← Quay lại trang sách

Chương 8 TÀI SẢN CỦA KATIA

Vriens không chờ được hỏi đã ngồi phịch xuống mép giường vì chiếc vali mở ra đã chiếm mất giường.

- Ông vui lòng nói cho chúng tôi biết số tiền này ở đâu ra? - Thuyền trưởng nói với giọng hầu như trìu mến mà ông cũng không biết.

Đôi vai của người trẻ tuổi cử động dồn dập. Anh ta nhìn chòng chọc chiếc thảm bằng đôi mắt vô hồn.

- Tôi không ăn cắp.

- Có nghĩa là có kẻ nào đó yêu cầu ông cất giấu tiền ở chỗ ông chứ gì?

- Tôi cũng không biết tiền ở đó. Sáng nay, vào bảy giờ, tiền không có ở đấy...

Anh ta nói giọng rầu rĩ, không cố thuyết phục những người đối thoại. Và từ đây người ta không rút được ở anh ta lời nói nào khác, nếu không phải là:

- Tôi không lấy cắp. Tôi không biết gì hết...

Jennings và thuyền trưởng vừa ra khỏi thì họ nghe thấy đằng sau cánh cửa những tiếng nức nở xé lòng, những tiếng gào thật sự tuyệt vọng và thanh tra bối rối, xúc động, nhìn Petersen.

- Ông nghĩ rằng...

- Tôi không nghĩ gì hết! - Bạn ông trả lời với vẻ sốt ruột bất ngờ.

- Còn thiếu mười nghìn koruny.

- Và hai nghìn mark của Schuttringer, vâng!

Thuyền trưởng rảo bước. Tiếng cồng còn vang lên trong hành lang và Bell Evjen vừa vào phòng ăn. Schuttringer đến, là người đầu tiên nhận ra bó tiền trong tay Petersen.

- Tiền của tôi! - Ông ta nói trong lúc bước vội vài bước.

- Tôi không có số tiền ấy. Cho đến nay, chúng tôi chỉ mới tìm thấy bốn mươi nghìn koruny thuộc về ông Evjen.

- Bốn mươi ư? - Ông này nhắc lại trong lúc đếm tiền một cách thích thú.

- Tôi mong rằng thanh tra Jennings sẽ tìm ra được số còn lại.

- Ai có thể có ý nghĩ rằng...

- Xin ông vui lòng đừng đòi hỏi tôi nhiều hơn về việc này chứ?

- Xin lỗi! - Schuttringer nói xen vào với vẻ bướng bỉnh - Tên kẻ cắp của ông chắc chắn cũng là của tôi. Do đó, tôi có quyền biết.

- Hãy phục vụ đi, anh phục vụ! Cô Storm không ra khỏi buồng chứ?

- Tôi không trông thấy cô ta.

- Cô ấy không ấn chuông gọi à?

- Không, thưa thuyền trưởng.

- Ông vui lòng cất số tiền này vào hòm của ông cho tới khi kết thúc chuyến vượt biển, được chứ?

Bell Evjen hỏi, bối rối về bó tiền dầy cộp.

Người Đức đeo kính lẩm bẩm:

- Lẽ ra tôi phải lấy ngay chừng ấy. Sẽ vui ở Kirkenes nếu...

Petersen không nghe tiếp. Ông vừa vào buồng mình vặn khoá một két sắt xách tay thì hai hồi còi vang lên. Ông cầm lấy chiếc áo da dê cái nói với người phục vụ khi đi qua:

- Lát nữa anh cho tôi ăn trưa nhé.

Đây là Svolvaer với ba hoặc bốn nghìn thuyền đánh cá bằng gỗ lãnh sam màu sáng từ mọi nơi ở Na Uy đã kéo đến đây đông nghịt vào mỗi tháng hai để tham gia vào mùa đánh bắt cá thu. Một đám hỗn độn những cột buồm. Mùi nhựa nồng nặc.

Trong thành phố thường ngày chỉ cỡ hai nghìn dân, lúc này lúc nhúc những xe quệt, người mặc áo da lông hoặc áo da. Những đống cá thu đã ướp muối sắp sụp đổ, được xúc bằng xẻng.

