Chương 9 CHÁU TRAI CỦA STERNBERG
Đêm xuống nhanh hơn thường lệ. Mới chỉ ba giờ đã phải thắp sáng đèn. Thuyền trưởng ra lệnh:
- Hãy bắt đầu che đậy những tấm biển... Thật thận trọng đấy...
Ông kề cà ở trên boong trong lúc lén quan sát Vriens khi ông trông thấy thanh tra Jennings đi tới, tay cầm một tờ giấy. Viên cảnh sát tỏ vẻ sôi sục.
- Ông đọc đi! Chúng ta cần phải nói chuyện với nhau nhưng ở chỗ khác, không ở đây. Nhân viên bưu điện trên tàu ban nãy vừa trao cho tôi bức điện tín này, trong lúc anh ta đã có bức điện trong văn phòng của anh ta từ một giờ nay.
Vriens tất nhiên đã nghe được, không quay lại, không run người. Thuyền trưởng đẩy cửa buồng canh gác ban đêm và đọc:
Cảnh sát Stavanger gửi thanh tra Jennings ở tàu Polarlys.
An ninh Paris báo cho chúng tôi rằng kẻ giết Marie Baron được nhận dạng: Rudolph Silberman ở Dusseldorf, kỹ sư, cháu trai của cố vấn Sternberg. Stop. Rõ ràng liên quan giữa hai vụ án. Stop. Có khả năng Silberman lên tàu Polarlys ở Hambourg dưới tên giả. Stop. Mò vét các vũng Stavanger không kết quả. Stop. Siết chặt giám sát tàu vì vụ án gây tiếng vang ở Đức.
- Ông nói gì về bức điện này?
Jennings hoàn toàn bối rối về bức điện này.
- Liệu ông có tin rằng người đàn ông còn có thể ẩn náu trong những khoang hầm không?
Petersen đọc lại bức điện, bước tới cửa, bởi vì tàu tròng trành làm ông lo ngại.
- Không! Không còn Ericksen ở đây nữa. Thứ nhất, tàu đã được lục soát hai lần, mà một lần đã được cảnh sát ở Bergen làm hết sức thận trọng. Thứ hai, hầu như toàn bộ hàng hoá đã được bốc dỡ lên bờ và những khoang hầm không cho chỗ trú ẩn nữa. Thứ ba, gã Ericksen ấy chưa bao giờ được nhìn thấy ở trên tàu, trừ Katia Storm và Vriens.
- Còn ông?
- Hai giờ trước lúc nhổ neo dời bến, tôi nhận thấy lưng một người đàn ông mặc áo khoác xám. Viên sĩ quan thứ ba nói với tôi rằng đó là Ericksen, nhưng kể từ lúc đó, hắn đã có đủ thời gian rời khỏi tàu Polarlys.
- Vì sao? Chuyến đi của hắn đã được trả tiền, hành lý của hắn vẫn ở trên tàu?
- Vâng, vì sao ư? Có biết bao câu vì sao khác trong vụ này.
- Vé của hắn đi bến cảng nào?
- Stavanger.
Một lần nữa, thuyền trưởng bước tới cầu tàu, trán nhăn lại, hỏi viên hoa tiêu:
- Những tấm biển đã được che đậy rồi chứ?
Người đàn ông chỉ cho ông một điểm sáng màu xám xanh khó chịu trên biển, ở chân trời.
- Tuy nhiên ông đã kiểm tra tất cả các hộ chiếu mà! - Petersen nói tiếp trong lúc quay trở lại.
Viên cảnh sát bắt đầu lộ vẻ lo lắng, cả ông nữa, không phải vì cảm thấy như sắp xảy ra cơn bão mà vì tàu tròng trành mạnh hơn làm nảy sinh trong lòng ông mối lo lắng mơ hồ.
- Chúng ta không nên dừng lại ở vấn đề những tấm hộ chiếu! - Ông đáp lại - Hầu như không thể phân biệt tấm hộ chiếu giả với tấm thật. Trong tất cả những thành phố lớn, nhất là trong những bến cảng như Hambourg, có những cửa hiệu bán giấy căn cước. Những giấy tờ giả đôi khi là thật, hoặc chúng được lấy cắp của chủ chúng, hoặc được tiếp tay từ những văn phòng chính thức.
