← Quay lại trang sách

Chương 4 Bệnh nhân tâm thần-

Mọi tội ác ở bên trong tâm linh con người Được bao bọc trong tiềm thức như một dạng khuynh hướng.-Sigtmund Freud

1

Biên bản ghi chép các cuộc họp có rất nhiều phần, ghi chép lại không ít nội dung các cuộc họp nội bộ của tổ chức Người gác đêm năm đó. Những biên bản ghi chép cuộc họp này đều được viết tay, nét chữ tuấn tú, giống hệt với nét chữ viết tay ghi chép trước đó của Đường Tuấn. Cũng có nghĩa là, người đảm nhiệm việc ghi chép bao nhiêu lần họp hành đó, chính là Đường Tuấn. Đường Tuấn sau khi hoàn tất việc ghi chép, thì đã không lưu vào hồ sơ luôn, mà đều dùng cách chụp ảnh để lưu giữ lại những ghi chép này.

Phần lớn những ghi chép cuộc họp đều xoay quanh các vụ án Diệp Phượng Viên giết người, vụ án Đỗ Xá giết người và vụ án Đổng Lạc giết người - ba vụ án mà xem ra thì không có liên quan gì lớn đến nhau, nhưng kỳ thực lại là loạt vụ án “oan oan tương báo” được thực hiện gắn liền với nhau. Ba vụ án mạng liên đới kéo dài đến 11 năm, tư duy pháp trị ở những thời đại khác nhau cũng không giống nhau, cho nên mỗi lần tổ chức họp, phát biểu của mọi người đều rất hăng hái, bất đồng ý kiến với nhau cũng rất lớn.

Tuy là năm đó hầu như mọi thành viên của tổ chức Người gác đêm đều phát biểu, có người thái độ phát biểu còn rất kịch liệt, nhưng trong mọi biên bản ghi chép các cuộc họp, đều không tìm thấy ghi chép về phát biểu của Đường Tuấn. Cũng có thể nói là, bất luận năm đó tranh luận gay gắt đến thế nào, trước sau Đường Tuấn đều giữ thái độ trầm mặc im lặng.

Nếu như nói rằng từ những biên bản ghi chép cuộc họp này có thể nhận thấy rõ ràng hai luồng ý kiến trong nội bộ tổ chức Người gác đêm năm đó, vậy thì Đường Tuấn chính là dạng thứ ba - không có ý kiến, hoặc là có ý kiến nhưng chỉ để ở trong lòng.

Tiêu Vọng nhanh chóng lướt qua một loạt nội dung chủ yếu của các biên bàn ghi chép cuộc họp, nói: “Kỳ thực, ở thời kỳ đó khi mà còn tồn tại nhiều ý kiến bất đồng mâu thuẫn về tinh thần pháp trị, để có thể duy trì ‘quyền lực hạn chế’ thực sự cũng không dễ dàng gì. Ngay cả hiện giờ, trên hệ thống mạng internet, vẫn còn có rất nhiều người trong lòng chắc chắn về ‘quy kết có tội’, sau khi đánh giá chủ quan bằng nhận định ban đầu một kết luận nào đó mà bản thân tự cho rằng là chính xác, thì sẽ đưa ra những ‘nghi ngờ’ cùa mỗi người, tiếp đó trăm phương ngàn kế tìm kiếm những manh mối ‘thả mồi bắt bóng’ để mà tự chứng minh cho kết luận đó. Điều này cũng giống như là ‘phải xử tử’ năm đó, một khi đã tự mình nhận định, thì sẽ hy vọng có thể đại diện cho ‘công lý’ để phán xử ‘tội ác’.”

“Ở thời đại đó, những người có quan điểm ‘suy đoán vô tội’ một cách thực sự, quả thực không dễ dàng.” Lăng Mạc nói, “Không biết rằng những tranh luận này có phải là có chút tác dụng thúc đẩy đối với dự án sửa đổi “Luật tố tụng hình sự” năm 1996 công nhận nguyên tắc ‘suy đoán vô tội’ hay không.”

“Mọi người đều công nhận nguyên tắc ‘suy đoán vô tội’, song đối với khái niệm ‘đoán tội’ cụ thể thì còn chưa được rõ ràng lắm.” Tiêu Vọng nói.

Đối với vụ án Đỗ Xá giết người, điểm tranh cãi chủ yếu là ở tờ giấy giám định bệnh tâm thần. “Phải quản thúc” do một số người chủ trương trong đó đứng đầu là Tiêu Vấn Thiên và Chu Lực Sơn thì cho rằng nếu như đã có kết luận rõ ràng được đưa ra bởi cơ quan giám định bệnh tâm thần có đủ tư cách thẩm quyền, như vậy thì có thể được coi là một chứng cứ quan trọng có ảnh hưởng đến việc phán quyết, đây là một biểu hiện của việc đảm bảo nhân quyền. Còn những người khác có ý kiến “xử tử” thì cho rằng, Đổng Lạc đã tiến hành lượng lớn điều tra, nhất là mảnh giấy nhắn cuối cùng ngầm định có thể phản ánh ra việc Đỗ Xá vốn không hề có trở ngại về mặt tinh thần. Nếu như đã “suy đoán vô tội”, vậy thì việc “đoán bệnh” cũng nên coi là “không bệnh”. Có căn cứ chứng minh bệnh tâm thần của Đô Xá có thể là ngụy tạo ra, vậy thì không nên nhận định là hắn ta có bệnh tâm thần, mà phải trực tiếp đưa ra phán xử. “Phải quản thúc” cho rằng, tinh thần chủ chốt của “suy đoán vô tội” có mục đích là đảm bảo nhân quyền, vậy thì trừ phi có chứng cứ rõ ràng đích xác chứng minh bệnh tâm thần đó là ngụy tạo, còn không thì “đoán bệnh” cần phải được xử lý theo như “có bệnh”. “Phải xử tử” cho rằng, nếu như xử lý như vậy, thì không còn là nguyên tắc “suy đoán vô tội” nữa rồi, mà là nguyên tắc “bảo vệ phần tử phạm tội”. “Phải quản thúc” cho rằng, quyền lực công buộc phải sử dụng thân trọng, đối với kẻ tình nghi phạm tội còn tồn tại những điểm nghi vấn, quyền con người đương nhiên cần được bảo vệ. Bảo vệ quyền con người của kẻ tình nghi phạm tội, là một biểu hiện của xã hội pháp trị tiến bộ.

Mỗi người một ý, vấn đề tranh cãi nhanh chóng lại chuyển từ vụ án Đỗ Xá giết người sang vụ án Đổng Lạc giết người.

“Phải xử tử” cho rằng, nếu đã chủ trương “suy đoán vô tội”, vậy thì chứng cứ trong vụ án Đổng Lạc giết người cũng chỉ là “suy đoán”. Chứng cứ của cả vụ án chỉ có dấu DNA trên đoạn dây điện bị phá hoại. Vậy thì, giả thiết rằng Đổng Lạc chỉ là một người hay hóng chuyện vào xem thôi, rồi không cẩn thận bị sợi dây điện đứt làm bị thương ngón tay, thì có phải là cũng có thể chứng minh cậu ta vô tội rồi không? “Phải quản thúc” cho rằng, vấn đề “suy đoán” trong “suy đoán vô tội” là chỉ sự nghi ngờ hợp lý, chứ không phải là ngụy biện. Đổng Lạc có động cơ giết người, rồi xuất hiện trong thời gian đã định trên một chuyến bay đã định, có camera giám sát cho thấy cậu ta đem theo linh kiện thiết bị, hơn thế chỉ có ý chủ động phá hoại dây điện thì mới tiếp xúc đến đoạn dây điện ở vị trí khuất nẻo. Quan trọng hơn thế là, có lời khai của chính bản thân Đổng Lạc, không những vậy, cậu ta còn giải thích một cách hợp lý cả quá trình gây án mà ngay cả phía cảnh sát còn không thể ngờ tới. Điều đó đã cấu thành nên chuỗi mắt xích chứng cứ hoàn chỉnh, những lời nói lúc trước đều là ngụy biện, không thể được coi là nghi ngờ hợp lý, cho nên không thể coi là “suy đoán” tội được.

