← Quay lại trang sách

Chương 2

Khoảng 9 giờ 40 phút tối ngày 11 tháng Mười một năm 2003, tại công viên phía Tây khu phố 4 quận Meguro thành phố Tokyo, người ta tìm thấy xác một cô bé được cho là nạn nhân thứ ba của Người kéo.

Cái tên “Người kéo” chưa bao giờ nảy ra trong đầu Isobe Tatsuhiko và Shimokawa Muneo của Phòng Cảnh sát Tây Meguro cho tới khi họ đến hiện trường.

Hai người vốn đang điều tra một vụ cướp ở cửa hàng tiện lợi xảy ra vào hôm kia thì bỗng dưng nhận điện thoại báo về cái xác kì lạ của một cô gái tuổi vị thành niên, xem chừng bị giết. Ngắn gọn thế thôi.

“Vụ án kinh khủng thật,” Shimokawa lẩm bẩm ở ghế sau. Xe đang chạy trên đường Meguro. “Tôi chúa ghét mấy vụ giết con nít.”

“Học sinh cấp ba thì đâu còn là con nít nữa,” Isobe ở ghế lái đáp lời.

“Đối với tôi thì vẫn là con nít,” Shimokawa cao giọng nhấn mạnh. “Chúng nó trông thì lớn tướng, nhưng thực chất chỉ là trẻ sơ sinh biết đi thôi.”

Shimokawa vốn nhỏ thó, chỉ cao 1m60. Năm lớp Tám, anh là đứa lùn nhất trong đám con trai cùng tuổi.

Vừa rẽ vào con hẻm bên cạnh đường Meguro để đến hiện trường, cả hai đã thấy dải dây màu vàng đề chữ “Cấm vào” chăng ngay cổng công viên, cạnh đó là mấy tuần tra viên đứng chắn đám đông hiếu kì.

Trên bãi cỏ công viên có dựng vài cột đèn để chiếu sáng, các giám định viên hiện trường đang đứng với vẻ uể oải. Họ có quây một tấm bạt xanh để tránh ánh mắt tọc mạch của người dân. Tấm bạt phản chiếu luồng sáng chói mắt của mấy cây đèn, trông chẳng khác nào lều trại của các rạp xiếc dựng trong thành phố. Dân chúng đứng gần cổng công viên chỉ trỏ vào trong thì y như những đứa trẻ không mua vé.

Trên bãi cỏ toàn gương mặt quen thuộc. Shimokawa chưa thấy bóng dáng thanh tra Ueda đâu, nhưng nếu nhóm anh còn phải hợp tác điều tra vụ án thì tất nhiên nhân lực Tổ Hình sự sẽ được huy động hết thôi.

Isobe và Shimokawa dừng xe ngoài công viên, nối đuôi vào hàng xe cảnh sát và xe tải nhỏ của bên giám định, rồi cùng bước xuống vệ đường. Vừa mở cửa xe, Isobe đã run cả người vì gió lạnh.

“Rét quá thế này.” Shimokawa vừa kêu vừa kéo chặt áo khoác lại.

“Rét quá” là chưa đủ để diễn tả tiết trời này. Có đợt không khí lạnh di chuyển từ lục địa ra quần đảo Nhật Bản nên nhiệt độ đã hạ xuống mức mùa đông.

Mấy người dân hiếu kì chỉ choàng mỗi áo khoác bên ngoài pyjama, giờ đang đánh đàn răng lập cập.

Shimokawa và Isobe gật đầu chào mấy cậu tuần tra viên đứng gác, rồi bước vào công viên. Từ hiên nghỉ dưới hàng dây leo gần cổng vào, Matsumoto Junzaburo giơ tay phải lên vẫy hai người. Anh đang cầm một cuốn sổ nhỏ.

Thanh niên đứng cạnh anh chắc là nhân chứng phát hiện thi thể, vì trông Matsumoto như đang trong quá trình lấy lời khai. Trên hiên còn có cả Shindo Makoto, nhưng cu cậu không để ý đến đám Isobe vì đang bận an ủi một phụ nữ trẻ.