Một chiếc tàu thủy nhỏ chạy hơi nước sơn đen ở giữa bến cảng bị một đoàn thuyền náo nhiệt vây quanh. Người ta mua cá ở đây, như vậy không cần lên bờ và ngay buổi tối đi luôn đến Aalesund.

Petersen phải bắt tay, nghe những câu chuyện và những con số, trong khi thanh tra cảnh sát đứng gác vẻ thật kín đáo ở đầu cầu tàu.

Ba chiếc thuyền mất tích hôm trước, bị cuốn đi về phía dòng xoáy của cơn lốc. Nhưng với chỉ dưới một tháng, người ta đã đánh bắt được bốn mươi lăm triệu con cá thu.

Ông nghe, giải trí, ông nhìn lướt khung cảnh và những bộ mặt quen thuộc. Những ngôi nhà bằng gỗ, phần lớn sơn màu nhạt, những phố dốc, luôn luôn phủ đầy tuyết và những đứa trẻ trượt ván lao đi, len lỏi giữa những chiếc xe quệt, những hòm, thùng.

Vài con tàu chạy hơi nước trọng tải năm mươi đến một trăm tấn neo đậu cùng cảng với con tàu Polarlys và ghi trên tấm bảng đá đen tên những hòn đảo mà chúng bảo đảm vận chuyển tới. Khắp nơi, những lời nói chuyển tới Petersen, ông cố giữ trên môi nụ cười nhợt nhạt.

Ông trông thấy Evjen và người Đức ngồi đối diện trong phòng ăn. Một người Lapon mặc quần áo sọc, đội mũ có bốn chỏm nhọn, đứng ở góc cảng xây trên bộ cọc sàn và hầu như mắt nhìn thu hút cảnh tượng luôn thay đổi, trong khi xa xa, qua eo biển, người ta đoán ra những quả núi trắng xoá mà eo biển đổ xuống từ đó.

Thật đủ màu sắc, nhộn nhịp, không bị kích thích. Thật vui, tuy nhiên, với bản chất nghiêm trang của người Bắc Âu, theo thói quen, đã làm cho tâm hồn thuyền trưởng thích thú. Trong lúc ông thử hoà hợp với khung cảnh, thì đột nhiên ông mất vui bởi vì ông nhớ tới Katia, xâm xấp mồ hôi vì hơi nóng của chiếc giường, đứng trong căn buồng lộn xộn của cô ta với không khí thật nặng mùi.

Một chiếc thuyền lướt bên sườn con tàu Polarlys, trong đó hai người đàn ông với những hành động chính xác, chất đầy cá thu tới tận đầu gối họ, chặt đầu những con cá, bóc mang rồi ném vào chậu gỗ, lóc thịt cá theo chiều dọc và để rơi hai miếng philê cá đều nhau, trong khi vây và ruột được ném qua mạn thuyền.

Petersen nhìn theo họ mà không thấy gì hơn cảnh nền, trái lại gợi cho ông những chi tiết nhỏ nhặt của bóng dáng người phụ nữ trẻ.

“Không có tiền trong buồng cô ta!” - Ông nhớ lại mọi hành động của Jennings. Ông như lại thấy đồ quần áo trong của nữ mịn mỏng và giữa những thứ khác là những chiếc sơmi lụa đen làm ông ngạc nhiên. Nhưng không có tiền! Không có ví! Ông thử tái hiện cảnh lục soát đầu tiên trong làn sương mù ở Stavanger và trí nhớ của ông không giữ lại một dấu vết nào về những tờ bạc ngân hàng nhìn thấy.

Thanh tra đứng tựa vào đầu cầu tàu mà những người bốc dỡ hàng đi qua theo hàng dọc.

Petersen trông thấy Krull ở xa hơn, luôn không cạo râu và mái tóc hung rối bù phủ lên bộ mặt. Hầu như thuyền trưởng có cảm giác người thủy thủ tiếp than quan sát mình nên ngoảnh mặt đi.

- Hãy gióng hồi chuông chứ nhất - Ông ra lệnh cho viên sĩ quan thứ hai mười phút trước giờ ấn định.

