
Người Kéo
Tổng số chương: 25
Xoẹt, xoẹt, xoẹt, Người kéo đến
Cắt trò chơi của đám ác nhân
Xoẹt, xoẹt, xoẹt, Người kéo đến
Có khi mày cũng nằm trong danh sách của hắn đấy
Có khi mày cũng nằm trong danh sách của hắn
- Scissor Man, XTC
Nạn nhân thứ ba của Người kéo sống ở khu Takaban. Tôi hầu như chưa nhìn thấy hay nghe đến cái tên Takaban này bao giờ. Lúc mới nghe, tôi cứ ngơ ngác không biết khu phố ấy nằm chỗ nào trong quận, ga gần nhất là ở đâu và muốn đến đó thì nên bắt chuyến tàu nào.
Thứ Sáu, ngày 10 tháng Mười, tôi quyết định nghỉ làm một hôm để đến Takaban xem thử. Tôi vẫn chưa biết Tarumiya Yukiko mặt ngang mũi dọc ra làm sao, song tôi tự nhủ rằng hôm nay chỉ cần xác nhận nơi ở của cô bé là được.
Bữa sáng của tôi gồm một miếng bánh mì nướng cùng trứng ốp la lòng đào, bông cải luộc còn thừa từ tối qua và một tách cà phê nhiều sữa. Tôi vừa ăn vừa lấy tập bản đồ bỏ túi yêu thích vẽ 23 quận Tokyo ra để lên chiếc bàn ăn tròn, giở xem quận Meguro.
Khu Takaban tọa lạc gần trung tâm quận. Nếu bắt tàu chạy theo hướng Nam-Bắc, cắt ngang qua hai con đường thì sẽ đến ga gần đó nhất là ga Đại học Gakugei. Thế tức là từ căn hộ của mình, tôi cần bắt tàu, đổi tuyến để xuống được ga Đại học Gakugei. Quãng đường khá xa nên tốn nhiều thời gian đây. Dám chừng sẽ ngốn của tôi nguyên ngày.
Tôi nhặt chiếc túi đeo vai vứt dưới sàn lúc về nhà tối qua, lục túi lấy một tờ giấy in ở chỗ làm rồi giở ra, đặt cạnh tập bản đồ.
Họ tên: Tarumiya Yukiko
Địa chỉ: Căn 503 Desert Himonya,
số 4-13 khu Takaban, quận Meguro
Số điện thoại: xxx
Tôi so địa chỉ trên tờ giấy với bản đồ. Khối phố 4 Takaban có một mặt tiền ở đường Meguro. Tức là bắt tàu đến chỗ đổi tuyến thì dừng, chặng còn lại đi xe buýt cũng được. Như thế có gần hơn không nhỉ?
Tôi vừa nhấm nháp miếng bánh mì nướng phết đầy bơ vừa nhìn xoáy vào bản đồ. Loại bỏ túi này cầm theo thì tiện, nhưng các chi tiết bị in bé đến nhức mắt, tôi không thể ước lượng được khoảng cách từ ga Đại học Gakugei đến đường Meguro chính xác là bao xa.
Sau một hồi nghĩ ngợi, tôi quyết định sẽ thẳng tiến đến ga Đại học Gakugei chỉ bằng phương tiện tàu điện, vì đổi sang xe buýt thì dù quãng đường có ngắn hơn đi nữa tôi cũng không biết mình sẽ tiết kiệm được bao nhiêu thời gian.
Ăn xong, tôi đem đĩa tách bỏ vào bồn rửa, thay áo len, quần jeans, đeo đồng hồ. 7 giờ sáng. Giờ này đúng là có hơi sớm thật, nhưng lần đầu tiên đi đến chỗ lạ thì cũng nên chừa thời gian dư dả ra một chút.
Tôi xỏ giày thể thao rồi rời khỏi nhà. Hôm nay chỉ đi thị sát nên cũng không cần mang túi theo làm gì. Tôi khóa trái cửa lại rồi bước xuống bậc thang tối hù của chung cư.
Căn hộ tôi đang trọ thực chất chỉ là một cái hộp sắt chứ chẳng phải căn hộ một phòng ngủ như công ty bất động sản đã từng một mực nói với tôi.
Tôi chẳng biết nó được xây từ thời nào, nhân viên bất động sản cũng thận trọng tránh nhắc đến chủ đề ấy. Nói tóm lại, chung cư trông cũng chẳng khác gì các tòa nhà được xây từ hồi xửa xưa là mấy.