Cử một Shindo còn trẻ ra tiếp chuyện cô gái, phần thanh niên lập dị kia thì trao cho một Matsumoto cáo già. Chọn người hay thật, Isobe trầm trồ. Hẳn là phân công của thanh tra Ueda đây.

Shindo là mẫu người hiền lành trầm tính (nói trắng ra là nhu nhược nhát gan), mỗi lần thấy xác chết là cu cậu sẽ nôn nao, mặt tái nhợt đi rồi gục lên gục xuống, thế nên phân công cu cậu ra tiếp chuyện phụ nữ là hợp lý quá rồi.

Phía Matsumoto thì thế nào nhỉ? Matsumoto thì bất kể đối tượng là ai, anh đều có thể thành thục moi ra manh mối từ lời khai của bọn họ. Đêm nay, viên cảnh sát cáo già thành thục ấy cũng phải co ro xuýt xoa vì trời rét.

Thanh niên nhân chứng mặc áo khoác phao, đứng yên giữa làn không khí giá buốt, trả lời mà chẳng hề nhìn mặt Matsumoto, thi thoảng phóng ánh mắt đầy nghi hoặc về phía lều bạt màu xanh. Đó là một người trắng trẻo ục ịch. Hai má tròn trịa núc ních, áo khoác và quần jeans đều ngoại cỡ. Song vì trên đời chẳng thiếu người béo nên không ai xung quanh tỏ vẻ khinh miệt cả. Thanh niên này không mặc cảm về cân nặng của bản thân ư?

Đâu, ngược lại chứ, Isobe chợt nhận ra.

Chẳng liên quan gì đến các người cả, ánh mắt thanh niên như muốn nói thế. Cả mái tóc bù xù không chải chuốt trông cũng như đang kể cùng một câu chuyện.

Thanh niên chắc cũng cùng lứa với Isobe, nhưng khó lòng áng chừng chính xác. Nhìn thế nào cũng không thể phán đoán được tuổi thật, do nhân dạng rất mơ hồ. Chỉ cần đưa mắt đi chỗ khác là sẽ chẳng ai nhớ nổi mặt mũi nữa. Thanh niên này còn thuộc dạng người khó vẽ chân dung, có gặp cũng chỉ biết mô tả bâng quơ rằng, “Đó là một người trắng trẻo phục phịch,” vậy thôi.

Lúc định thần lại, Isobe đã thấy Shimokawa đang đi một mạch sang bên kia bãi cỏ. Cậu liền hấp tấp chạy theo.

Cạnh lều bạt là Muraki Haruhiko đang đứng thở ra hơi trắng. Vóc người Muraki bẩm sinh vừa gầy vừa cao lêu nghêu, bây giờ trùm thêm chiếc măng tô dày cộp ấm cúng, trông y như một ca sĩ nhạc soul đến thăm và gửi lời động viên các quân nhân đang vật lộn với mùa đông Bắc Cực.

“Chào,” Shimokawa giơ một tay lên.

“Chào, anh Trưởng,” Muraki đáp lại, hai tay vẫn đút trong túi áo măng tô.

Shimokawa bực bội ra mặt. Anh có hai lý do để không thích cái biệt danh ấy.

Lý do thứ nhất là vì quá ghét vị trí điều tra viên này, nếu được chọn thì không đời nào anh chấp nhận giậm chân tại chỗ ở đây. Anh không lưu luyến gì nghiệp vụ hiện trường, cũng không ấp ủ tâm niệm dành cả đời cho sự nghiệp điều tra, mà đơn giản chỉ vì anh không đỗ nổi kì thi thăng chức. Isobe đã từng chứng kiến cảnh Shimokawa tập trung cao độ để giải phần thi có nội dung trả lời ngắn, nên không lý nào Shimokawa lại là loại người vô cảm với việc thăng tiến.