“Suy đoán” là đứng từ lập trường góc độ thường quy, công bằng, nếu như trước đó đã bị ảnh hưởng bởi yếu tố tình cảm rồi, thì không còn gọi là “suy đoán vô tội” theo tinh thần pháp trị được nữa.

Đối với vụ án giết người của mẹ ruột Đỗ Xá là Diệp Phượng Viên năm đó, nội bộ tổ chức cũng có tranh cãi.

“Phải xử tử” cho rằng, dưới mắt nhìn của thời đại hiện nay, những chi tiết trong vụ án Diệp Phượng Viên giết người năm đó, cũng có nhiều điều không vững vàng, năm đó đều đã xử tử phần tử phạm tội rồi, vậy tại sao bây giờ lại không thể? Còn “phải quản thúc” cho rằng, vụ án đó xảy ra vào năm 1983, biện pháp kỹ thuật của mười năm trước, mức độ có thể đạt đến cũng chính là tiêu chuẩn của thời đó rồi. Cho nên, dưới mắt nhìn ở thời điểm đó, mắt xích chứng cứ cũng được coi là hoàn thiện, nên là không có vấn đề gì cả. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, yêu cầu đối với cảnh sát cũng ngày càng cao, ngày càng trông đợi xã hội pháp trị có thể tiến lên một nấc thang mới.

Tranh cãi xảy ra rất nhiều lần, song không ai có thể thuyết phục được ai.

Đương nhiên những biên bản ghi chép cuộc họp này cũng không hoàn toàn là sự đối lập ‘giao chiến’ của hai luồng ý kiến, còn có một số ghi chép những cuộc họp điều tra nội bộ.

Theo yêu cầu của Bộ Công an, trước khi Đổng Lạc bị tuyên án tử hình, chức trách quyền hạn của tổ chức Người gác đêm cũng đã bị đình chỉ. Bởi vì theo lời khai nhận của Đổng Lạc, cậu ta không chỉ lấy trộm chứng nhận căn cước điện tử của Bác Nguyên Mạn và sử dụng để đột nhập hệ thống nội bộ của tổ chức, rồi tự tạo cho mình một thân phận giả, không những thế còn biết rõ cả thời gian, số hiệu chuyến bay, nơi bị chuyển đến của nhiệm vụ áp giải Đỗ Xá lần này, thậm chí biết cả vị trí chỗ ngồi sơ bộ của bọn họ trên máy bay.

Vấn đề này là rất nghiêm trọng, bởi vì những tin tức này được chuyển từ trên Bộ xuống dưới dạng tài liệu cơ mật, mà với tư cách là thực tập sinh trong nội bộ tổ chức như Đổng Lạc, thì hoàn toàn không thể tiếp xúc được với tài liệu này.

Một tổ chức bí mật mà ngay cả tin tức nội bộ của nó cũng không thể đảm bảo bí mật được, vậy thì còn cần cái tổ chức bí mật này làm gì nữa? Sự việc này có liên quan rất rộng lớn, cho nên Bộ Công an quyết định, yêu cầu tổ chức Người gác đêm dừng hoạt động để tiến hành kiểm tra.

Vẻn vẹn một vài văn bản, cũng không thể biết rõ được năm đó tổ chức Người gác đêm đã phải trải qua bao nhiêu lần kiểm tra và điều tra nội bộ, nhưng vẫn không có một kết quả điều tra rõ ràng nào.

Kết hợp với lần nói chuyện giữa Bác Nguyên Mạn, Tiêu Vấn Thiên và Đường Tuấn năm ngoái, Tiêu Vọng và Tiêu Lãng sơ bộ biết được nguồn cơn của những mong muốn trong lòng các vị trưởng bối, đó chính là một dạng cảm giác chí hướng chưa được trọn vẹn, chưa được hoàn thành. Hai bọn họ bất giác cũng cảm nhận được áp lực trên đôi vai của bản thân tăng thêm.

Dễ nhận thấy rằng, bắt đầu từ năm đó khi tổ chức Người gác đêm bị dừng hoạt động, tuy là không có mệnh lệnh bãi bỏ tố chức này, song cũng mãi không hề có mệnh lệnh khôi phục lại quyền hạn và chức trách hoạt động, cho đến tận khi diễn ra diễn tập ở sa bàn lớn cách đây không lâu. Và trong khoảng thời gian hai mươi mấy năm trời chậm rãi trôi qua, những thành viên cũ của Người gác đêm hầu hết đều đã rời bỏ tổ chức.

Nhất là sau khi dự án sửa đổi “Luật tố tụng hình sự” năm 1996 được ban bố thi hành, những thành viên giữ quan điểm của “phải xử tử” lại càng lũ lượt từ chức, có người thì bỏ việc làm kinh doanh, có người thì tự tìm công việc khác.

Đường Tuấn cũng đã từ chức trong giai đoạn đó, rồi ứng cử vào trường đại học đảm nhiệm công việc của một phó giáo sư tâm lý học. Còn một số thành viên khác của tổ chức Người gác đêm, không muốn rời khỏi hàng ngũ cảnh sát, cũng không thể cứ mãi ngồi không rảnh rỗi trong cái tổ chức chỉ còn tồn tại cái tên mà không hề còn hoạt động gì này, cho nên đã thông qua trình tự các bước trong tổ chức, rời khỏi cương vị công tác hiện thời, xin được điều động đến các vị trí khác ở các cơ quan công an, tiếp tục thực thi công việc “chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng”. Tiêu Vấn Thiên chính là trường hợp như vậy, tuy là năm đó sau khi bị khiển trách cảnh cáo nghiêm trọng của cấp trên do những sai lầm trong lần áp giải, ông đã rời khỏi tổ chức Người gác đêm, đến Sở Công an thành phố Nam An làm một cảnh sát hình sự, trải qua hơn hai mươi năm lăn lộn phấn đấu, phá được vô số vụ án, lập được hàng loạt chiến công, cuối cùng cũng trở thành giám đốc Sở Công an thành phố Nam An.

Bất luận là tìm kiếm con đường tiến thân ra sao, trong khoảng thời gian tháng 3 năm 1996, tổ chức Người gác đêm ở vào trạng thái hoàn toàn giải tán. Còn tổ trưởng của Người gác đêm Bác Nguyên Mạn khi ấy 52 tuổi, sau khi bị xử lý kỷ luật ghi lỗi, xử lý giáng chức giáng cấp, thì cũng làm thủ tục xin nghỉ do bệnh tật, trở thành tư lệnh duy nhất còn cố thủ lại của một tổ chức trống không.

Những tài liệu này, đưa mọi người trở lại với thời đại đó khi mà nền pháp trị còn chưa được kiện toàn, để mọi người tự đặt mình vào trong hoàn cảnh môi trường đó, cảm nhận được những tàn dư của quá trình tranh cãi về tinh thần pháp trị năm đó, cũng là để mọi người thêm nhớ về nguyên nhân lịch sử của việc tổ chức Người gác đêm suy thoái. Giờ đây những người trẻ tuổi bọn họ cần phải lấy lại vinh quang cho tổ chức, nhưng lại không biết bản thân mình có thể theo được dấu chân của những bậc tiền bối đi trước để mà tiếp tục tiến bước hay không.

“Tôi luôn cảm thấy, điều tra của Đổng Lạc năm đó là có cơ sở khoa học.” Lăng Mạc nói, “Nhìn từ góc độ lý luận tâm lý học hiện nay, thực sự chỉ có thể chứng minh Đỗ Xá có nhân cách khuyết thiếu rõ rệt, tâm lý rất là có vấn đề. Nhưng cũng giống như lúc trước tôi đã nói, tinh thần của hắn ta vốn chẳng có vấn đề gì cả.”

“Bất kể ý kiến của cậu là chính xác hay không, chúng ta vẫn cần phải suy xét đến thời hạn pháp luật.” Tiêu Vọng nói.