Tường bê tông thì ngả màu vàng vọt cáu bẩn, đèn chiếu sáng trên trần nhà thì tầng có tầng không. Chủ chung cư không chịu thay đèn huỳnh quang, đến cả hệ thống điện cũng không được ai bảo trì. Sống ở đây được cái chẳng bao giờ bị hàng xóm soi mói, chung cư cũng ở gần nhà ga. Sau khi người chủ cũ rời đi, tôi đã quyết định dọn vào chỗ này phần lớn cũng vì đi lại tiện lợi.
Qua cửa chung cư, tôi bước ra đường, bấm nút báo hiệu ở cột đèn để xin sang đường. Ga tàu điện ngầm đã ở ngay trước mặt. Dòng quảng cáo “đến nhà ga chỉ mất chừng một phút” của công ty bất động sản xem chừng không phải phóng đại hay lừa đảo, ngược lại, tôi còn thấy ước tính ấy khiêm tốn hơn thực tế. Nếu chạy hết tốc lực chắc chẳng mất đến một phút đâu.
Tàu điện chạy qua khu này theo lộ trình đường sắt trên cao. Dù cũng bình thường thôi, nhưng gọi là tàu điện ngầm rồi lại leo lên mặt đất thì cũng hơi ngạc nhiên.
Đoàn tàu hướng về trung tâm thành phố, trong toa đông nghẹt người đi làm và đi học.
Ánh mắt tôi tự nhiên dạt đến chỗ mấy nữ sinh trung học. Hồi mới tới Tokyo, lúc nào tôi cũng nhìn thấy những con nhóc tóc nhuộm đỏ hoe, lông mày thì cạo sạch, đuôi mắt kẻ sắc lẹm, vớ rộng thùng thình, cổ chân nhuộm màu cam nhạt như màu lông đười ươi, trông chẳng khác gì bị bệnh da liễu. Vả lại, trào lưu bây giờ của lũ trẻ hình như là nhuộm tóc thành bạc phếch thì phải.
Mặc đồng phục thủy thủ rồi nhuộm tóc bạc như y bác sĩ nhìn cứ phản cảm thế nào, như kiểu cosplay mấy mụ già hành nghề vũ nữ thoát y ấy, nhưng người trong cuộc hẳn chỉ đang nghĩ rằng mình trông hợp thời lắm thôi. Đứa nào cũng ưỡn ngực đầy tự hào, khoe khoang với những hành khách khác trên toa.
Nhưng khi đến trường thì chúng nó phải làm sao? Trên đời không có trường cấp ba nào để yên cho đám học sinh nghênh ngang đem quả đầu bạc phếch ấy vào học đâu nhỉ? Hay mấy đứa nó lén nhuộm tóc trong nhà vệ sinh nhà ga bằng thuốc nhuộm lấy trộm của mẹ?
Tôi ghì lấy dây nắm trên toa tàu, miên man nghĩ về Tarumiya Yukiko, cô bé mà tôi vẫn chưa một lần gặp mặt. Tóc em liệu có bị nhuộm bạc phếch không? Chắc là không đâu, quả đầu giả tạo ấy không hợp với cô bé chút nào. Nhưng lỡ tôi vỡ mộng khi nhìn thấy cô bé thì sao? Mong rằng cô bé sở hữu một mái tóc óng ả thướt tha.
Sau một quãng đường dài dưới lòng đất thì đến chỗ phải đổi tuyến. Tôi ngồi xuống băng ghế ở nhà ga, đợi tàu đổi.
Theo thói quen, tôi lia mắt đọc hết toàn bộ quảng cáo của các tờ tạp chí dán trên tường nhà ga. Mấy dòng tít của những tờ tuần san và nguyệt san truyền tải các loại thông tin rất đa dạng.