- Ông nói đi, thuyền trưởng! Có đúng như người ta kể không?... Vriens ư?

- Tôi không biết gì hết.

- Ông ấy sẽ trực à?

- Nếu ông ấy không trực, ông sẽ trực thay ông ấy.

Những đám mây bụi nắng mặt trời trôi qua một lúc, bầu trời soi sáng một nhóm buồm, một mũi tàu láng bóng, một gác chuông nhỏ mái đá đen nhưng lập tức bị màu xám và tuyết thay thế.

Một người Lapon, sau khi do dự, trèo lên tàu và mua vé hạng ba đi Hammerfest. Nhưng người này từ chối xuống ở các buồng mà ngồi trên chiếc tời đứng; ba giờ sau Petersen gặp lại người này vẫn ở chỗ cũ.

- Hồi còi thứ hai!

Những chiếc Palan được rút vào, những tấm biển được kéo lên, những khoang hầm bắt đầu trống rỗng. Mặc dầu mùi cá nồng nặc tràn ngập bến cảng và trong thành phố, thuyền trưởng vẫn giữ trên lưỡi cái vị của căn buồng của Katia.

- Vriens ở trên kia à?

Bởi vì đến phiên trực của viên sĩ quan thứ ba. Ngẩng đầu lên, người ta có thể trông thấy anh ta lạ lùng, vô tình, cứng đơ như một vị thần da đen trong một góc cầu tàu. Mọi vật hẳn quay cuồng trước mắt anh ta, những thứ tiếng hoà trộn thành một hợp âm chói tai. Tuy nhiên, khi người hoa tiêu vẫy anh ta, anh ta lại gần ống khói, ba lần giật cần kéo còi làm rúc lên hồi còi xé không khí.

Nước sôi sục ở đằng sau. Những chiếc thuyền chạy trốn như những con cừu hoảng loạn. Một đám mây chim mòng biển vây quanh mũi tàu:

- Ông ăn trưa chứ, thuyền trưởng?

Đó là người phục vụ với mái tóc hoe vàng, bộ mặt sáng lên vì nụ cười dè dặt luôn nở trên môi và chiếc áo vest trắng.

- Chưa...

Petersen gắn bó với quang cảnh ở bến cảng. Họ qua trước một xí nghiệp mười năm trước còn sản xuất thịt cá voi nhưng nay chỉ sản xuất dầu gan cá thu.

Rồi đột nhiên, tàu đổi hướng, chỉ còn biển với một màu xanh nhợt, những núi tuyết tràn trề ánh mặt trời.

Cần phải nhanh chóng đạt được tốc độ nhanh nhất bởi vì ánh sáng vàng óng đang giảm đi và một tấm màn xám tro trải dài trên mặt nước như một bức rèm.

Ba phút sau, những trái núi chỉ là những núi băng trong suốt.

Petersen đi qua trước viên cảnh sát mà không nói gì với anh ta và vì Evjen sau bữa ăn trưa kề cà trong hành lang, ông vờ có việc làm trong buồng mình.

Lối đi lập tức không có ai nên ông đi ra khỏi buồng, dừng lại một giây trước cửa buồng Katia Storm và sau cái bật các ngón tay bực dọc, ông mở cửa và không gõ. Không có gì thay đổi trong buồng từ cuộc khám soát buổi sáng. Không khí vẫn dịu và sực nức mùi nước hoa. Một tấm khăn trải giường rủ xuống đất và một đầu mẩu thuốc lá đã in dấu ở đó một vòng tròn nhỏ màu nâu.

Ông không nói một lời, không một cử động. Cô gái Đức mặc quần áo ngủ, chân trần, tóc xổ ra, ngồi trên giường tựa lưng vào tường và nhìn người không mời mà đến bằng cặp mắt hoà với phấn đánh lông mày cho những ánh phản chiếu rối loạn hơn bao giờ hết.

Thuyền trưởng khép cửa lại, phải bước qua chiếc vali suýt làm nó đổ.

- Tôi đến hỏi cô một câu - Ông nói.