Lý do thứ hai thì đơn giản hơn. Hồi học cấp hai, Shimokawa đã từng lấy biệt danh “anh Trưởng” để diễn trò cảnh sát tội phạm, giống với biệt danh của nhân vật thám tử trong bộ phim hình sự dài tập nổi tiếng lúc bấy giờ. Người diễn viên thủ vai có họ giống hệt anh. Khác với Isobe vốn chỉ xem phim qua đĩa DVD, Shimokawa đã xem bộ phim từ thuở nó còn phát trên truyền hình, thế nên anh không tài nào chịu nổi việc người khác đánh đồng mình với tên thám tử đã toan về già ấy. Mỗi lần nghe gọi bằng cái tên “anh Trưởng”, Shimokawa sẽ nghiến răng rồi nghiêm túc quát lại rằng anh còn trẻ lắm.

“Giờ cũng muộn rồi. Quây bạt giữa trời đông buốt giá thế này cực quá nhỉ.” Muraki tiếp tục, chẳng màng để tâm đến nét mặt của Shimokawa.

“Chịu thôi. Sao mà trốn được, công việc mà. Giống như vụ cướp ở cửa hàng tiện lợi vậy.”

“Thế còn may. Tôi đang yên ổn ở nhà nghe nhạc thì bị gọi ra. Vẫn chưa thể nhập tâm vào công việc đây này.”

Ở Tổ Hình sự, Muraki nổi tiếng là người cuồng các dàn âm thanh và nhạc cổ điển. Có tin đồn anh đem phần lớn đồng lương còm cõi của nghề cảnh sát đi tậu các loại dàn âm thanh. Đã có lần anh thao thao bất tuyệt giải thích cho Isobe nghe về sự tuyệt vời của tube amp*.

Cảm thấy bất ngờ trước thái độ nhiệt tình hoàn toàn khác xa một Muraki đầy cay độc của thường ngày nên Isobe cũng cố gắng lắng nghe về đèn van*, thứ không ngờ còn tồn tại trong cái thời đại mà ngay cả con chip silicone cũng đã lạc hậu này. Lũ trẻ ngày nay có lẽ sẽ còn hỏi ngược lại rằng, “Đèn van là gì cơ?”

“Lúc đó anh đang nghe gì?” Isobe tò mò hỏi Muraki.

“Piano Trio 2 của Shostakovich*.” Muraki đáp, cuối cùng cũng chịu mỉm cười.

Tên nhà soạn nhạc thì Isobe đã từng nghe qua, nhưng tên bản nhạc thì chưa bao giờ. Cậu cũng chẳng biết đó là bản nhạc thế nào nữa.

“Thăm hỏi nhau thế là đủ. Cậu tính lên chức đội trưởng điều tra đấy à?” Shimokawa nói, chân bước lại gần lều bạt xanh.

Muraki cười tủm tỉm, hai tay dang ra vẻ thị phạm, “Sao mà được. Không có lệnh từ trên Sở gửi xuống thì tôi không lên chức đâu. Trong tuyển tập đề thi không có ghi à, anh Trưởng?”

Hễ chưa có chỉ thị của Cảnh sát Tokyo, ngay cả điều tra viên thuộc Tổ Hình sự cơ sở cũng không thể tự tiện mổ xẻ hiện trường. Cùng lắm thì được giao cho nhiệm vụ canh gác thực địa. Chỉ có điều, giám định viên đã ở đây rồi mà vẫn chưa cho phép khám nghiệm tử thi thì lạ thật.

“Vẫn chưa có chỉ thị gì của Sở sao?” Shimokawa nhìn quanh với vẻ thắc mắc. “Nhắc mới nhớ, cũng không thấy bóng dáng Phòng 1* nhỉ.”

“Có lý do cả đấy,” Muraki cười với vẻ đầy ẩn ý. “Vụ này đến cả Sở cũng không thể hành động khinh suất. Trưởng phòng đang thúc đít cả lũ điều tra viên kia kìa.”

Nghe thế, Isobe chợt nghĩ, có khi thanh tra Ueda đang đứng bên cạnh chiếc xe tuần tra nào đó để liên lạc với Sở bằng điện đàm cũng nên.