Nội chiến nổ ra tại một nước cộng hòa ở châu Phi, giá gạo tăng cao do mùa hè năm nay nhiệt độ giảm mạnh, tin đồn một nghệ sĩ sân khấu đã sáu mươi tuổi có quan hệ tình dục với con gái nuôi, chất liệu giả lông thú lộng lẫy cho mùa đông năm nay, trào lưu nhuộm tóc bạc của giới trẻ hiện nay gọi là “bờm trắng”, vân vân…
Những dòng tít này có lẽ sẽ hữu ích với ai đấy, nhưng đối với tôi thì chúng chỉ là thông tin vô bổ. Trước hết, tôi đâu cần biết những vụ việc đang xảy ra ở đất nước châu Phi mà ngay cả tên tôi còn không đọc được. So với cơm gạo thì tôi thích ăn bánh mì hơn. Còn nữa, dù là quan hệ tình dục với con gái nuôi hay chó cưng hay laptop đi nữa, chỉ cần ông nghệ sĩ kia thích là đủ, bới móc làm gì? Tôi không mặc trang phục giả lông thú. Hơn nữa, tôi chẳng có tí hứng thú nào với đám con gái theo trào lưu “bờm trắng”.
Thứ gây tò mò nhất đối với tôi lúc này chỉ có Người kéo. Hiện giờ Người kéo chỉ là thần tượng của đám báo lá cải và hiếm khi được nhắc đến trên các phương tiện truyền thông chính thống, như một đứa con cưng giờ đã thành con ghẻ.
Vụ án gần đây nhất của Người kéo xảy ra đã hơn nửa năm, thông tin báo chí cũng vì thế mà trở nên lộn xộn. Trong quãng thời gian Người kéo ẩn mình cũng có nhiều vụ án, tai nạn và scandal khác gây chấn động dư luận hơn.
Tôi chẳng tiếc nuối gì việc Người kéo bị sụt giảm danh tiếng. Ngược lại, tôi còn cảm kích vì truyền thông đã không còn hứng thú với tên sát nhân này nữa.
Từ vụ Konishi Mina bị sát hại ở tỉnh Saitama đến vụ Matsubara Masayo bị sát hại trên bờ vịnh quận Edogawa, hễ có người bị hại là cánh truyền thông sẽ bâu vào xâu xé ngay. Vậy nên tốt nhất là đừng ai nhắc đến Người kéo nữa. Nếu được, tôi chỉ mong tên tuổi Người kéo rơi vào quên lãng luôn.
Một chiếc tàu điện màu cam dừng lại ở ga. Tàu đổi đây rồi.
Chắc là do tàu di chuyển từ trung tâm ra ngoại ô nên khoang vắng vẻ đến nỗi một người có thể thoải mái ngồi phần ghế dành cho ba người. Tàu ra khỏi đường hầm âm u của nhà ga để chạy lên mặt đất. Từ đường ray trên cao, tàu chạy xuống lòng đất, rồi lại chạy lên đường ray trên cao khác.
Như một con chuột sợ bò lên chỗ sáng, tôi chỉ dám di chuyển trong lòng đất của khu trung tâm để đi từ Bắc đến Nam.
Từ cửa sổ nhìn ra, trời đã bắt đầu âm u vần vũ. Dạo gần đây trời cứ mưa dầm dề, chẳng mấy khi tạnh. Sắp tới còn là ngày hội Sức khỏe toàn dân, phen này hội thao phải hủy hết rồi. Hội thao của trường cấp ba Hazakura nơi Tarumiya Yukiko theo học có sao không nhỉ?
Cuối cùng tàu cũng đến ga Đại học Gakugei, tôi tính nhẩm rồi trả phí đi tàu cho quãng đường ban nãy ở máy tự động, đoạn bước ra ngoài.
Cắt ngang ga tàu nằm ở tuyến đường sắt trên cao là một khu phố mua bán nhỏ. Tiệm sách, tiệm ăn, hàng tạp hóa, tiệm bán đồ điện khí, quầy bán mì soba. Toàn là những hàng quán quen thuộc thường gặp ở các bến tàu tư nhân. Loa phóng thanh mắc trên dàn dây điện bọc nhựa an toàn đang phát nhạc nho nhỏ.
Tôi móc bản đồ từ túi quần sau, kiểm tra lại một lần nữa rồi đi về phía đường Meguro. Theo bản đồ thì khu này đã là Takaban của quận Meguro rồi. Hẳn là tôi đang ở gần căn hộ của Tarumiya Yukiko lắm đây.
Tôi tiếp tục men theo lối hẹp lát gạch sau khi đi hết con đường nằm gọn dưới mái vòm của khu mua bán. Thấp thoáng bên phải có một hàng rào bằng kẽm, đối diện là một tòa nhà lớn nhưng không cao lắm. Trên tầng thượng có một tháp tín hiệu sơn màu đỏ tươi trông đến là bắt mắt. NTT chi nhánh Meguro.