“Ý tôi muốn nói là, liệu có thể thông qua tra hỏi Đỗ Xá để có được dù chỉ là chút ít thông tin thôi hay không? Như vậy cũng còn tốt hơn nhiều so với việc không biết bắt đầu từ đâu.” Lăng Mạc nói.

“Đúng, đúng, đúng, hỏi một chút cũng tốt hơn là không hỏi.” Tiêu Lãng lúc này đã quên mất việc vừa lúc trước cũng từng phản đối kiến nghị này của Lăng Mạc.

“Hỏi một bệnh nhân tâm thần về câu chuyện mấy chục năm về trước? Tôi e sợ là sẽ gây lạc hướng điều tra.” Tiêu Vọng chần chừ đáp lại.

“Tôi vừa mới nói rồi, hắn ta rất có khả năng là bình thường về mặt tinh thần.” Lăng Mạc phản bác lại.

“Xem những ghi chép kia, thì là không có bệnh.” Tiêu Lãng nói.

“Còn cả cái gọi là ‘tính vị lợi xã hội’ mà chúng ta vẫn luôn nhấn mạnh trước đó nữa.” Lăng Mạc nói, “Nếu như là người không tự chủ về mặt ý thức, rất khó để thực hiện được những hành vi hành động có tính vị lợi xã hội rõ rệt. Anh có còn nhớ câu chuyện tổ trưởng đã kể cho chúng ta không? Năm đó ở bên trong hang núi đó, có sợi dây thừng. Anh nói xem, giết người thì giết người thôi, tại sao phải đem theo dây thừng chứ?”

Tiêu Vọng xoa cằm nói, “Đã có cơ quan giám định bệnh tâm thần chuyên nghiệp, thì nên lấy văn bản pháp luật làm căn cứ chính, hợp lý hay không hợp lý không phải là việc chúng ta cần bàn tới.”

“Nếu như không có sự giám sát lẫn nhau, kết nối các khâu với nhau, chỉ cứ việc mình mình làm, vậy còn gọi là công lý thực chất nữa không?” Tiêu Lãng cướp lời nói, “Bất luận là văn bản giám định chuyên nghiệp đến thế nào đi nữa, thì cũng cần phải được cơ quan xử lý vụ án công nhận, mới có hiệu lực pháp luật được.”

“Nhưng mà pháp luật đã công nhận rồi.” Tiêu Vọng nói, “Căn cứ phán quyết của quan tòa chính là tờ giấy giám định này.”

Tiêu Vọng tiếp tục nói: “Chúng ta thay vì nghi ngờ kết quả giám định bệnh tâm thần, chi bằng hãy tiếp tục kiên trì theo đuổi các manh mối hiện giờ của chúng ta.”

“Điều này thì cũng phải.” Tiêu Lãng nói.

“Tôi vẫn muốn thử một cơ hội đi hỏi Đỗ Xá.” Lăng Mạc một lần nữa quay đầu sang nói với Tiêu Vọng.

Tiêu Vọng nghĩ ngợi chốc lát, rồi nói: “Lăng Mạc, vấn đề cốt yếu khiến Người gác đêm năm đó phân rã, đó chính là vấn đề công lý thực chất và công lý trình tự. Đỗ Xá có nên tiến hành giám định bệnh tâm thần để từ đó có được kim bài miễn tội chết hay không, năm đó cũng đã có tranh luận. Người gác đêm hiện giờ đương nhiên đã hiểu được rằng công lý trình tự cũng quan trọng tương tự, giám định bệnh tâm thần là quyền lợi của đương sự, đương nhiên cần được đảm bảo.”

“Đúng, điều này tôi không phủ nhận!” Lăng Mạc phản bác, “Nhưng còn sau khi giám định bệnh tâm thần thì sao chứ, lẽ ra cần phải khảo chứng nhiều lần tính hợp lý của kết quả giám định đó, chứ không nên giống như là anh nói, rằng bởi vì người khác chuyên nghiệp hơn mình rồi, nên mình dễ dàng tin tưởng vào đội ngũ chuyên nghiệp đó. Khảo chứng nhiều lần mới là công lý thực chất.”

“Thế nhưng, là những người ngoài ngành, chúng ta lại đi ‘khảo chứng’ ý kiến giám định của người trong ngành, điều này dường như là không thỏa đáng.” Tiêu Vọng nói, “Tôn trọng sự chuyên nghiệp, đó mới là công lý thực chất.”

“Nói một cách chính xác, tôi và thầy Đường đều không tính là người ngoài ngành.” Lăng Mạc nói, “Thử xem sao, cũng sẽ không có tổn thất gì to lớn cả.”

“Ý của anh mình là e ngại cậu làm chệch hướng điều tra!” Tiêu Lãng nói.

“Không hẳn hoàn toàn là như vậy. Điều tra không sợ chệch hướng, mà chỉ sợ không có gì để tra xét thôi.” Tiêu Vọng nói, “Quan điểm của Lăng Mạc và Tiêu Lãng đều rất tốt. Dù sao thì, sử dụng đồng thời nhiều cách thức, mới có thể thu được những manh mối hữu dụng.”

“Vậy…” Lăng Mạc nhìn Tiêu Vọng chờ đợi.

“Các cậu đang nói về cái gì thế?” Giọng nói của Nhiếp Chi Hiên vọng vào bên trong phòng họp.

Mọi người ngoái đầu lại nhìn, Nhiếp Chi Hiên đẩy cửa bước vào, nói: “Việc khám nghiệm tử thi của tên “Tai sứt” đã hoàn thành.”

“Có manh mối gì không?” Tiêu Vọng hỏi.

Nhiếp Chi Hiên thất vọng lắc đầu, nói: “Không giống như “Kị sĩ u linh” và Sơn Tiêu trước kia, tên “Tai sứt” bị tóm một cách đột ngột, hơn nữa hắn còn bị trực tiếp bắn chết, không có bất cứ thời cơ nào để tiêu hủy manh mối, cho nên tôi đã có nhiều hy vọng rằng sẽ tìm được manh mối từ thi thể của hắn. Nhưng mà, thật đáng tiếc, trên người tên “Tai sứt”này, cậu muốn nói đến manh mối hả, cũng không có bao nhiêu manh mối có giá trị cả. Cơ mà nói một chút manh mối cũng không có ấy, thì cũng không được khách quan.”

Nghe Nhiếp Chi Hiên nói xong, biểu cảm của mọi người đều có chút thâm trầm thêm, song vẫn tràn đầy hy vọng. Bọn họ không mong muốn những manh mối bản thân có thể nắm giữ được, giờ lại mất đi một hướng.

“Tên “Tai sứt” là bị Tiêu Lãng bắn chết.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Mấy phát đạn bắn xuyên vào vùng ngực của hắn ta, tim, phổi, gan và lá lách đều bị vỡ nát. Có thể nói là không còn năng lực hành vi nào sau tổn thương chí mạng đó, mà là trực tiếp tử vong luôn. Nguyên nhân cái chết là đa cơ quan bị vỡ nát, mất máu mà chết.”

“Đúng rồi, lúc em bắn chết hắn, đồng bọn của hắn hình như gào lên cái gì mà Maxwell?” Tiêu Lãng nhớ lại cảnh tượng lúc mình bắn chết tên “Tai sứt”.

“Đúng, Maxwell, ông tổ của ngành điện tử học.” Tiêu Vọng nói, “Tôi phân tích là, Maxwell chính là biệt hiệu của hắn, hắn rất có thể chính là chuyên gia về máy móc thiết bị và thông tin trong tổ chức Người gác đêm đen tối.”

““Kị sĩ u linh” có chứng động kinh, Sơn Tiêu có chứng xơ vữa động mạch cảnh, vậy tên “Tai Sứt” liệu là cũng có chứng bệnh gì không?” Lăng Mạc dường như nhớ ra điều gì đó, bèn hỏi.

“Ồ, cậu nói như vậy, qua thật đã nhắc nhở tôi đấy.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Sau khi giải phẫu tử thi xong, ngoại trừ cái tai sứt, các bộ phận khác không có gì khác biệt so với người bình thường. Nhưng đại não của hắn quả thật là có vấn đề.”