“Tôi xem một chút được chứ?” Shimokawa hạ mình.

“Xem thôi thì được,” Muraki đáp lại với vẻ kẻ cả.

“Nhưng mà… tôi nghĩ anh không nên xem thì tốt hơn. Thật đấy.”

Muraki giở tấm bạt lên, và cầm đèn pin rọi giúp lúc Shimokawa và Isobe thò đầu vào nhìn.

Dưới bụi cây vây quanh bãi cỏ là xác một cô bé trông chỉ mới mười mấy tuổi nằm ngửa mặt lên trời. Áo vest đồng phục phủ màu xám nhàn nhạt trông rất quen thuộc, nhưng nhất thời Isobe không nhớ ra là đồng phục trường nào. Vòng tròn ánh sáng di chuyển lên thân trên cô bé, cho thấy quanh cổ có quấn một sợi dây nhựa. Bên dưới là một vật thể lấp lánh trong ánh đèn.

Kéo. Isobe nuốt khan. Một cây kéo ghim ở giữa cổ nạn nhân. Cây kéo màu bạc, trông cứ như một loài thực vật có màu kim loại trổ lên từ cổ họng cô bé. Loài hoa độc kí sinh trong cơ thể, chỉ nở bung khi cô đã chết. Tính đến bây giờ cô bé là nạn nhân thứ ba.

Shimokawa quay sang Isobe, mặt đỏ gay, “Cậu nghĩ thế nào?”

“Em nghĩ rằng vụ án thuộc thẩm quyền chúng ta lần này thật quá rắc rối,” Isobe thẳng thừng đáp.

“Thằng lỏi, chả có chí cầu tiến gì cả,” Shimokawa nhăn mặt. “Sao cậu lại không nghĩ rằng chúng ta may mắn thế nào khi được xử lý một vụ trọng án chứ?”

Giống như Shimokawa không thích bị gọi là “anh Trưởng”, Isobe cũng không thích bị gọi là “thằng lỏi”. Tôi 27 tuổi rồi, Isobe nghĩ. Tại sao cứ gọi thằng này thằng nọ?

Y như ý kiến phát biểu lúc trước về mấy đứa học sinh trung học, Shimokawa có khuynh hướng đối xử với tất cả mọi người kém tuổi như trẻ con. Đây là bằng chứng cho thấy thực chất anh đã cực kì gần cái tuổi trung niên, bất chấp anh tự nhận định ra sao về mình đi nữa.

“Vụ việc lớn quá, chắc sẽ giao cho mấy tay trên Sở thôi.” Muraki thả bạt lại như cũ rồi lạnh lùng chỉ ra thực tế trong cơ cấu ngành cảnh sát. “Phân công điều tra là việc của Sở, động não cũng là việc của Sở. Còn chúng ta chỉ làm những việc vặt vãnh.”

“Thế cái lũ Tâm thần kia có vào cuộc không?” Shimokawa thở hắt ra.

“Tâm thần” là biệt danh nội bộ chỉ Ban Phân tích Tâm lý Tội phạm do Viện Nghiên cứu Khoa học Điều tra trực thuộc Sở thành lập ba năm về trước. Sở thi hành quy chế nghiêm ngặt về cách thành lập ban này nhằm đối phó với làn sóng tội phạm giết người chỉ nhằm thỏa mãn khoái cảm mới xuất hiện vào cuối thế kỉ 20. Người được chỉ định vào Ban Phân tích Tâm lý Tội phạm bắt buộc phải là cảnh sát điều tra lão luyện, ngoài ba mươi tuổi và có trên một năm kinh nghiệm làm việc với FBI. Thậm chí ngay trong nội bộ quan chức cảnh sát cấp cao, “cái lũ Tâm thần” cũng thuộc tầng lớp nổi trội hơn hẳn.

Hồi đó, nghe đến mấy từ quan chức cấp cao và nổi trội, Shimokawa liền lộ rõ vẻ tức tối.