Cô ta hờ hững nghe ông nói. Sự hăng say ban sáng của cô đã tan biến. Cô ta không còn khí lực, không trang điểm với một nét nản lòng ở khoé môi.

Ông muốn nói dịu dàng. Ông còn muốn làm cho cô hiểu rằng cuộc thăm này không có mặt thanh tra cảnh sát, không có tính cách tấn công. Trong ông diễn ra hiện tượng trái ngược với ban nãy. Trong buồng, đó là sự qua lại của tư thế bám riết vào võng mạc của ông và người phụ nữ trẻ nổi lên như hình in chồng.

- Cô hãy vui lòng nói cho tôi biết cô có bao nhiêu tiền đem theo mình khi rời Hambourg?

Cô cười, nụ cười vừa chua chát vừa mỉa mai. Nhưng sự mỉa mai không phải dành cho người đối thoại với mình, mà chính là cho riêng cô, hoặc cho số phận

- Số tiền ấy - ông vội nói thêm - Cô hẳn còn vì cô không thể tiêu gì ở trên tàu, việc trả tiền sẽ được tính toán vào cuối chuyến vượt biển.

- Thế thì, số tiền tôi phải trả sẽ không được thanh toán.

Không thay đổi vị trí cô bằng lòng giơ một cánh tay. Chiếc túi xách bằng da cá sấu của cô có dấu của một cửa hàng bán đồ da nổi tiếng ở Luân Đôn để ở trong lưới để đồ ở trên đầu cô.

Cô ta một tay nắm và chiếc túi rơi xuống

- Ông cầm lấy. Ông đếm đi. Trước hết cho tôi xin những bao thuốc lá của tôi.

Vì ông không cầm lấy túi. Cô liền mở ra đẩy nó về phía ông làm phụt ra ngọn lửa từ chiếc bật lửa bằng vàng chạm trổ.

- Đó là tất cả những gì mà tôi có. Ông không dám ư?

Cô ta khép hờ đôi mắt vì khói thuốc làm mờ mắt cô. Cô ta lấy ở túi ra chiếc khăn tay giống hệt chiếc khăn tay đã tìm thấy trong vali của Vriens, rồi một hộp kim loại gia công đựng son phấn và thuốc đen bôi mắt. Cuối cùng cô rải lên giường một nhúm giấy bạc.

- Ông đếm đi. Đây là mười mark... năm mươi francs Bỉ. Mười francs Pháp gồm bốn tờ bạc lẻ. A! Một đồng hai florins rưỡi…

Cô ta ném xuống đất chiếc túi rỗng, tựa vào tường ngồi vững chãi hơn, nhắc lại:

- Chỉ có thế thôi...

Có lẽ còn có chút hung hăng trong giọng nói của cô ta. Nhưng là sự hung hăng nghèn nghẹn. Cả bộ mặt cô có tính người hơn thường lệ, gần gũi những bộ mặt mà Petersen quen biết.

Một hôm, một cô láng giềng mười sáu tuổi mà ông chơi với cô trong núi bị bong gân một chân khi vấp phải một gốc lãnh sam. Cô làm duyên. Một lúc trước đó, cô còn giễu ông. Cô không muốn khóc mà cười. Nhưng cô lộ bộ mặt bối rối khốn khổ, với nước da không đều, đỏ từng mảng trong đó đôi môi không biết gọi là nếp gì.

Vào lúc này, Katia hơi giống cô gái Na Uy và về phía cô, hẳn cô cảm thấy người đánh bạn với cô nhìn cô một cách mới lạ, bởi vì bằng một cử chỉ bất ngờ, lén lút, cô kéo áo ngực lên cổ.

- Thế đấy! Tôi còn không thể trả tiền sâm banh mà tôi đã mời các ông uống. Đúng là tôi chỉ có đủ tiền mua vé. Sáu trăm mark, tôi nghĩ... Và số tiền tôi còn lại, tôi đã tiêu trong đêm cuối cùng ở Hambourg.

- Với Vriens, tại Kristall?