“Vấn đề gì thế?” Tiêu Vọng hỏi.

“Người này ấy, các nếp gấp của đại não rất nông.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Đương nhiên, tôi cảm thấy cũng có thể là chỉ trong phạm vi mức độ bình thường thôi, chỉ là theo kinh nghiệm của tôi thì thấy, ngoại hình của đại não như là có chút dị thường.”

“Đường nếp gấp não nông?” Tiêu Lãng hỏi, “Vậy thì chứng tỏ được điều gì? Có thể chứng tỏ rằng trí thông minh của hắn ta hơn người hay không?”

“Điều này, y học hiện đại còn chưa có định luận.” Nhiếp Chi Hiên cười mỉm, “Song không thể loại trừ suy luận của cậu.”

“Còn có cả cách để nâng cao trí thông minh của con người sao?” Tiêu Lãng lẩm bẩm.

Nhiếp Chi Hiên nói tiếp: “Sau đó, tôi đã lưu ý đến điều đó, và đã tiến hành thực nghiệm cấp nước vào động mạch nền đại não của hắn, thực nghiệm phát hiện thấy, trên động mạch nền của người này, có đến mấy khối u động mạch.”

“U động mạch?” Tiêu Lãng hỏi lại.

“Đúng rồi, với một số người, có dị dạng động mạch não bẩm sinh, thành mạch máu có khiếm khuyết, cho nên trong quá trình trao đổi máu qua lại, thành mạch máu dần dần trở nên mỏng đi, nhô ra, hình thành dạng khối u nhô lên. Khu vực thành động mạch nhô ra này vô cùng mỏng, rất dễ bị vỡ. Một khi bị vỡ, thì sẽ gây ra tình trạng xuất huyết dưới màng nhện diện rộng, rất khó mà cứu sống được.”

“Cũng có nghĩa là, dù cho tôi không bắn chết hắn, hắn cũng không còn sống được bao lâu nữa?” Tiêu Lãng hỏi.

Nhiếp Chi Hiên gật gật đầu.

“Xem ra, những người này cùng lúc với việc có được năng lực biến đổi, thì cũng bị mắc phải những chứng bệnh chí mạng.” Lăng Mạc nói, “Quả thực, thế giới tự nhiên vốn là nên đạt đến sự cân bằng, một khi sự cân bằng này bị phá vỡ, hiển nhiên là phải trả giá tương xứng.”

“Ờ, kết quả DNA cũng có rồi đây.” Nhiếp Chi Hiên khua khua chiếc điện thoại di động trong tay, nói, “Bởi vì chúng ta có đối tượng xác định cụ thể để tiến hành đối chiếu, cho nên kết quả cũng có được một cách nhanh chóng. Tên “Tai sứt” này sinh vào tháng 9 năm 1996 tại thành phố Giang Nam, ngày 30 tháng 7 năm 1998 bị bắt cóc tại thành phố Giang Nam, bố mẹ là quân nhân. Khi đó quân khu Nam An đã rất coi trọng sự việc này, đã bỏ ra rất nhiều sức lực phối hợp tìm kiếm với phía cảnh sát, nhưng không có kết quả gì. Đáng chú ý là, DNA của “Tai sứt” với DNA trên miếng kẹo cao su chúng ta lấy được tại hiện trường vụ án thầy Đường gặp nạn trước đây được nhận định là đồng nhất!”

“Quả nhiên là cùng một người.” Lăng Mạc thốt lên.

“Cho nên, thầy Đường rất có khả năng là bị tên “Tai sứt” sát hại,” Nhiếp Chi Hiên nói, “Hơn thế tôi còn phát hiện ra một manh mối nữa, đó là sự việc này là ngoài dự tính.”

Nói xong, Nhiếp Chi Hiên lấy từ trong túi xách ra một chiếc túi đựng vật chứng trong suốt, bên trong túi đựng vật chứng, có một chiếc vòng đeo tay đã bị đốt cháy đen.

2

“Vòng đeo tay thông minh!” Tiêu Lãng nói.

“Vòng đeo tay thông minh?” Lăng Mạc nói.

Hai người gần như lên tiếng cùng một lúc, nhưng một người là câu cảm thán, một người là câu nghi vấn.

“Đây là chiếc ‘vòng đeo tay’ mà tên “Tai sứt” đeo ở cổ chân.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Giấu bên trong ống quần, cho nên trước đó mọi người đều không chú ý đến. Tại sao lại đeo vòng đeo tay ở cổ chân chứ, tôi phân tích là khi “Tai sứt” thực hiện các thao tác trên máy móc thiết bị, cần phải có đủ sự linh hoạt, sợ là vòng đeo tay làm ảnh hướng đến động tác của mình.”

Nhiếp Chi Hiên tiếp tục nói: “Chiếc vòng đeo tay này, nhìn từ hình dạng bên ngoài, thực sự không có gì khác biệt với những vòng đeo tay phổ thông. Chúng ta đều biết rằng, có một số vòng đeo tay đồng thời cũng là tai nghe Bluetooth, có thể làm đồng hồ đeo tay, máy đếm bước chân, tháo thân vòng ra khỏi dây đeo vòng, thì có thể liên kết với điện thoại di động làm tai nghe Bluetooth của điện thoại di động. Chiếc vòng đeo tay này cũng có nguyên lý như vậy.”

“Cho nên, nó không chỉ là một chiếc vòng đeo tay, mà còn là một thiết bị thông tin?” Tiêu Vọng hỏi.

Nhiếp Chi Hiên gật đầu nói: “Vòng đeo tay thông thường, nhiều nhất thì chỉ là một tai nghe Bluetooth, tự bản thân nó không có chức năng thông tin. Nhưng, thiết bị này của tên “Tai sứt”, chúng tôi phân tích rằng, nó có khả năng thông tin liên lạc độc lập.”

“Chúng tôi phân tích? Cái gì mà gọi là chúng tôi phân tích?” Tiêu Lãng không hiểu hỏi.

“Cái này, chúng tôi không ngờ được rằng, chiếc vòng đeo tay nhỏ bé như thế này, lại có công năng tự hủy.” Nhiếp Chi Hiên khẽ nhún vai, nói, “Đầu tiên chúng tôi đã sử dụng thiết bị X-quang nhìn xuyên vào trong, cấu tạo bên trong của nó tuy là rất nhỏ bé chi tiết, song vô cùng phức tạp, cho dù là chuyên gia thông tin của cảnh sát khu vực sở tại, cũng không nhìn rõ được bố trí kết cấu ở bên trong. Cho nên, chúng tôi đã quyết định mở vỏ bên ngoài của chiếc vòng đeo tay, trực tiếp quan sát bên trong. Không ngờ là, bên trong của nó lại đã lắp đặt hệ thống tự hủy, một khi mở nắp sau ra, một phần ở bên trong sẽ trực tiếp bị đốt cháy.”

“Vậy các anh đã căn cứ vào điều gì để phán đoán nó là một công cụ thông tin liên lạc chứ?” Tiêu Vọng cầm túi đựng vật chứng lên, xem xét xung quanh.

“Có thiết bị thu nhận tín hiệu âm thanh rồi chuyển hóa nó thành tín hiệu điện, chính là microphone, đồng thời cũng có cả thiết bị kích âm phóng to âm thanh để truyền âm thanh ra ngoài.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Cho nên là đừng thấy nó nhỏ, nhưng mà đây chính là một tổ hợp linh kiện bên trong của một chiếc điện thoại nhỏ đấy.”