Đúng là kiểu người ruột để ngoài da, Isobe thầm nghĩ. Isobe rất có cảm tình với người đàn anh quá đỗi hồn nhiên này. Có lẽ Muraki cũng thế. Shimokawa vốn được tất cả mọi người trong Tổ Hình sự yêu quý.

“Đi ra nhớ cẩn thận nhé, anh Trưởng,” Muraki mỉm cười nhắc nhở. “Lỡ chạm mặt người ta mà còn Tâm thần này Tâm thần nọ thì không hay lắm đâu.”

“Tâm thần thì nói là Tâm thần thôi.” Shimokawa lớn tiếng như muốn khiêu chiến với nội bộ quan chức cấp cao hào hoa kia. Ưỡn ngực ra vẻ ta đây cũng là điều tra viên chứ ít gì, anh sải bước qua bãi cỏ. Đúng lúc đó, thanh tra Ueda Yoshiaki từ đâu chạy líu ríu về phía cả bọn, đến chỗ lều bạt thì dừng lại, thông báo cho cấp dưới, “Lệnh khám nghiệm của Sở gửi xuống rồi. Sau đây sẽ tiến hành công tác khám xét hiện trường.”

Thanh tra Ueda sở hữu một quả đầu hói đáng kinh ngạc kèm một bộ râu quai nón, khiến người ta có cảm giác tóc ông mọc lộn vị trí. Ông được biết đến với tính cách đôn hậu và cung cách nói chuyện lịch sự đứng đắn với tất cả mọi người. Trong xã hội thật ra cũng không thiếu người biết cách đối nhân xử thế, nhưng vì ông thanh tra vẫn giữ cách nói chuyện lịch sự ngay cả khi ở một mình với Isobe, nên cậu thầm nghĩ có khi đó đã là tính cách của ông rồi. Có thể đối xử với cấp dưới đáng tuổi con mình bằng cung cách tiếp chuyện với người của Sở, thanh tra Ueda quả là đáng nể mà. Song, cái phép lịch sự ấy của ông thanh tra cũng có mặt lợi mặt hại của nó. Khổ nhất là những khi giọng điệu của ông trở thành giọng giáo huấn của một hiệu trưởng. Mỗi lần ông mở miệng ra thì y như rằng, mọi người lại có cảm giác ông sẽ chốt hạ câu chuyện bằng lời dặn dò “Các con nghỉ hè vui vẻ, nhớ đừng để cảm lạnh hay bị thương”.

Thanh tra Ueda thông báo xong, một cảnh sát và một giám định viên bước vào khu vực quây bạt. Isobe thì đứng chờ Matsumoto và Shindo lấy lời khai của nhân chứng phát hiện thi thể.

“Rốt cuộc cũng khám xét,” Matsumoto cười phô hàm răng ố vàng. Anh là người duy nhất trong Tổ Hình sự hút thuốc lá.

“Ừ,” Isobe giở tấm bạt lên cho Matsumoto tiện chui vào, “Mấy nhân chứng phát hiện thi thể đâu?”

“Về rồi, sau khi cho chúng ta địa chỉ liên lạc.” Matsumoto nghi hoặc nhìn Isobe, “Cũng 11 giờ khuya rồi còn gì. Phía cô gái thì tôi nhờ một tuần tra viên đưa về.”

“Còn phía thanh niên kia?”

“Tôi có đề nghị để bên mình đánh xe đưa về, nhưng gã từ chối,” Matsumoto nhăn mặt, “Cậu nghi ngờ gã à? Người như thế đúng là hiếm thấy nhỉ. Chắc là dân otaku*.”

Isobe bật cười. Ít ai bây giờ còn dùng từ lạc hậu như “otaku”. Vả lại, thanh niên nọ cũng không phải otaku. Trông gã không thuộc dạng đam mê hay sa đà vào thứ gì đấy. Có lẽ điều duy nhất gã quan tâm chỉ là bản thân.