- Như vậy Silberma...?
- Có thể bất kỳ ai: Ericksen, Vriens, Evjen, Schuttringer, Peter Krull.
- Hãy gạt Evjen ra ngoài diện nghi vấn. Tôi quen biết ông ta từ tám năm nay.
- Còn lại bốn...
- Trừ Ericksen mà tôi cam đoan không bao giờ tồn tại.
- Vậy thì vì sao Katia Storm và viên sĩ quan thứ ba của ông khăng khăng làm ta tin sự có mặt của hắn ở trên tàu?
- Và vì sao có túi than? - Petersen nói vẫn giọng ấy - Vì sao có vụ mất cắp ấy? Tại sao ta chỉ tìm lại được có bốn mươi tờ bạc một nghìn koruny trong vali của Vriens là người có hàng trăm chỗ cất giấu chắc chắn trong tàu?
Con sóng đầu tiên qua trên sống mũi tàu và vỡ ra trên boong trước, trong khi thanh tra cảnh sát gắng cười.
- Không phải là cơn bão chứ?
- Chưa!
- Ông tin rằng?
- Nếu ông đi để mắt tới quần áo của Krull xem sao?
- Ở dưới kia ư?
- Vâng. Ghế nằm của y ở bên trái buồng máy. Cơ trưởng sẽ hướng dẫn ông...
Trời trở lạnh nhanh đến mức khi ra ngoài, thuyền trưởng phải quấn khăn quàng hai vòng quanh cổ. Cúi mình trên lan can, ông thấy bốn người đàn ông bận bịu căng những tấm vải dây lên những tấm pano. Nhưng đã quá muộn. Họ lẩn tránh một hòn đảo và nhận được cơn gió ngang phía trước.
Con tàu Polarlys chệch hướng đột ngột và chiếc tủ nặng ướp lạnh chưa được xếp hàng làm gãy những chiếc móc cột từ trên boong làm nó trượt sang mạn trái. Một người đàn ông suýt bị đè nát. Có một cơn hoảng loạn ngắn, bởi vì ngay sau lúc con tàu nghiêng về mạn phải thì cái tủ cao hai mét, rộng cũng ngần ấy, bằng gỗ sồi dây có bọc chì, lại bắt đầu trượt theo uy hiếp.
Petersen chạy xuống nắm lấy đầu một chiếc thừng, bốn người đàn ông đuổi theo cái tủ ướp lạnh. Cuối cùng họ sắp buộc nó đứng im thì nó tuột ra lần cuối và sau khi vấp phải một dây néo đằng lái, lao qua mạn, mất hút trong những dòng xoáy nước.
Người ta chỉ nhận ra tai nạn khi nghe thấy những tiếng la hét ngay trước con tàu chạy hơi nước. Dây néo, dưới sức va đập đã đứt rời. Trở thành ngọn roi, nó quất người Lapon luôn ngồi ở trên cái tời đứng làm người này gãy xương bả vai. Bản thân con người khốn khổ không trông thấy gì và càng kinh hoảng vì không hiểu điều gì đã xảy đến với ông ta.
- Khiêng ông ta vào một buồng! Nhanh lên... Hãy báo cho Evjen.
Bởi vì ở Kirkenes không có bác sĩ, thường Bill Evjen phải chăm sóc ban đầu những công nhân bị thương.
Tàu chạy trong hành lang hẹp giữa hai hòn đảo, giữa những con sóng ngắn, nhưng chỉ vài sải cáp (chừng sáu, tám trăm mét) đã là biển cả với độ sâu quá mức, không nơi trú ẩn.
Petersen gặp viên sĩ quan thứ nhất bị những cơn va đập bứt ra khỏi giấc ngủ, chạy tới.
- Ông vui lòng chăm sóc người bị thương nhé? Tôi lên trên kia...
Vriens không động đậy. Lưng tựa sát vào vách sơn ở buồng canh gác ban đêm, anh nhìn thẳng trước mặt. Chiếc mũ lưỡi trai của anh bay mất và gió bắc kéo mái tóc hoe vàng của anh xuống trán.
Anh phải khép hờ đôi mi để ngăn gió cuốn bụi tuyết làm mờ mắt mình.
- Có chuyện gì đang xảy ra thế? - Thuyền trưởng lẩm bẩm trong lúc quan sát la bàn.
