng hôm sau,

mụ bắt đầu lùng sục sang các nhà hàng xóm. Riêng nhà ông Thành, mụ chỉ đảo qua, giương cặp mắt trắng dã ra nhìn chứ không hỏi han gì. Đến chiều khi biết chắc chắn con vật đã vào nồi nhà ai đó thì mụ bắt đầu khúc ca quen thuộc của mình. Mụ quay ra bốn phương, tám hướng

mà chửi. Tiếng chửi khi trầm, khi bổng réo rắt như giai điệu một khúc dân ca nhưng độc địa đến dứt da, dứt thịt người nghe.

Lúc đầu, ông Thành không để ý đến những tiếng chửi đó. Bởi đã quá đỗi quen tai. Nói ngày nào mụ cũng chửi cạnh, chửi khoé hàng xóm, láng giềng thì cũng hơi quá. Nhưng quả thực dăm ngày, không kiếm cớ chửi được ai, người mụ cứ bứt rứt như bị sốt. Đó là những lần trước. Chuyện mụ chửi trở thành cơm bữa đối với mọi người. Nhưng lần này, mụ chửi thật dai, thật độc địa. Đã qua ngày thứ hai sang ngày thứ ba mà mụ vẫn chưa dứt chửi bới và kể lể khiến ông Thành cũng thấy chột dạ. Đồng thời ông kín đáo để ý, quan sát nét mặt của vợ. Ông chợt phát hiện thấy những nét lo âu, sợ hãi và cả sự bối rối, ân hận trên nét mặt bình thản trước đây của bà. Và sự thật đã được khám phá, mở bung ra, khi có một ông bạn cùng tổ hưu sang chơi, ca cẩm về chuyện trợ cấp hưu trí đến giờ đã quá hạn hai chục ngày mà chưa ai được nhận một xu nào. Lúc ấy, bà Thành giật thót người lên, hốt hoảng muốn bịt miệng người bạn già lại mà không kịp.

Bên ngoài tiếng chửi của mụ Thoán như một điệp khúc vẫn khi trầm, khi bổng rót vào tai ông Thành. Nhưng nó đã trở thành những nhát búa thực sự gõ vào đầu ông.

- Mấy hôm nay, bà có điều gì giấu tôi thì phải. Chờ cho khách ra về, ông nằm xoài ra giường, hai mắt nhắm nghiền lại, buông ra một câu không phải thăm dò mà là một lời khẳng định.

- Khổ quá! Có chuyện gì đâu mà tôi phải giấu ông? Bà chợt khóc oà lên nức nở như một đứa trẻ. Ông đưa tay túm bàn tay xương xẩu của bà và xiết chặt một cách tin cậy.

- Lương hưu chưa có. Vậy bà lấy tiền ở đâu ra để mua gà cho tôi? - Tiếng ông thì thào mà dứt khoát.

- Thôi, tôi van ông!... Tôi lạy ông!... Ông đừng căn vặn, tra khảo tôi nữa! Bà lại nấc lên nghẹn ngào.

- Thì ra... con gà đó?!... Mãi một lúc sau, chờ cho tiếng nấc nghẹn ngào của bà lắng xuống, ông mới thì thào.

- Phải!... Tôi lạy ông!... Mà tôi có ngờ đâu cuộc đời lại đến nông nỗi này!... Bà không khóc nữa mà giọng đầy cay đắng, chua chát.

- Bà có im đi không? Bà định oán trách ai? Tiên trách kỷ, hậu trách nhân. Trước hết phải tự trách mình. Bà phải hiểu điều đó chứ? Ông chồm nửa người lên, nhìn thẳng vào khuôn mặt bệu bủng, nghiêng nghiêng của bà, giọng phẫn nộ.

- Thôi tôi van ông! Tôi trót dại... Một lần... Cả đời.

Bà như quỳ xuống, túm lấy ông hốt hoảng kêu lên. Ông thả người nằm xuống, gắng gượng để không thốt lên lời nào.

Rồi mọi việc diễn ra gần như bình thường vào ngày hôm sau. Với dáng len lén của một kẻ mắc tội, theo dõi từng cử chỉ nhỏ của ông. Nhưng dường như bà không phát hiện được điều bất thường nào.