“Anh nói như vậy, khiến tôi nhớ đến một đồ vật.” Tiêu Vọng nói, “Trước kia ông ngoại thích ra ngoài đi dạo một mình, xem người ta đánh cờ gì đó, đến mức mà cứ xem thì sẽ quên cả về nhà. Bà ngoại thì cứ luôn lo sợ ông ngoại mắc phải chứng bệnh đãng trí tuổi già, đi lạc mất, mới nói phải mua thiết bị định vị gì đó cho ông. Có một lần, tôi đã đi đến trung tâm thông tin di động để xem, thật sự là có món đồ tương tự như là chiếc vòng đeo tay này, gọi là ‘máy định vị GPS’, còn có cái gọi là ‘thiết bị thần kỳ phòng chống đi lạc cho người già đãng trí’. Đại khái to như một chiếc USB, nhét một cái thẻ sim vào, là có thể thực hiện cuộc gọi rồi. Hơn nữa, nếu như tải cả app trên điện thoại di động xuống, còn có thể trực tiếp định vị vị trí cụ thể hiện tại của đồ vật này. Cũng có thể nói là, về mặt khoa học kỹ thuật, việc thực hiện chức năng này là không hề khó.”

“Đồng hồ đeo tay an toàn của trẻ con chẳng phải cũng là như vậy mà.” Trình Tử Mặc nói.

“Đúng vậy, đã có những sản phẩm thành hình như vậy rồi.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Nhưng món đồ này quả thật là có chút không giống, bởi vì bên trong đó không hề có thẻ Sim.”

“Vậy nó thực hiện liên lạc thông qua cái gì? Nếu như là công năng của máy bộ đàm, vậy thì phạm vi liên lạc sẽ bị hạn chế đúng không? Hơn nữa tính bảo mật cũng sẽ rất kém.” Trình Tử Mặc nói.

“Đây chính là điểm cao minh của bọn chúng.” Nhiếp Chi Hiên mỉm cười rồi nói, “Chúng tôi đã tìm không ít các chuyên gia thông tin để phân tích chiếc vòng đeo tay công năng đã tự hủy này. Họ đều thống nhất cho rằng, thiết bị bên trong này là được kết nối thông qua vệ tinh.”

“Sao? Vệ tinh cũng có thể tùy tiện cho bọn chúng kết nối ư?” Tiêu Lãng hỏi.

“Ở đây bao gồm một hàm lượng kỹ thuật thông tin khá là cao thâm rồi.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Tóm lại, thiết bị này có thể kết nối vệ tinh, rồi lấy cắp tín hiệu vệ tinh, và thực hiện liên lạc. Hơn nữa, đây có lẽ là ‘hệ thống mạng liên lạc nội bộ’ mà bọn chúng tự xây dựng lên, có tính bảo mật và khả năng thông tin rất cao.”

“Xem ra gã này được gọi là Maxwell cũng không khoa trương một chút nào cả.” Tiêu Lãng cảm thán nói.

“Còn nhớ công cụ mà “Kị sĩ u linh” và Sơn Tiêu hai người này sử dụng hay không?” Nhiếp Chi Hiên nói, “Nokia? Không, đó chỉ là chiếc vỏ bên ngoài của một chiếc Nokia mà thôi, cốt lõi bên trong của nó, chính là một chiếc điện thoại vệ tinh được tăng cường bảo mật và có thể thực hiện liên lạc trên hệ thống mạng liên lạc nội bộ!”

“Ý của anh là, bất luận là Nokia, hay là vòng đeo tay, công năng của bọn chúng là như nhau.” Tiêu Vọng nói, “Chỉ là căn cứ theo sở thích của mỗi người, mà lựa chọn những cái vỏ bên ngoài mà thôi.”

Nhiếp Chi Hiên gật gật đầu.

“Em nhớ là ở trong siêu thị, trước khi Sơn Tiêu bị bắt, đã phá hủy chiếc điện thoại di động Nokia.” Tiêu Lãng nói, “Rõ ràng bọn chúng rất quan tâm đến phương tiện thông tin liên lạc này. Thậm chí có thể nói, có lẽ có một kỷ luật rất nghiêm minh, vào lúc bất khả kháng thì phải hủy bỏ nó.”

“Sau khi “Kị sĩ u linh” bị bắt, chúng ta cũng mãi mà không tìm hiểu được chiếc Nokia của hắn mất đi đâu, xem ra là đã bị Sơn Tiêu xử lý mất rồi.” Trình Tử Mặc nói.

“Đương nhiên rồi, nếu như chức năng liên lạc này rơi vào tay chúng ta, chúng ta sẽ có thể dễ dàng biết được từng câu chữ mà bọn chúng đã nói thông qua mạng liên lạc nội bộ này, như vậy thì Người gác đêm đen tối ở trước mặt chúng ta không còn bất cứ bí mật nào nữa.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Cho nên, trước khi bị bắt phải phá hủy phương tiện thông tin liên lạc là điều bắt buộc.”

“Nhưng mà, anh vừa nói là tự hủy!” Tiêu Lãng nói.

Nhiếp Chi Hiên gật đầu nói, “Đúng thế. Tôi chắc chắn là tự hủy. Lúc mà chuyên gia thông tin mở vỏ sau của nó ra, tôi có mặt ở đấy, chính mắt tôi nhìn thấy lửa bùng lên một cái, tiếp sau đó thì ngửi thấy một mùi cháy khét lẹt.”

“Nhưng mà, nếu như nó có công năng tự hủy, thì tại sao “Kị sĩ u linh” và Sơn Tiêu lại phải chủ động phá hủy nó?” Tiêu Vọng hỏi.

“Vấn đề này, tôi cũng giống như mọi người, đều là lần đầu tiên biết đến.” Nhiếp Chi Hiên nói, “Sau khi tôi biết được nó có công năng tự hủy, thì cũng đặt câu hỏi ra với những chuyên gia thông tin. Các chuyên gia đã nghiên cứu về công năng tự hủy, và cho rằng bổ sung thêm một công năng này không hề khó, chỉ cần lắp đặt một thiết bị nhỏ để sau khi mở nắp sau ra thì sẽ dẫn đến đoản mạch là được.”

“Ý của anh là, công năng tự hủy này là được thêm vào về sau này?” Tiêu Vọng hỏi.

Nhiếp Chi Hiên gật đầu xác nhận.

Tiêu Vọng nghĩ ngợi rồi nói: “Bởi vì Sơn Tiêu bị bắt, bọn chúng đã ý thức được sự nguy hiểm của mình. Thêm nữa, hôm qua bọn chúng phải thực hiện một nhiệm vụ còn nguy hiểm hơn, có người sẽ bị bắt hoặc là có người sẽ bị bắn chết tại hiện trường đều là chuyện có thể xảy ra. Tôi suy đoán là, để tiếp tục duy trì khả năng liên lạc nội bộ trong tổ chức của bọn chúng, giờ thì phương tiện thông tin liên lạc của mỗi người trong bọn chúng đều đã lắp đặt thêm công năng tự hủy, để phòng bất trắc rồi. Điều không ngờ được là, công năng tự hủy này của bọn chúng, quả thật là vừa hay ‘có đất dụng võ’ rồi.”

“Là như vậy đấy.” Nhiếp Chi Hiên gật đầu đồng ý với suy đoán của Tiêu Vọng.

Đúng lúc đó, chuông điện thoại di động của Tiêu Vọng vang lên, là điện thoại gọi đến của Sở Công an thành phố. Anh định thần chăm chú nghe xong cú điện thoại, sắc mặt có chút trịnh trọng nói với mọi người:

“Sở Công an thành phố đã kiểm tra xong chiếc vòng đeo tay của thầy Đường rồi, đúng thật là đã bị động tay động chân vào. Bên trên mạch chính có mấy lỗ vít rất nhỏ, còn có cả một mảng trống. Sở Công an thành phố cho rằng mảng trống đó vốn là có một mô-đun (module), và đã bị người ta tháo đi mất.”

Tiêu Vọng trình chiếu những bức ảnh mà Sở Công an thành phố gửi đến lên trên màn hình lớn của phòng họp, bầu không khí tại chỗ bất giác trở nên yên tĩnh.

Cho dù là bên trong chiếc vòng đeo tay của Đường Tuấn có một mảng trống không, nhưng sau khi đối chiếu so sánh thì đã phát hiện ra, nó có chỗ đồng nhất với chiếc vòng đeo tay của tên “Tai sứt”.