Một lần nữa, như ở Hambourg, đây là một chuỗi sự việc. Trước hết là cái tủ ướp lạnh. Sau đó là người Lapon bị thương!
Kia là bóng đèn điện nhỏ soi sáng màu hồng của chiếc la bàn mờ xỉn. Dần dần những dây tóc xuất hiện đỏ quạch rồi nâu. Cuối cùng người ta không nhìn thấy gì nữa!
Ông cúi xuống để tin chắc tất cả những ngọn đèn đều như vậy. Quầng sáng thông thường bao quanh con tàu đột nhiên biến mất.
- Cho máy chạy chậm lại... Sáu mươi vòng. Chừng nào mà ta biết...
Người ta sớm được biết tin. Sĩ quan thứ nhất chạy tới báo tin:
- Đó là vì chiếc ắc quy đã hết điện tức thì. Nó bị đoản mạch ở nơi nào đó...
- Còn những máy phát điện thì sao?
- Cơ trưởng đang làm việc ở đó, nhưng ông ta cho rằng chúng không ở trạng thái vận hành bình thường.
Petersen xuống phòng hút thuốc, tại đây người phục vụ thắp hai ngọn đèn dầu dựng trên khớp cardan. Katia ngồi một mình trong một góc tối. Cô ta úp mặt vào hai bàn tay nên không thể hiểu được cái nhìn của cô ta.
- Người Lapon đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ.
- Trong buồng đầu ở mạn phải, ông Evjen ở bên ông ta.
Ông đến đấy, nghe thấy những tiếng la hét ngoài hai mươi mét. Evjen, tay áo xắn lên, sờ nắn vai người bị thương bằng đôi tay dài trắng có những cử chỉ khéo léo của nhà phẫu thuật.
- Nghiêm trọng không?
- Xương bả vai bị vỡ hẳn. Tôi không thể làm gì hơn là cố định lưng bằng một tấm ván, cần phải đưa ông ta vào bệnh viện ở Tromsoe. Khi nào chúng ta đến đấy?
- Quãng nửa đêm.
- Ông có morphine chứ?
Petersen rùng mình, không biết ngay lý do về sự khó chịu của mình, nhìn Evjen với vẻ nghi ngờ, hối hận về việc máy móc gắn với kẻ giết Marie Baron. Chưa bao giờ tình hình trên tàu lại rối loạn đến thế. Những chiếc đèn dầu hoả chỉ đủ soi sáng những hành lang. Trong những buồng, chỉ thắp nến.
Người Lapon kêu gào thảm thiết, lưng để trần, quần áo sọc của ông ta rớt xuống đất tạo thành một cảnh càng nặng nề hơn ở mỗi lần tàu tròng trành lại hất ông ta vào vách và mặt của ông ta co rúm lại vì đau đớn.
Để chu đáo, thuyền trưởng còn phải đến tận chỗ máy móc nhằm tin chắc rằng những máy phát điện không sử dụng được nữa. Nhưng ông không yên tâm về ý nghĩ Vriens ở lại có một mình với người hoa tiêu ở cầu tàu.
Đồng thời tinh thần của ông để đâu đâu.
“Miễn là Jennings không lao xuống chân thang và bị thương ở trục truyền động!" Còn Schuttringer? Ông không trông thấy ông ta. Liệu Krull có ở vị trí của hắn không? Tất cả điều đó vào lúc cụ thể, sự thật đến mức lộ ra, vào lúc mà dẫu sao người ta cuối cùng có được vài dữ liệu tích cực.
Viên sĩ quan thứ hai gọi ông ở trên boong.
- Chúng ta không thể tiếp tục cho máy chạy sáu mươi vòng. Biển tạt vào chúng ta...
- Tôi lên đây...
Ông còn chưa có ánh sáng. Khi qua buồng mình, ông lấy đôi ủng đế gỗ vì ông cảm thấy có điều gì sắp xảy ra mà chưa chấm dứt.
Ông hỏi người phục vụ đi qua:
- Schuttringer đâu?
- Ban nãy tôi trông thấy ông ta ở trên boong với một người...
- Với ai? Thủy thủ tiếp than phải không?
- Có thể! Tôi không để ý...
Mặc kệ! Petersen không thể cùng lúc quan tâm đến con tàu của mình và kẻ sát nhân.