“Cậu nghi ngờ cũng là điều dễ hiểu thôi,” Matsumoto tiếp. “Nếu người ta phát hiện ra nạn nhân ngay sau khi cô bé bị giết, có lẽ tôi cũng đưa gã vào diện tình nghi. Nhưng nạn nhân bị sát hại cách đó một khoảng thời gian rồi.”

“Pháp y vẫn chưa khám nghiệm mà.”

“Không cần nhờ đến pháp y, chỉ nhìn thi thể tôi cũng đoán được. Thanh niên đó chẳng liên quan gì đến vụ án này đâu.” Matsumoto vỗ vai Isobe rồi chui vào bên dưới tấm bạt.

“Chỉ nhìn thi thể thôi á?” Shindo lật đật chạy theo, miệng như lẩm bẩm. “Em cũng nhìn thấy thi thể mà có phát hiện ra gì đâu. Sư huynh thì sao?”

“Tôi mới đến thôi, còn chưa nhìn thấy thi thể,” Isobe nói dối. “Ê, sao tôi lại phải giữ bạt cho cậu chứ? Đến đây cầm đi.” Shindo chạy đến giữ vạt lều để Isobe chui vào.

Bên trong được chiếu sáng bằng mấy chiếc đèn pha cây trông cứ như trường quay phim truyền hình. Chính giữa luồng sáng chói lòa ấy là thanh tra Ueda và Shimokawa đang quỳ gối bên cạnh thi thể.

“Ra tay tàn nhẫn thật. Nhìn này.” Shimokawa nói, đầu không ngẩng lên khi Isobe lại gần, bàn tay phải đeo găng trắng trỏ vào cổ nạn nhân. Họng ngay dưới cằm nạn nhân bị siết chặt bằng dây nhựa, khiến vùng da lõm xuống và thâm lại. Dưới nữa là một cây kéo cắm thẳng vào cổ họng, đâm sâu đến tận phần vít cố định hai lưỡi. Hẳn là cây kéo găm vào sau khi cô bé đã tử vong, vết thương sâu nhưng rất ít máu chảy, chỉ dính một chút ở vùng cỏ bên dưới thi thể. Tình trạng giống y như hai nạn nhân trước của Người kéo: găm kéo vào họng khi tim đã ngừng đập.

“Đây là hành vi của Người kéo. Không lẫn đi đâu được,” Shimokawa lầm bầm.

“Tên gọi chính thức của hắn là Kẻ giết người hàng loạt trên diện rộng số hiệu A12.” Isobe đính chính với gương mặt tái xanh. Đã bốn năm làm cảnh sát mà đến giờ cậu vẫn chưa quen nổi với việc nhìn tử thi. Thành thật mà nói, cậu còn tự nhủ có khi cả đời cũng không quen được. “Người kéo là biệt danh mà báo chí đặt cho thôi.”

“Khá đấy. Có nên tặng cho cậu cái huân chương không nhỉ?” Shimokawa vừa nhìn nét mặt của Isobe, vừa nhe răng ra cười rồi nói với vẻ thản nhiên, “Thằng lỏi này, lý thuyết thì không ai bằng, thực hành thì chẳng bằng ai. Trái ngược với tôi. Muốn ói thì ra ngoài đi, đừng ở đây làm bẩn hiện trường.”

“Em không sao,” Isobe lí nhí, thu hết can đảm nhìn thẳng vào mặt thi thể. “Cô bé xinh thật, vậy mà lại gặp phải cảnh ngộ thế này…”

Cặp mắt không còn chớp được nhìn thẳng lên trời. Gương mặt méo mó vì đau đớn nhưng vẫn cho thấy đường nét xinh đẹp. Thanh tra Ueda vươn tay moi từ túi trong áo vest đồng phục của cô bé một tấm thẻ học sinh.

“Tarumiya Yukiko. Học sinh lớp Mười một trường tư thục Hazakura,” Đoạn, ông đối chiếu gương mặt trên tấm thẻ với gương mặt thi thể, “Địa chỉ là… gần đây nhỉ? Căn hộ số 503, chung cư Desert Himonya.”

“Có khi nào cô bé bị tấn công trên đường đi học về không?” Shimokawa nói.