Không hiểu sao, hình như tôi đi nhầm đường rồi thì phải. Qua khỏi NTT thì ra một con đường lớn. Đường Meguro đây rồi. Biển báo màu xanh bên vệ đường ghi bằng cả chữ Nhật và chữ La tinh. Tôi dừng ở ngã tư có cột đèn giao thông, giở bản đồ ra xem lại, Tôi so hình vẽ trên bản đồ với khung cảnh thực tế, xác định vị trí tương quan giữa NTT và bưu điện. Muốn tìm chung cư Desert Himonya thì có lẽ từ đây chỉ cần đi hướng bên phải.
Tôi cất bản đồ vào túi quần rồi tiếp tục bước đi. Lúc trông thấy tấm biển khu dân cư bằng nhựa màu xanh biển gắn trên cột điện đề “Takaban, khu phố 4”, tôi lập tức rẽ vào con đường nhỏ ngay đấy. Từ đây chỉ thấy được một mặt chung cư. Đành phải mò mẫm trong khu phố phức tạp này vậy.
Đến là khổ với hệ thống chung cư nhiều vô kể của Tokyo. Sau chừng hai mươi phút lòng vòng, rốt cuộc tôi cũng phát hiện ra một chung cư màu đỏ gạch. Chẳng biết tòa nhà xây theo phong cách gì, nhưng trông tổng thể như một sân khấu múa rối khổng lồ làm bằng sa thạch đang đổ hẳn sang bên. Bức tường tiếp giáp mặt đường bị đục lỗ chỗ bằng các ống nhựa ruột gà, những ô chữ nhật lớn thụt vào có lẽ là ban công, còn những ô chữ nhật bé hơn thì có vẻ là cửa sổ. Cửa sổ nhà tắm.
Bên trên cửa ra bằng kính có khắc dòng “Desert Himonya” bằng kí tự La tinh theo lối viết thư pháp. Hàng rào kẽm nằm ven con đường ban nãy có gắn biển đề “Nơi để vật dụng dành riêng cho chung cư Desert Himonya”. Suy cho cùng chỉ là bãi đổ rác thôi mà, có cần cầu kì thế không?
Sau khi bước qua cánh cửa tự động, chân tôi lập tức bước lên khoảng sân trước lát gạch màu pastel. Gần kế bên cánh cửa tự động choán cả mặt tiền tòa nhà là hộp máy điều khiển khóa tự động có hai cạnh cong cong.
Hệ thống này không cho phép người lạ vào nếu như sau khi bấm số căn hộ, chủ nhà không lên tiếng cho phép qua chiếc loa gắn bên trong máy. Nói cách khác, hộp máy kim loại trơn nhẵn như búp bê chạm bằng gỗ này chính là tên lính canh không ngơi nghỉ của các chủ hộ.
Hôm nay cũng chưa cần vào chung cư. Tôi đến gần dãy hòm thư gắn âm tường để kiểm tra hòm thư đề số 503.
503 Tarumiya Kazuhiro
Bố của Yukiko tên là Kazuhiro thì phải. Hài lòng rồi, tôi lấy tay xoa cái đầu trơn nhẵn của tên lính canh kim loại và rời khỏi Desert Himonya.
Tôi quay ra đường Meguro, vừa đi vừa ghi nhớ đường đi nước bước đến khu này. Tôi định bụng chiều tan làm sẽ bắt thử xe buýt về chỗ đổi tàu xem sao.
Tôi cần xin nghỉ thêm một ngày nữa để đến Desert Himonya, theo dõi xem Yukiko mặt ngang mũi dọc ra sao.
9 giờ sáng hôm sau, tôi đến chỗ làm. Tôi đang làm thời vụ ở Nhà xuất bản Himurokawa, đi thẳng từ nhà trọ đến không cần đổi phương tiện di chuyển. Đấy là một trong những lý do khiến tôi tăng hợp đồng thuê nhà thành dài hạn và làm việc ở đó những hơn hai năm.
Đến ga, tôi đi lên mặt phố, bước vào một con hẻm nhỏ nằm ở góc đường lớn, thế là tòa nhà năm tầng của Nhà xuất bản Himurokawa đã hiện ra trước mắt. Nhưng không phải tất cả đều là của họ. Hiniurokawa chỉ thuê tầng ba và tầng bốn, mang tiếng là nhà xuất bản nhưng cả thảy chỉ có hơn chục nhân viên.