“Hai chiếc vòng đeo tay này, cách cải tạo lại ở bên trong rất giống nhau!” Tiêu Lãng buột miệng nói.

“Vậy thì sao?” Lăng Mạc nhìn sang Tiêu Lãng.

Tiêu Lãng đứng dậy, xắn tay áo lên đến khuỷu tay, mạnh dạn nói liền một hơi: “Em nói thế này mọi người đừng có không vui nhé. Việc đến ngày hôm nay, chúng ta không thể không đặt ra vấn đề là rất có khả năng thầy Đường là một thành viên của Gác đen. Đương nhiên, em cũng có lý do đầy đủ để suy luận như vậy…”

Còn không đợi mọi người kịp phản ứng lại, cậu bèn tiếp tục nói:

“Thứ nhất là, hôm thầy Đường bị hại, là chính bản thân thầy tự đi ra ngoài vào lúc giữa đêm khuya để gặp người của Gác đen, chứng tỏ, thầy Đường có đường dây liên hệ với bọn chúng; Thứ hai là, chiếc vòng đeo tay trên tay thầy Đường cùng kiểu với của “Tai sứt”, song bên trong chiếc vòng đeo tay của thầy Đường bị thiếu một bộ phận, như vậy rất có khả năng chính là Gác đen lo sợ bị lộ về chiếc vòng đeo tay, nên đã lấy đi bộ phận thông tin có liên quan ở bên trong, sở dĩ không áp dụng phương thức tự hủy giống như chiếc vòng của “Tai sứt”, là bởi vì lúc đó còn chưa kịp lắp đặt thêm chương trình tự hủy như vậy; Thứ ba là, trước đó khi mọi người phân tích về động cơ đã từng nói rằng, thủ lĩnh của Gác đen rất có khả năng chính là kẻ muốn báo thù cho bố con nhà họ Đổng, vậy thì người nào có thể giúp bọn chúng báo thù? Người vợ vốn đã sứt mẻ tình cảm của thầy Đổng ư? Người con gái mấy chục năm trước đã ra nước ngoài ư? Hay là một cô Bảy dì Tám nào đó? Đã giúp thầy Đổng báo thù, lại còn đặt tên cho nhóm tội phạm là “Người gác đêm “, vậy không phải là người trong nội bộ tổ chức Người gác đêm, thì còn có thể là ai đây? Người trong tổ chức Người gác đêm chúng ta, gồm cả học viên và giáo viên hướng dẫn, ngoại trừ thầy Đường ra, những người khác đều không có vòng đeo tay, không có Nokia phải không nhỉ?”

“Về điểm thứ nhất mà cậu nói, trước mắt tôi tạm thời bảo lưu ý kiến. Bởi vì hiện giờ chúng ta chỉ biết có hai sự việc đó là thầy Đường giữa đêm khuya đi ra ngoài và cuối cùng thầy đã bị bọn Gác đen giết hại, nhưng điều này không nhất định có nghĩa là thầy ra khỏi nhà để đi gặp người của Gác đen, hoặc là nói, ông ấy không nhất định là biết rằng người mà bản thân ông đi gặp lại chính là người của Gác đen.” Mặc dù Tiêu Lãng nói một hơi một tràng dài, những người có mặt ở đó đều không kịp ghi chép lại, nhưng Lăng Mạc vẫn rất bình tĩnh bắt đầu đáp trả lại từng điều một, “Thế còn về điểm thứ hai mà cậu nói, thoạt nhìn thì quả là như vậy, nhưng trong báo cáo phân tích vật chứng trước đó của anh Nhiếp đã nhắc đến, trên chiếc vòng đeo tay của thầy không có bất cứ một dấu vân tay nào, điều đó chứng tỏ, chiếc vòng đeo tay đã bị lau sạch một cách có chủ ý, hơn nữa ở hiện trường nơi thầy bị hại ngoài chiếc vòng đeo tay có vấn đề này ra, còn có một bộ phận của thiết bị cảm biến gia tốc ba chiều của một chiếc vòng đeo tay khác nữa, tại sao ở hiện trường lại có một bộ phận như vậy chứ? Điều đó phải chăng là có thể suy đoán rằng, hiện trường còn từng tồn tại một chiếc vòng đeo tay khác, không những thế chiếc vòng đeo tay đó đã bị vỡ hỏng, có thể suy nghĩ đến việc thầy bị đè đến mức tổn thương mà chết, chiếc vòng đeo tay bị hỏng đó rất có thể chính là chiếc vòng đeo tay mà bản thân thầy đang đeo, còn chiếc vòng đeo tay hoàn chỉnh không hề bị hỏng hóc lại được lau sạch sẽ kia mới là cái sau đó bị thay thế vào.”

“Vòng đeo tay vòng đeo tay vòng đeo tay, tôi nghe mãi sao mà ong hết cả đầu rồi.” Tiêu Lãng có cảm giác như đầu to ra một chút, “Cho nên ý cậu là muốn nói vòng đeo tay của thầy Đường đã bị người ta tráo đổi rồi?”

“Khả năng như vậy là rất lớn.” Lăng Mạc nói, “Thế còn điều thứ ba mà cậu nói thì càng dễ phản bác lại, cậu làm sao biết được phương tiện thông tin liên lạc của Người gác đêm đen tối chỉ có hai loại hình là vòng đeo tay và Nokia chứ?”

“Được rồi, điều này quả thực là còn cần phải đợi xác nhận lại.” Tiêu Lãng nói, “Nhưng trước kia khi vây bắt “Kị sĩ u linh”, chúng ta đã từng nói là có nội gián đúng không nào? Lúc đó chúng ta còn nói, thời kỳ sau này tín hiệu di động hay mạng internet của nội bộ tổ chức Người gác đêm đều đã bị chặn sóng, vậy mà tin tức vẫn bị truyền ra ngoài. Bây giờ thì rõ rồi chứ, đều là tín hiệu vệ tinh nhé! Chặn không nổi nhé! Cậu nói xem, ngoại trừ thầy Đường Tuấn, còn có ai nắm rõ mọi tin tức về việc vây bắt? Hơn nữa còn đều là tin tức của nhóm chúng ta? Đó là bởi vì, bởi vì nhóm chúng ta có Đang Đang!”

“Nếu như thông tin bị tiết lộ là tin tức của nhóm chúng ta, vậy cậu nên nói nhóm chúng ta có tôi nữa.” Lăng Mạc nói.

“Nhưng mà tình hình thực thế là, mỗi một lần vây bắt, thầy Đường Tuấn đều là người biết rõ tình hình!” Tiêu Lãng nói, “Chỉ có lần đầu tiên, có sự nhầm lẫn cho rằng sẽ đi tóm Tào Cương ở cái học viện gì đó, rồi chúng ta lại đột nhiên phát hiện được địa điểm cụ thể, nên tin tức về việc vây bắt mới có thay đổi. Nhưng mà, lần đó cũng là Đang Đang đã điện thoại cho bố cô ấy để tư vấn tình hình trước khi tiến hành sự việc! Lần đó các giáo viên hướng dẫn khác đều không biết phải không? Nhưng rồi “Kị sĩ u linh” vẫn đã ra tay hành động ngay trước chúng ta!”

“Theo như cậu nói, các giáo viên hướng dẫn khác đều không biết, nhưng tất cả mọi người trong nhóm các cậu đều biết, vậy có phải tất cả mọi người trong nhóm các cậu đều bị nghi ngờ cả?” Lăng Mạc nói.

“Được rồi, vậy chúng ta tiếp tục nhìn lại từ lịch sử của tổ chức Người gác đêm.” Tiêu Lãng nói, “Vừa rồi tôi đã chú ý thấy rằng, trong bao nhiêu là ghi chép cuộc họp như vậy, vậy mà thầy Đường Tuấn đều không phát biểu một lời nào? Có thực là ông ấy không có ý kiến gì về sự việc này không?”