“Có khả năng lắm. Cô bé vẫn đang mặc đồng phục mà.” Sau khi ghi nhớ địa chỉ và số điện thoại của cô bé, thanh tra Ueda liền thả tấm thẻ học sinh vào túi nhựa rồi đưa cho một giám định viên gần đấy.

“Shimokawa, cậu làm ơn lục soát các vật dụng của nạn nhân giúp tôi. Isobe thì cùng những người khác đi tìm xem xung quanh đây còn vật gì khả nghi không. Tôi ra ngoài một chút.” Dứt lời, thanh tra Ueda liền đứng dậy, phủi bụi trên đầu gối rồi bước ra ngoài tấm bạt.

“Sư huynh, chú ấy đi đâu thế?” Shindo lên tiếng thắc mắc sau khi ông thanh tra đã đi khỏi.

“Đi làm công việc đáng ghét nhất,” Shimokawa vừa lục soát quần áo thi thể vừa đáp. “Liên lạc với gia đình nạn nhân.”

Hình dung cảnh tượng xảy ra sau khi ông thanh tra gọi đến gia đình nạn nhân, Isobe không khỏi cảm thấy đau xót. Tiếng gào thét bất lực vẳng ra từ ống nghe điện thoại, hình ảnh bố mẹ cô bé gục ngã trong phòng để xác. Cảnh tượng mà cậu không bao giờ muốn phải chứng kiến.

Isobe cùng Shindo lại gần nhóm Muraki và Matsumoto đang tập trung lùng sục trong bụi rậm đằng sau thi thể. Nghe cả hai nói rằng thanh tra Ueda chỉ thị phụ giúp việc lục soát hiện trường, Muraki liền phân công, “Thế Isobe phụ trách khu vực bãi cỏ và bụi rậm bên phải thi thể, còn Shindo sang bên trái nhé. Nghe dặn đây! Khu vực này đã được bên giám định càn quét sạch sẽ đến không còn một hạt bụi rồi, nên đừng để ý tiểu tiết quá. Quan trọng là phải nắm bắt tổng quan hiện trường. Quên nữa, có phát hiện ra thứ gì khả nghi cũng tuyệt đối không động vào. Cứ để nguyên rồi gọi tôi hoặc anh Matsumoto đến. Hiểu chưa?”

Isobe quyết định khám xét khu vực bụi rậm trước. Cậu cũng chẳng mong mình có thể bắt gặp cành cây hằn vết tay Người kéo hay những vật dụng in dấu vết lạ hoặc mấy mẩu giấy ghi mật mã rơi rớt đâu đấy. Nếu có thì giám định đã nhặt sạch rồi, vì đây đều là các vật chứng dễ thấy, bất kì điều tra viên nào cũng phải lưu ý tìm trước chứ chưa cần đến dân trong nghề giàu kinh nghiệm như Shimokawa hay Matsumoto.

Việc điều tra tội phạm 99% dựa trên nỗ lực, 1% còn lại dựa vào linh tính. Nhưng những nhiệm vụ Isobe được giao bấy nay chẳng liên quan gì đến linh tính, phần lớn đều hoàn thành với kết quả tốn công vô ích. Tuy đã nhận rõ sự thật bi ai đó, nhưng thi thoảng Isobe lại được trời ban cho vận may hiếm thấy. Trong lúc đang mò mẫm giữa dày đặc những lùm cây thấp, Isobe đã phát hiện ra một thứ mà cậu không bao giờ ngờ tới.

Giữa các nhánh cây là một cây kéo cắm xuống đất.

Với khả năng quan sát của mình, Isobe nhận định cây kéo này thuộc cùng một loại với cây kéo hung khí cậu thấy ban nãy. Nếu cây kéo kia là một mầm hoa độc địa nảy nở trên cổ nạn nhân, thì cây kéo này là hạt mầm bay lạc của nó. Nhất định là món đồ đánh rơi của Người kéo.

Isobe ngẩng lên, cất tiếng gọi Muraki.