Trong khi đó, vào các buổi sáng và chiều ông vẫn nằm, tập thở đều đều và đếm. Ông gắng hết sức vào việc luyện tập. Nhưng ông không tập trung được: tư tưởng rối bời những ký ức của những quãng đời cứ dồn dập hiện về. Thời thanh niên hiếu động, với những buổi cắm trại thi bơi, đua xe đạp trong hội Hướng đạo sinh. Trận trùm chăn đánh thằng đốc Tây ở trường Bách nghệ vì nó thông đồng với chủ thầu bớt xén suất ăn, còn chửi học viên là đồ con lợn. Rồi tiếp đó là những ngày tham gia hội truyền bá quốc ngữ và nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Rồi đến những ngày kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng. Mặc dù nhiều lúc còn vương vấn những ý nghĩ vẩn vơ, gửi gắm tấm lòng vào những bài ca uỷ mị như "Thiên thai", "Con thuyền không bến", "Nụ cười sơn cước"... Nhưng chỉ dám hát một mình, hát với lòng mình hoặc với bạn bè thân cận cùng cảnh ngộ như ông Vượng, cốt để gợi lại kỷ niệm xưa mà thôi. Để sau đó, giữa đám đông, giữa rừng người rầm rầm hành quân vào chiến dịch, vào những việc chuẩn bị cụ thể cho từng trận đánh thì khí thế hào hùng lại bừng bừng trở lại. Nhưng cho đến cuộc kháng chiến thần thánh lần thứ hai thì cả đến cái cảm giác mềm yếu tiểu tư sản đó cũng không còn. Thậm chí, có lúc nghe một vài thanh niên chợt thốt ra cửa miệng lời của một bài ca cũ đó, ông thực sự cảm thấy khó chịu và nhăn mặt lại khuyên răn, mắng mỏ. Những ngày đó, mặc dù đã ở tuổi ngũ tuần mà sức lực ông còn cường tráng như tuổi đôi mươi, thậm chí dẻo dai hơn đôi mươi. Với chiếc môtô con thỏ hai động cơ, ông luồn lách qua những trọng điểm đánh phá dữ dội của phản lực Mỹ đỗ đến những công trường đảm bảo giao thông quan trọng và ác liệt nhất. Ông là một cán bộ kế hoạch vật tư có năng lực chuyên môn và tác phong sâu sát hiện trường nhất của Tổng đội bảo đảm giao thông thời bấy giờ. Có lần, ông còn liều mạng bật đèn pha môtô nhử máy bay địch để cứu cả đoàn xe chở thuốc nổ và mìn cho các tuyến phía Nam. Lần đó ông suýt bỏ mạng, không phải vì dính bom đạn mà vì xe đổ ở một khúc quành. ấy thế mà mới mấy ngày sau, đầu còn quấn băng, chân đi khập khiễng, người ta đã lại thấy ông ở cầu đó để chuẩn bị cung ứng vật tư cho việc khôi phục dần trong thời hạn một tháng. Ngày ấy, một cán bộ kỹ thuật đã nhận xét, so sánh ông với đồng chí Tổng đội trưởng và có nói thế này: "Về mọi mặt, ông Tổng đội trưởng không đáng làm học trò cho ông Thành". Đó là một thực tế. Nhưng ông đã mắng cho tay kia một trận ra trò. Ông coi việc đồng chí Tổng đội trưởng nằm dưới hầm bê tông sáu, bảy mét mà không ra hiện trường là điều hợp lý như não được bảo vệ, cần phải nằm trong hộp sọ.

Biết bao nhiêu kỷ niệm buồn vui như cùng một lúc ào ạt hiện về trong trí nhớ của ông. Trong chiến dịch Điện Biên, ông được cử theo đoàn tiền trạm, đặc trách phần chuẩn bị nội chính cho các phương tiện kỹ thuật và công binh xưởng lưu động. Khi chiến dịch kết thúc thắng lợi, do thạo tiếng Pháp, ông được chuyển sang việc áp giải tù binh. Có lẽ đó là kỷ niệm hào hùng nhất trong đời ông. Những tên lính và sĩ quan Âu-Phi ngổ ngáo, lúc đầu còn sợ sệt. Sau thấy chính sách khoan dung của ta có chỗ quá mềm dẻo chúng đã dám coi thường. Không có những cú đấm và những cú đá song phi của ông chắc chắn đã không đem lại được trật tự. Bây giờ ông hơi ngạc nhiên về cách xử sự của mình lúc bấy giờ. Giữa những tên sĩ quan Âu to lớn, lúc đầu ông đã rút khẩu côn ở bên hông ra. Nhưng không hiểu sao, ông lại tra súng vào vỏ. Và ông đã cho chúng được phép chống lại ông. Ngay tức khắc, những cánh tay dài đầy lông lá như những gọng kìm sắt khua lên hòng chụp lấy cổ ông. Chân trái hơi bước lên, xuống tấn làm trụ. Còn nắm đấm của bàn tay phải được vung lên theo một đường cánh cung. Tên sĩ quan gốc Quốc xã hung hăng nhất dính đòn vào quai hàm ngã lăn lông lốc. Tiếp theo, ông quay người, tung chân đá vào giữa bộ ngực đẫy đà của tên thứ hai. Cú đầu gối thúc vào bụng ông dành cho tên thứ ba khi hai tay của nó đã kịp chụp vào cổ ông. Nhìn những kẻ chiến bại bò lê, bò càng với những tư thế khác nhau trên lớp lá mục, ông giận dữ chửi chúng là đồ bò, đồ lợn bằng tiếng Pháp. Rồi như chợt hăng máu lên, ông rút mạnh khẩu côn ra. May mà bọn chúng cố nén đau, kịp quỳ xuống lạy như tế ao, nếu không ông đã nhả đạn vào đầu tên nào đó không biết chừng. Chứng kiến cảnh đó còn có cả một hạ sĩ quan người Phi, bị thương ở chân. Không hiểu sao, y cũng quỳ xuống trước mặt ông. Và chính anh ta chứ không phải ai khác, đã khiến ông dịu được cơn giận. Rồi những chặng đường tiếp theo, ông cũng đã đặt vai vào cáng khiêng anh ta, cho anh ta phần thuốc lá của mình cùng những lời giảng giải về độc lập dân tộc, về chiến tranh giải phóng. Ôi, những ngày đó thật hào hùng và tươi đẹp, biết bao. Giá như bây giờ, có một phép mầu nào đó cho ông lùi lại ở xuất phát điểm của năm 1945, rồi bảo ông hãy lựa chọn đi, ông sẽ nhất quyết đi lại từ đầu đoạn đường ông đã trải qua, không một mảy may suy nghĩ, tính toán.