“Chúng ta đều đã được nghe qua câu chuyện, ngày hôm thầy Đổng bị hại, đã gọi vào máy nhắn tin cho thầy Đường, nhưng thầy đã không thể nhận được tin nhắn kịp thời. Bắt đầu từ đó, thầy có sự áy náy trong lòng, hơn nữa thầy còn luôn lo lắng đến tình trạng của Đổng Lạc, và tìm cách để hướng đạo về mặt tâm lý cho cậu ấy, đưa cậu ấy về bên cạnh mình, ở vào tình cảnh tranh cãi một cách dường như vô ý nghĩa về quan niệm pháp trị, thì đương nhiên là thầy ấy sẽ chẳng nói được gì cả!”

“Cậu xem cậu kìa, đều là cậu nói rồi nhé, thầy ấy có áy náy trong lòng!” Tiêu Lãng nói, “Cậu học về tâm lý học, cậu nói thử xem, sự áy náy liệu có khả năng chuyển biến thành sự thù hận hay không? Thầy ấy đưa Đổng Lạc về là để hướng đạo về mặt tâm lý, hay là nhằm để tạo cơ hội cho cậu ta biết được những thông tin cơ mật? Điều này có thể nhận thấy được từ những tài liệu này hay không?”

“Sự áy náy có khả năng chuyển biến thành sự thù hận, nhưng thầy Đường thì sẽ không như vậy, tôi hiểu rõ về thầy ấy.” Lăng Mạc nói một cách chắc chắn.

“Này này này, lúc trước chẳng phải còn nói tinh thần pháp trị chính là không chủ quan đánh giá coi yếu tố đầu tiên là đúng, không đánh giá người khác theo quan điểm của mình!” Tiêu Lãng có phần nóng vội.

Lăng Mạc không nói lời nào nữa.

“Cậu vừa mới nói thầy Đường Tuấn đã truyền thụ cho cậu một quan niệm pháp trị đúng đắn, được, điều đó không vấn đề.” Tiêu Lãng lại tiếp tục trình chiếu trên màn hình lớn một trang tài liệu khác trong đó, rồi nói tiếp, “Cậu có biết không, có bao nhiêu giáo viên dạy chính trị, đều là những đối tượng bất mãn về hiện trạng xã hội? Rất nhiều người nói một đằng, trong lòng lại nghĩ một nẻo đúng không hả? Mọi người nhìn lại xem thời gian thầy Đường Tuấn rời khỏi tổ chức Người gác đêm là năm 1996! Vào năm đó, dự án chính thức sửa đổi “Luật tố tụng hình sự” được công bố, quan điểm của ‘phải quản thúc’ trở thành chính đạo, còn ‘phải xử tử’ đã bị luật pháp chứng minh là sai lầm! Còn nữa, từ những tư liệu hiện có thì thấy rằng, các vụ án bắt cóc trẻ sơ sinh được bắt đầu từ năm 1996!”

“Không phải là đã bắt đầu từ năm 1995 hay sao?” Lăng Mạc ngắt lời cậu.

“Về sau này theo dõi tìm hiểu, thì đứa bé thất lạc năm 1995 sau đó đã được tìm thấy, và không có liên quan gì đến vụ án này.” Tiêu Vọng bổ sung vào một câu.

“Nhưng Sơn Tiêu không phải là bị bắt cóc vào năm 1995 sao?” Lăng Mạc truy hỏi tiếp.

“Thông qua tra cứu thực tế, tin tức phản ánh lúc đó có sự nhầm lẫn, thực tế là Sơn Tiêu bị bắt cóc vào ngày 23 tháng 7 năm 1996.” Tiêu Vọng tiếp tục bổ sung.

Tiêu Lãng như là được sự khẳng định thêm, không đừng được vênh hết mặt lên.

“Năm đó có rất nhiều người đều bỏ việc, bố cậu cũng rời bỏ công việc vào năm đó đấy thôi. Điều đó không thể chứng tỏ cái gì cả.” Lăng Mạc phản bác lại.

“Nhiều sự việc như thế đem sắp xếp lại từ đầu đến cuối, logic cũng trở nên rõ ràng.” Tiêu Lãng nói, “Do tình bạn sâu sắc với thầy Đổng cùng như sự áy náy to lớn khôn nguôi trong lòng đối với bố con nhà họ Đổng, thầy Đường Tuấn đã thay đổi chí hướng rồi, bề ngoài ông ấy là giáo sư ở trong trường đại học, kỳ thực bên trong ông ấy đã bí mật thành lập tổ chức Người gác đêm của chính bản thân ông, bề ngoài ông ấy lợi dụng đám người như “Kị sĩ u linh” để hành thiện diệt ác, thay trời hành đạo, làm những công việc của phải xử tử, trên thực tế thì ông đã lợi dụng những đứa trẻ vô tội này để trả thù riêng! Ông ấy lợi dụng chiếc vòng đeo tay đánh cắp tín hiệu vệ tinh để chỉ huy Người gác đêm đen tối thực hiện các vụ án, cung cấp tin tức và thông tin tình báo cho bọn chúng.”

Tiêu Lãng nói liền một hơi xong, hội trường bất giác trầm lắng.

“Nói một câu chân thực, Tiêu Lãng nói như vậy tuy rằng khiến mọi người khó chấp nhận, nhưng phân tích không phải là không có lý.” Nhiếp Chi Hiên nói.

Lăng Mạc lúc này ngẩng đầu lên nhìn Nhiếp Chi Hiên nói: “Anh Nhiếp, logic của anh xem ra thì có vẻ rất hợp lý, kỳ thực từng mắt xích quan trọng đều là suy đoán một cách chủ quan, đó không phải là tinh thần pháp trị! Anh Nhiếp, em vốn luôn tin tưởng anh, nhưng mà nếu như căn cứ theo phương pháp logic của Tiêu Lãng, em cũng có thể nghi ngờ anh. Thời điểm “Kị sĩ u linh” bị giết hại, chỉ có mình anh thay mặt cho tổ chức Người gác đêm canh giữ ở đó; Lúc A Bố bị bắt đi, cũng chỉ có mình anh đang trông ở đó. Vậy thì, phải chăng là anh cũng nên bị nghi ngờ?”

“Tôi…” Nhiếp Chi Hiên bất giác á khẩu.

“Nhưng em không nghi ngờ anh.” Lăng Mạc nói, “Bởi vì Sơn Tiêu là do anh phát hiện ra manh mối dấu vết nên sau đó mới tóm được cô ta. Đây chính là nguyên tắc loại trừ của chứng cứ, chỉ cần có một mắt xích chứng cứ chứng minh ngược lại, thì chúng ta không thể nghi ngờ cái kết quả đó. Như vậy mới thực sự là không chủ quan đánh giá coi yếu tố đầu tiên là đúng, không đánh giá người khác theo quan điểm của mình.”

“Đúng vậy.” Tiêu Vọng nói.

“Cho nên, tôi không nghi ngờ thầy.” Lăng Mạc nói, “Tôi không nghi ngờ thầy, là bởi vì có hai vấn đề còn chưa giải thích thông suốt được: Một là, nếu như thầy đã lập ra Người gác đêm đen tối, vậy tại sao ông ấy lại bị Người gác đêm đen tối sát hại? Khi thầy ấy thẩm vấn ra được một kết luận, nếu như thầy ấy là người nắm rõ sự tình, thì lẽ ra phải rất điềm tĩnh, nhưng sao lại phải vội vàng bỏ đi đâu? Hai là, nếu như thầy là người của Người gác đêm đen tối, tại sao không đưa tôi vào đào tạo trực tiếp ở Người gác đêm đen tối, mà lại vẫn cứ để tôi sống bên ngoài dưới ánh sáng mặt trời chứ? Cuối cùng còn để tôi gia nhập vào tổ chức Người gác đêm nữa? Chẳng lẽ mọi người cũng nghi ngờ tôi là thành viên của Người gác đêm đen tối, là tay trong được cử đến đây?”