- Tám mươi vòng... Một trăm... - Ông ra lệnh khi đến gần máy điện báo - Đúng ra chúng ta đang ở đâu?
- Ta phải trông thấy xuất hiện đèn tín hiệu ở Loedingen...
Những cơn gió lốc thổi dồn dập làm cho Petersen phải bắt chước Vriens và người hoa tiêu ép sát mình vào vách. Mỗi lúc tàu tròng trành, ba cái lưng cùng rời ra, lắc lư một lúc rồi va vào tấm tôn sơn.
“Rudolph Silberma... Kẻ giết Marie Baron... Người cháu trai và kẻ giết cố vấn Von Sternberg..” Có lẽ đến hai mươi lần thuyền trưởng lén nhìn Vriens. Bởi vì anh ta có thể là Silberma! Trước đây ở Hambourg không có người nào trông thấy anh ta. Một con người trai trẻ đến từ Delfzijl để nhận chức trách sĩ quan thứ ba trên tàu Polarlys. Người ta không để anh ta đến đúng địa chỉ. Qua cách này hay cách khác, Silberman nhận và trình diện thay thế anh ta.
“Không!” - Thuyền trưởng khẽ lẩm bẩm trong lúc nhớ tới bức ảnh lớp học trên tàu. Tuy nhiên, về tất cả những kẻ có thể là Silberman, Vriens không phải là kẻ có hạnh kiểm lạ lùng nhất ư? Trước hết, hắn là tình nhân của Katia. Và Katia cũng vậy, có thể bị nghi ngờ vì đã tham gia vào cuộc chè chén trác táng ở phố Delambre. Phải chăng hắn mới trở thành người tình của cô ta ở trên tàu? Hay đã là người tình từ trước? Tại sao cả hai người lại nghĩ ra con ma Ericksen ấy, trước hết cho y đi đi lại lại trên con tàu Polarlys để rồi sau đó loại y dưới dạng một túi than ở Stavanger? Katia không có lấy một xu và một vụ mất cắp đã xảy ra trên tàu! Và phần lớn số tiền mất cắp lại được tìm thấy tại buồng tình nhân của cô ta!
- Một ngọn đèn, thuyền trưởng...
- Một ca trực ở mạn phải. Tốt hơn cả là ra khơi qua Mũi Cá Voi...
Ông cố lấy lại dòng suy nghĩ của mình, bứt rứt cảm thấy không thể có lập luận chặt chẽ. Đôi mắt ông như mắt các bạn ông, dò xét bóng tối để phát hiện những cọc tiêu.
Bởi vì họ cho tàu chạy theo phỏng tính. Suốt dọc bờ biển, họ cho tàu chạy ở ngoài khơi cách bờ hai dặm, có những hòn đảo và những bãi đá ngầm chỉ chừa những lạch hẹp, tại đó sôi sục những dòng đối lưu.
Vấn đề là phát hiện kịp thời những đèn tín hiệu xanh lục, đỏ hoặc trắng nhấp nháy trên đỉnh những cọc tiêu.
Ba người đàn ông đứng lại mười lăm phút, nửa giờ không hé răng. Rồi một người chỉ một điểm trong khoảng không và những người kia sớm nhận ra ở đó một ánh loé sáng. Thế là một cái tên được thốt lên:
- Stokmarknes... Scortland...
“Nếu Vriens là Silberma...” - Thuyền trưởng lại nghĩ. Lông mày cau lại, trán hằn những vết nhăn sâu, ông thử tổng hợp những sự kiện và lý giải chúng dưới ánh sáng của giả thiết này. Mặc dầu những mối bận tâm ấy, ông vẫn không cảm thấy khó chịu về sự chung chạ bừa bãi của gã trai mà đôi khi tàu tròng trành lại xô anh ta vào vai ông.
“Nếu Krull...?” Nhưng vì sao Krull lại tiết lộ việc quăng túi than bánh? Phải chăng do ngẫu nhiên y nói dối? Phải chăng Ericksen ấy hoặc gọi là thế đã thực sự nhảy xuống nước ở Stavanger? Người ta không vớt được xác y, nhưng trong những bến cảng đó là việc luôn xảy ra. Những xác người bám vào những thừng chão kéo xuống đáy nước, bám vào mỏ neo hoặc bị những dòng nước thuỷ triều lôi ra ngoài khơi.