Tôi bước vào thang máy rồi bấm nút lên tầng bốn. Bảng nút tầng của cái thang máy này có dạng hình tròn nhô ra ngoài, âu cũng hiếm thấy vào thời nay.
Nhà xuất bản cơ cấu rõ ràng cho hai tầng. Tầng ba là phòng Kinh doanh, tầng bốn là phòng Biên tập. Về danh nghĩa rất rạch ròi, nhưng thực tế thì các phòng ban nội bộ không thể tuân theo lằn ranh đó được. Cứ vào giữa tháng, tức là đợt bận rộn nhất của nhà xuất bản, nhóm ba nhân viên thời vụ chúng tôi lại phải chạy đôn chạy đáo giữa hai bộ phận, đến nỗi ranh giới giữa hai bên coi như xóa nhòa.
Công việc của tôi hiện ở tình trạng thế này. Sau khi lấy hơn năm mươi bản photo ở tầng bốn thì xuống tầng ba để phụ giúp phân loại, đóng thùng các bộ giáo trình hoặc gửi chúng đi, rồi quay lại tầng bốn, giả vờ hiệu đính bản thảo bằng bút chì đỏ, không thì cũng đeo đôi găng nhựa mỏng dính để xếp mấy tấm phim dương bản vào trong phong bì.
Mỗi lần như thế, trưởng phòng Okajima sẽ gọi tôi lại, đưa cho một địa chỉ để sai đi lấy tập bản thảo quý báu mà ông giáo sư gì-đó của trường đại học nào-đó đã dày công viết. Lắm lúc các ông ấy bắt tôi phải đợi dài cả cổ vì bản thảo vẫn chưa xong. Bấy giờ thì đừng nói đến cà phê, ngay một cốc nước máy họ cũng không màng đến chuyện mời tôi.
Để miêu tả công việc của tôi thì chắc chỉ có cụm từ “tối mắt tối mũi”. Lúc mở cánh cửa lắp kính mờ của phòng Biên tập ra, tôi có thể lập tức cảm nhận bầu không khí hẵng còn thong dong của những ngày đầu tháng. Dù gì thì hôm nay cũng là thứ Bảy. Vả lại, trạng thái quay cuồng đã là chuyện của cuối tháng trước, tức hơn mười ngày trước đây. Bầu không khí nhàn nhã đang lởn vởn trong phòng này âu cũng là điều hiển nhiên thôi. Người thì đang nhấp trà hoij*, người thì đang dọn dẹp mặt bàn bừa bộn lâu ngày, người thì lơ đãng nhìn màn hình chờ của máy tính. Thậm chí đến cả một người khét tiếng nghiêm túc như trưởng phòng Okajima cũng đang chống cằm mơ màng nhìn ra cửa sổ.
Song, làm gì có chuyện cả phòng có thể cùng nhau nhàn rỗi thế này được.
“A, đúng lúc lắm.” Vừa thấy tôi ngồi vào bàn, Sasazuka đã cất tiếng gọi. Đôi mắt láo liên phía sau cặp kính gọng bạc của gã khiến tôi chỉ muốn nhìn đi chỗ khác, miệng gã thì liến thoắng, “Gọi chuyển phát đến đi, chuyển phát bằng xe máy ấy.”
Tại sao lúc nào gã đàn ông này cũng lảng tránh việc nhìn thẳng vào mắt đối phương thế nhỉ?
“Gửi cái này đi ấy ạ?” Tôi hỏi lại.
“Đúng rồi. Đến chỗ anh Wada, nhà thiết kế ấy, biết địa chỉ rồi chứ gì?”
“Vâng ạ.”
Lúc tôi lấy tập địa chỉ ra để trên bàn, Sasazuka ghé lại gần, đưa cho tôi ba chiếc đĩa từ quang, “Đây này.”
“Vâng ạ.”
Tôi vừa dứt lời, Sasazuka đã trở lại bàn làm việc, cầm bút bi hí hoáy gì đó lên mẩu giấy nhớ. Đang rỗi rãi thế thì thừa sức tự gọi người chuyển phát tới chứ. Dường như gã đàn ông nhỏ con tuổi chừng băm lăm ấy luôn tâm niệm rằng không bóc lột sức lực của đám nhân viên thời vụ thì thật uổng phí hay sao ấy, từ hồi tôi mới vào làm ở phòng Biên tập thì đã gã sai phái chẳng thiếu việc gì từ nhỏ đến lớn. Hôm nay là thứ Bảy, công việc chắc chắn không nhiều, thế mà gã vẫn bới ra việc để bắt chúng tôi làm.