“Lăng Mạc không có vấn đề gì đâu, “Kị sĩ u linh” là do em và Lăng Mạc cùng nhau tóm được, nếu như cậu ấy là người của bên kia, chắc chắn “Kị sĩ u linh” đã thoát thân được rồi.” Tiêu Vọng nói với Tiêu Lãng, “Hơn nữa Lăng Mạc đã được thầy Đường dạy dỗ mười mấy năm rồi, vào thời điểm đó cũng không ai biết được tổ chức Người gác đêm sẽ được gây dựng lại.”

“Cho nên, đây chính là chứng minh ngược lại.” Lăng Mạc nói.

“Vậy thì bao nhiêu điểm nghi vấn mà em nói đến đó phải giải thích thế nào đây?” Tiêu Lãng hỏi.

“Điều này tạm thời tôi cũng không biết được đáp án, nhưng tôi tin là chân tướng sự việc nhất định sẽ xuất hiện.” Lăng Mạc nói, “Rất có thể thầy quả thật là có việc gì đó giấu giếm chúng ta, nhưng chắc chắn ông ấy không phải là nội gián, lại càng không phải là thủ lĩnh của tổ chức Người gác đêm đen tối. Bởi vì sau khi thầy chết, Người gác đêm đen tối vẫn có thể tiếp tục tổ chức thực hiện được những hành động vô cùng hoàn hảo. Bất luận nói thế nào, tôi cảm thấy là nếu như tôi có thể nói chuyện được với Đỗ Xá, nói không chừng có thể hỏi ra được chút gì đó từ miệng gã bệnh nhân tâm thần này.”

“Việc này trình tự không khó, tôi sẽ đề nghị lên bộ phận tư pháp để xin phép.” Tiêu Vọng nói, “Khó là khó ở chỗ, người này rất ít khi mở miệng, với người xa lạ như cậu, liệu có mở miệng ra nói không đây?”

3

“Chuyện mà anh Vọng nói, kỳ thực em cũng không chắc chắn.”

Lăng Mạc cúi thấp đầu, bước song hành cùng với Nhiếp Chi Hiên trên lối đi của nhà tù Kim Ninh, xuyên qua từng lớp cửa song sắt.

“Quả thực rất khó.” Nhiếp Chi Hiên chỉnh đốn lại cổ áo khoác blouse trắng của mình, nói, “Có điều, cậu bảo tôi mạo nhận là bác sĩ đến khám bệnh cho hắn ta, là có ý định gì?”

“Anh chỉ cần nói mấy từ ngữ chuyên môn để thể hiện rằng anh đã biết bệnh tình của hắn ta đã ổn là được rồi.” Lăng Mạc nói.

“Lừa gạt nhau?”

“Đúng, chiến lược lần này của chúng ta chính là chém gió lừa gạt.” Lăng Mạc cười nhẹ, “Đỗ Xá từ nhỏ biểu hiện thông minh, nhưng do bố mẹ mất sớm từ khi còn bé, nên lang thang bỏ học, phải sống nương tựa vào người khác, cho nên có nền tảng môi trường sống để hình thành nhân cách phạm tội. Lúc ở viện phúc lợi, thường xuyên bắt nạt người khác, sau khi trưởng thành còn có hành vi bạo hành trẻ em. Đối xử với ân nhân của mình là thầy Đổng, hắn ta cũng dùng thủ đoạn vô cùng tàn nhẫn để sát hại ông ấy. Điều đó cho thấy, Đỗ Xá có nhân cách phạm tội rất rõ rệt. Người có nhân cách phạm tội, về mặt tình cảm thường lãnh đạm, ích kỷ, hung bạo, tàn nhẫn, lạnh lùng. Cho nên, muốn dùng biện pháp gì tình cảm để hắn ta động lòng, hay dùng đạo lý để cho hắn ta hiểu đều là không thể đột phá vào tuyến phòng vệ tâm lý của hắn ta được. Biện pháp duy nhất, chính là dụ lừa hắn.”

“Cho nên, cậu mới không đi thăm hỏi tại phòng thẩm vấn.” Nhiếp Chi Hiên nói.

“Em vốn không phải là thẩm vấn hắn ta.” Lăng Mạc nói, “Loại người này, anh càng ép hắn, hắn càng không mở miệng. Cho nên, ở nơi thân thuộc với hắn, mới là nơi có khả năng khiến hắn ta mở miệng nhất.”

“Song tôi vẫn không hiểu cậu muốn biết được điều gì từ miệng Đỗ Xá.”

Lăng Mạc nhíu mày, nói: “Em cũng không biết có thể moi được điều gì từ miệng hắn, em chỉ đơn thuần hy vọng rằng, một là có thể có được những manh mối phá án, hai là có thể làm được điều gì đó cho thầy. Cho dù có thế nào, anh chỉ cần cứ ngồi một bên xem điện thoại di động là được rồi, làm ra vẻ không quan tâm gì đến câu chuyện của bọn em.”

Trong lúc nói chuyện, người quản giáo đã dẫn hai người bước qua cánh cửa song sắt cuối cùng của khu nhà giam, rồi đi qua một hành lang nữa, là đến phòng giam số 129. Trước đó quản giáo đã sắp xếp cho phạm nhân cùng phòng rời đi nơi khác, lúc này trong phòng giam chỉ có một mình Đỗ Xá đang ngồi trên giường, hắn đang im lặng cúi đầu, xoa xoa vết sẹo trên mu bàn tay trái.

Theo như phương án đã định, Nhiếp Chi Hiên với áo khoác blouse trắng đang mặc trên người bước vào phòng giam trước, rồi làm bộ ra vẻ “kiểm tra” cho Đỗ Xá một lượt, nói một đống những danh từ chuyên môn y học mà ngay cả Lăng Mạc nghe cùng không hiểu gì, cuối cùng anh kết luận một câu: “Ừm, hồi phục rất tốt, không cần phải cưỡng chế điều trị thêm nữa đâu.” Sau đó, một mình tự ra ngồi xuống chỗ góc phòng giam, bắt đầu loay hoay nghịch ngợm chiếc điện thoại của mình.

Lăng Mạc nhìn thấy Đỗ Xá đúng thật là mặt nghệt ra không hiểu chuyện gì cả, bèn cũng bước vào trong phòng giam, ngồi xuống bên cạnh Đỗ Xá, chẳng nói chẳng rằng, cũng bắt đầu nghịch điện thoại di động.

Ba người lớn sờ sờ ngồi trong chiếc lồng sắt, không nói một lời, hai người thì cúi đầu chơi điện thoại di động, điều đó khiến Đỗ Xá rất bất an. Nhưng, vốn đã chịu ảnh hưởng từ năm này qua tháng nọ, nên dù là có bất an thêm nữa, hắn ta cũng giữ im lặng không nói, không ngừng xoa miết vào vết sẹo trên mu bàn tay, càng xoa càng thấy sốt ruột.

Cứ lặng im như vậy đến hơn nửa tiếng đồng hồ, Lăng Mạc khẽ liếc mắt nhìn thấy Đỗ Xá đã sốt ruột bất an lắm rồi, không thể tự kiểm soát bản thân mình được nữa, nhận thấy thời cơ đã đến. Cậu mới than thở một câu, nói: “Dào ôi, con người bây giờ ý, thật là không hiểu nổi.”

Câu nói này của cậu ngược lại nói trúng tim đen Đỗ Xá, hiện giờ Đỗ Xá mới thực sự là người đang muốn kêu lên câu ấy, hai người này chẳng hiểu ra làm sao cả, ai mà có thể hiểu được hai người bọn họ đang muốn làm gì chứ?

“Suốt ngày bị nhốt trong lồng sắt, ngay đến chiếc điện thoại di động cũng không có mà chơi, chẳng biết gì hay ho cả.” Lăng Mạc đưa di động sang cho Đỗ Xá, nói, “Này, cho anh chơi một lúc.”

Đỗ Xá không có bất cứ phản ứng nào, chỉ lặng lặng xoa mu bàn tay.

“Ồ, quên mất, anh không biết dùng.” Lăng Mạc lấy lại điện thoại di động, nói, “Anh không phải là người ở thời đại chúng tôi, anh là người từ những năm 90 của thế kỷ 20 rồi, e là ngay cả thiết bị nh?