- Thuyền trưởng...
Bị bứt ra khỏi dòng suy tưởng của mình, Petersen rùng mình, nhận thấy người phục vụ thận trọng tiến lên, khiếp sợ bởi con tàu cứ giật nẩy lên, nhất là cảnh nước chảy dọc các mạn tàu, trắng xoá, náo động với tốc độ cuồng loạn.
- Đó là thanh tra...
- Ông ta ở đâu?
- Trong buồng ông ta. Ông ấy ốm. Ông ấy yêu cầu nói chuyện ngay với ông.
Thuyền trưởng tin chắc vào hướng mũi tàu, nhìn viên hoa tiêu và Vriens rồi người đàn ông ở buồng lái chỉ còn là cái bóng nhợt nhạt trong bóng tối của buồng kính của mình.
Ông xuống thang, nhận ra Katia vẫn ở chỗ cũ trong góc phòng hút thuốc trong đó bóng đèn của ngọn đèn dầu đã đen khói.
Thật bực! Cái không khí không thực này! Tất cả những cái bóng không bình thường này đầy bí mật. Cô ta có thể làm gì ở đó? Phải chăng cô ta đang khóc? Phải chăng cô ta đang giễu cợt mọi người? Phải chăng cả cô ta cũng say sóng? Chưa bao giờ con tàu Polarlys buồn tẻ, đáng lo ngại như thế này. Cho tới khi cái tủ ướp lạnh ấy có hành động nguy hiểm thật sự trong những sự bộc phát của nó chăng? Chín mươi chín phần trăm cái dây néo đằng lái đứt không quất vào ai cả! Đúng là có một người Lapon mặc giá lạnh, gió bắc và bụi nước do sóng tung lên đóng băng khi chúng rơi trên boong, đến ngồi trên trục tời đứng! Ông ta không hiểu một tiếng Na Uy! Người ta không thể nói gì với ông ta! Ông nhìn quanh mình bằng cặp mắt gây gổ như thể cả đoàn thủy thủ coi ông ta là kẻ lừa lọc! Phải chăng điều đó đã bắt đầu ngay từ Hambourg, với cả chiếc dây cáp ấy bị đứt, làn sương mù nhơ bẩn ấy, sự trở về của gã Vriens say như chết và chiếc xà lan mà họ suýt nhận chìm xuống đáy biển?
“Giờ đây, buồng khác!” Và Petersen mở cửa buồng của thanh tra, thấy ông này cúi xuống cái chậu bằng carton dành cho hành khách bị say sóng.
Nến chỉ còn có ba xăngtimét. Cây nến soi sáng bộ mặt tiều tuỵ, nước mắt giàn giụa, cái miệng đau khổ.
- Ít ra tôi có thể nôn! Bão khủng khiếp phải không?
- Cho đến lúc này, không có gì...
- Ông tin rằng...?
- Ông cho gọi tôi hả?
- Vâng... Hãy khoan. Tôi không biết mình nên thế nào. Khi tôi nằm, hầu như còn tồi tệ hơn... Thực sự không có phương thuốc ư?... Khoan đã, thuyền trưởng!... Tôi xuống dưới. Tôi tưởng rằng tôi suýt tự giết mình, với những cái thang sắt ấy, tôi lục soát chiếc túi của Krull. Tôi đã tìm thấy cái này trong đó...
Ông ta chỉ vài đồng tiền vàng ở trên chiếc bàn con, gần chiếc khăn ướt.
- Ông Evjen đã nhận ra chúng. Đúng là của ông ấy.
- Krull có trông thấy ông không?
- Anh ta không có mặt ở đó. Hình như anh ta đi hít thở ở trên boong. Đến Tromsoe, cần phải ngăn anh ta bỏ trốn. Tôi không biết có thật tôi sẽ ở tình trạng... Ông xem này!
Ông ta dừng một lúc bất động ở trên cái chậu. Ngực ông ta bị co thắt hai, ba lần trong khi ông ta há miệng ra.
- Thế đó! Không thể được!... Đầu óc tôi quay cuồng... Thế là thế nào nhỉ?...
Ông ta giật mình, tai căng ra. Người ta nghe thấy tiếng ồn ào liên tục trên boong.