Ông đã rất muốn ngồi, nhưng ông không thể ngồi ở mép ghế nằm, có nghĩa là rất gần cô. Vì vậy ông phải đứng dạng hai chân, do đồ đạc để đầy dưới đất.

- Cô tính làm gì ở Kirkenes?

Cô không nói gì, cái nhìn hầu như có vẻ đáng thương hại trong lúc nhún vai.

- Hãy để tôi! Vì cái gì tất cả thứ đó thúc đẩy chúng ta? Ông vui lòng đưa túi xách của tôi cho tôi chứ?

Cô lấy ở đó ra chiếc gương nhỏ và soi với vẻ mỉa mai. Những ngón tay cô cầm lấy thỏi son môi rồi buông rơi.

- Cô có bố mẹ chứ?

- Cần gì, phải không? Đến Kirkenes, ông chỉ việc trao tôi vào tay cảnh sát vì đã không trả tiền sâm banh và rượu vang mà tôi uống trong những bữa ăn. Người phục vụ sẽ không nhận được tiền trà thuốc đâu.

Cô kêu lên, vẻ cuồng loạn làm cho Petersen chắc chắn không cảm nhận được ấn tượng thất vọng của cô đến thế, một sự suy sút tinh thần không thể cứu vãn.

Ông hỏi cho có chuyện:

- Cô đã ăn trưa rồi chứ?

- Không...

Những móng chân cô chạm nhẹ vào thuyền trưởng cũng hồng và bóng như móng tay.

- Cô có biết người ta đã tìm lại được một phần tiền bị mất cắp trong buồng viên sĩ quan thứ ba không?

- Vriens ư?

Rốt cuộc cô giật mình. Cô ném điếu thuốc lá mà không lo ngại nó rơi vào đâu.

- Ông nói gì? Không thể thế được! Ông tìm để biết và...

- Bốn mươi nghìn koruny được lấy trong vali của ông ta.

- Nhưng không thể thế được! Vậy ông hiểu việc đó là không thể có chứ?

Cô nhổm dậy nhưng vì không thể đứng trong căn buồng quá hẹp, lúc này cô quỳ lên ghế nằm.

- Hãy nghe tôi, thuyền trưởng! Tôi cam đoan với ông rằng...

Nhưng cô buông thõng hai tay xuống. Cô nín lặng, vẻ mệt mỏi. Vì cô cúi đầu, Petersen nhận thấy ở chân tóc một cái mụn nhỏ làm căng da.

- Ông đi đi. Ông cũng không tin tôi. Nhưng tất cả chuyện đó cần được kiểm tra...

- Cô ở Paris, phố Delambre phải không?

Cô không run như ông chờ đợi. Một lần nữa, cô nhún vai và nhắc lại:

- Ông đi đi...

Rồi đột nhiên hỏi:

- Vriens ở đâu?

- Ông ấy đang trực ban trên cầu tàu.

- Để tôi! Cần phải...

Cô đứng lên, bất kể việc giẫm phải những thứ khi bước qua. Cô lấy chiếc áo dài ở mắc áo.

- Ông vui lòng ở lại đây chứ?

Người ta cảm thấy cô có một quyết định. Đột nhiên cô với chiếc áo ngủ ngắn, khoác ngay vào người.

Petersen rút lui, không biết nói gì để cáo lui. Người phục vụ đợi ông ở cửa phòng ăn vẫn để suất ăn của ông ở đó.

- Ông ăn chứ, thưa thuyền trưởng?

Nhưng ông trèo lên tới phòng hút thuốc, tại đây Evjen đang đi bách bộ, trong khi Schuttringer cắm cúi vào ván cờ mới nhưng không ngăn nổi ông ngẩng đầu và hỏi:

- Hai nghìn mark của tôi sao rồi?

- Chưa..

- Điều làm tôi không hiểu - Bell Evjen suy nghĩ khá lâu về câu hỏi, bắt đầu nói - đó là thiếu mười nghìn koruny và những đồng tiền vàng. Tên trộm không có lý do gì để chia số tiền thành hai phần không đều nhau như vậy. Nếu chúng ta cho tàu đỗ lại ở nơi nào đó thì ta có thể tin được.

- Hắn đã hết sức thận trọng! - Schuttringer lẩm bẩm trong lúc đưa một quân ở bên đen tiến lên và xem xét thế cờ, tay chống cằm. - Đến nỗi giờ này hắn không thiếu....

Petersen trông thấy một bóng người qua trước những cửa sổ, tuy không nhận ra dáng hình, nhưng có cảm giác rất rõ ràng đó là Peter Krull.

- Ý kiến của thanh tra cảnh sát thế nào? - Evjen nói tiếp - Ông, thuyền trưởng, ông có tin rằng đó là một viên cảnh sát thông minh không? Ông ta làm cho tôi có ấn tượng... Nói thế nào nhỉ!

- Như mọi thanh tra mà thôi! - Một lần nữa người Đức đeo kính nói chen vào.

Và đưa lưỡi qua giữa đôi môi chính vì ông ta tập trung sự chú ý, ông ta đưa quân cờ tiến lên ba ô, nói với chính mình:

- Thua và nước chiếu tướng bí.

Trời bắt đầu tối. Chỉ còn tuyết trên những quả núi còn giữ thứ ánh sáng vẻ giả tạo. Những con sóng đã là một màu đen mực và hòa trộn với bầu trời ở chân trời nhờ vào sự chuyển tiếp của những màu xám mờ dần.

Vào lúc thuyền trưởng ra để đi vào dọc cầu thang dẫn tới cầu tàu, người thủy thủ đi xuống; mẩu thuốc lá đã tắt vẫn dính ở môi. Gã tỏ vẻ phật ý trước cái nhìn của thuyền trưởng.

- Anh lên đó làm gì?

- Đây là giờ làm việc của tôi.

- Anh không biết đọc ư?

Và ông chỉ cho anh ta bản thông cáo cấm lên cầu tàu chỉ huy.

- Đây đúng là con tàu đầu tiên mà…

- Anh nói với ai thế?

- Không với ai cả. Họ câm như những con cá thu.

Thuyền trưởng có cảm giác khó chịu khi thấy kẻ đối thoại với ông đọc được suy nghĩ của ông. Và điều đó càng nặng nề hơn vào lúc mà ý nghĩ của ông còn rất mơ hồ.

- Đi đi! - Ông nói trong lúc bước vào cầu thang.

Đứng trước chiếc la bàn, người hoa tiêu đón ông trong lúc đưa tay chỉ hướng mặt trời lặn và nói:

- Đêm nay hẳn lạnh. Nếu cứ tiếp tục thế này, cần phá vỡ băng trong vịnh Kirkenes như giữa mùa đông.

Vriens có bộ mặt bị gió bấc cắt da. Ở mỗi góc cầu tàu lộng gió có một chỗ trú ẩn là hai tấm kính mà sĩ quan trực có thể đứng đó. Nhưng người đàn ông trẻ tuổi, tuy chỉ có chiếc áo khoác dạ mỏng trên vai vẫn đứng lồ lộ ở ngoài trời. Anh ta không ngoảnh đầu khi nghe thấy tiếng nói của viên hoa tiêu. Đôi môi anh ta tái xanh và đôi bàn tay không đeo găng bám chặt vào lan can.

- Tôi đã ra lệnh gì? - Petersen hỏi anh ta.

Vriens khiếp sợ nhìn ông, lục tìm trong trí nhớ.

- Mượn chiếc áo capote của một đồng sự để trực ban, và những găng tay hở ngón!

- Vâng, thưa thuyền trưởng.

Anh ta không nhúc nhích.

- Máy chạy bao nhiêu vòng?

- Một trăm mười...

- Chỗ sâu nhất bao nhiêu sải?

- Tám mươi...

Anh ta bị nhục, hoặc bị tước mất mứt kẹo! Chính là vì anh ta có vẻ trẻ con trong bộ quần áo rất mới, với phù hiệu vàng choé chưa bị hoen gỉ, bộ ngực lõm của anh ta mà người ta thấy dâng lên theo nhịp thở và đôi mắt có quầng, đôi hàm cố hết sức nghiến chặt để có vẻ hiên ngang.