“Một đợt sóng...” Cả Petersen cùng lo lắng bởi vì ông biết đợt sóng này đã tới cầu tàu.
- Ông đừng cựa quậy.
- Không... Tôi...
Ông do dự trèo lên trên đó, nhanh chóng đến buồng máy mà cơ trưởng luôn làm việc với các máy phát điện.
- Sửa à?
- Không có gì để làm cả chừng nào chúng ta không ở bến cảng.
- Krull ở vị trí của anh ta chứ?
Cơ trưởng ngoảnh về phía buồng đốt, truyền câu hỏi. Người lái thò đầu đen nhẻm ra một lúc trong cánh cửa sắt mở hé và không tiếc lời thoá mạ. Krull đã biến mất hơn hai giờ trong lúc người ta cần áp suất hơn bao giờ hết. Người thủy thủ tiếp than thứ hai không thể làm xuể. Người lái đòi hỏi một người, bất kỳ ai để tiếp than vào lò.
- Anh ta không ở trong buồng của anh ta ư?
- Hắn không có ở nơi nào hết.
- Tôi sẽ gửi đến cho ông một thủy thủ ở boong.
Buồng máy không phải là nơi ít thê thảm, chỉ được thắp sáng bằng đèn dầu hoả, với những người đàn ông phải giữ thăng bằng phi thường để không bị sự truyền động của máy ngoạm phải.
Vào lúc lại đặt chân lên boong, Petersen nguyền rủa bực dọc như thể một tràng những lời thô tục có thể làm ông khuây khoả.
Ông túm lấy một người bất chợt đi qua.
- Hãy giúp một tay trong hầm tàu!
- Tôi ư? Nhưng tôi phải...
- Đi đi!
Đây không phải là lúc bàn cãi. Trong lúc cúi xuống, ông nhìn thấy chiếc cọc tiêu đỏ báo hiệu có những bãi đá ngầm ở Risotyhamm. Bell Evjen tìm ông. Cả ông ta nữa cũng không vững vàng. Hai lỗ mũi ông ta có quầng vàng và bóng cho thấy ông ta bị say sóng.
- Nói chuyện một lát, thuyền trưởng. Vừa xảy ra một tình huống nhỏ... như tôi đã báo cho ông, tôi đã tiêm cho người bị thương một mũi vì ông ta không chịu nổi đau đớn. Người phục vụ đã mang đến cho tôi hộp dược phẩm mà tôi để trong buồng...
- Anh ta bị trúng độc à?
Petersen chờ đợi hết thảy, những bất hạnh phi lý nhất. Vào lúc mà chuỗi sự việc đã thật khởi sự!
- Không. Có một hộp sáu ống morphine. Nó đã biến mất. Tôi cũng không tìm thấy ống tiêm nữa.
- Ai đã vào trong buồng?
- Chỉ có người Lapon mới cho chúng ta biết. Ông ta không hiểu người ta đã nói gì với ông ta. Ông ta tin chắc rằng người ta muốn giết ông ta và chỉ lại gần ông ta một chút là ông ta nép mình sâu vào ghế nằm.
- Người phục vụ không trông thấy gì ư?
- Anh ta nói anh ta ở trên cầu tàu.
- Được!
Petersen nặng nề trèo lên thang, mình đẫm nước đến gần người hoa tiêu và Vriens bởi vì một con sóng đã vỗ vào toàn bộ lưng ông ở giữa đường đi. Không nói một lời, ông đứng giữa hai người, áp vào vách, mắt dõi theo một cách mỉa mai lạ lùng con sóng từ ngang tàu ập đến thật cao làm đứt một trong hai dây buộc chiếc canot treo dưới ống khói, giữa những mắc áo.
Vào nửa đêm ông vẫn đứng ở chỗ cũ, rét cóng, miệng cau có, rình những cọc tiêu. Đã ba giờ ông không hút thuốc bởi vì như thế ông phải rút tay ra khỏi túi, mở chiếc áo khoác và vào buồng lái để bật diêm.
Những nhũ băng treo bám vào những dây néo và cột buồm đằng mũi và trên boong trước, những con sóng vỗ liên tiếp đã để lại một tảng băng bóng loáng, màu xanh nhạt, tròn như một con sứa quái gở.