“Gã nghĩ chúng ta là nô lệ hay gì?” Đồng nghiệp Yamagishi đã từng bực tức kêu lên như vậy trong giờ giải lao ở phòng ăn.
Yamagishi ngoài ba mươi, xin vào làm thời vụ ở Himurokawa đã được nửa năm, sau khi xin nghỉ ở một nhà máy nào đó. Trong bữa tiệc liên hoan nho nhỏ mừng nhân viên mới vào làm, với gương mặt đỏ gấc vì nốc chuhai*, Yamagishi đã giải thích lý do nghỉ việc trước đây là “Vì tôi muốn làm công việc mang tính sáng tạo”, song thực hư thế nào thì chẳng ai rõ. Anh đeo cặp kính gọng đen trông rất bền, bề ngoài khá nóng nảy và đầy tự tôn, có khi nghỉ việc vì cãi nhau với sếp cũ không chừng.
Yamagishi đã tính sẽ phấn đấu thành nhân viên chính thức trong vòng một, hai tháng, để rồi sau đó vùi mình vào công việc sáng tạo anh hằng ao ước. Thế mà suốt nửa năm nay công việc quanh đi quẩn lại toàn rót trà bưng nước với dọn dẹp lặt vặt, hẳn là khác xa những gì anh ta tưởng tượng. Chưa kể bị một người chẳng lớn hơn mình là bao sai phái đến điều, kiên nhẫn chừng nào cũng không chịu nổi.
Phần tôi thì không cầu tiến như Yamagishi nên đành phải ngoan ngoãn vâng lời Sasazuka. Tôi nhấc điện thoại bàn, bấm số giao hàng đã nhẩm thuộc lòng.
“Speed King* đây ạ.” Giọng đáp lanh lảnh của một chàng trai vang lên từ đâu dây bên kia. Tên công ty kì thật, nhưng cước phí thì rẻ.
Tôi báo tên và số điện thoại Nhà xuất bản Himurokawa, rồi đọc địa chỉ người nhận, vừa lắng nghe bài rock đinh tai nào đấy cài làm nhạc chờ của công ty chuyển phát, tôi vừa ngồi đợi một lúc, sau đó thì có người báo lại rằng nhân viên chuyển phát chừng hai mươi phút sau sẽ đến.
Thấy trời đang mưa, tôi liền cẩn thận dùng bọc nhựa quấn chiếc đĩa từ lại rồi mới bỏ nó vào chiếc phong bì giấy nâu, sau đó dán lại bằng băng dính. Đoạn, tôi lấy mẫu giấy gửi từ ngăn bàn ra, ghi địa chỉ và số điện thoại của Wada rồi dán lên mặt trước của phong bì.
Thấy tôi đặt chiếc phong bì đã chuẩn bị xong lên bàn, Sasazuka toan mở miệng sai khiến việc tiếp theo. Tôi vờ như không để ý, đứng dậy đi đến bàn làm việc của trưởng phòng Okajima.
Trưởng phòng đang đưa tay chống cằm, mắt lơ đãng ngắm mây trời ngoài cửa sổ. Lúc tôi tới gần, bà vẫn giữ nguyên tư thế, miệng lầm bầm, “Trời âm u đến khi nào nữa đây?”
Trưởng phòng Okajima là một phụ nữ ngoài năm mươi. Mái tóc cắt ngắn điểm bạc ôm lấy khuôn mặt dài ngoẵng không trang điểm, thường vận Âu phục kiểu dáng đơn giản nhưng toát ra vẻ đắt tiền.
Lần đầu tiên gặp mặt, tôi có ấn tượng bà là một phụ nữ thành đạt theo phong trào nữ quyền. Một tay bà lèo lái cả phòng Biên tập, nên nhất định là có thực lực. Chỉ cần nhìn qua tác phong làm việc của bà là đủ hiểu.
Tôi là người có kinh nghiệm sống nghèo nàn, nên mỗi khi nghe đến hình tượng phụ nữ sắc sảo như trưởng phòng Okajima, trong đầu chỉ liên tưởng đến một vị bác sĩ nào đấy mà thôi.
“Gì hở?” Trưởng phòng Okajima tươi cười nhìn tôi.
“Cháu muốn xin nghỉ thêm vào thứ Ba tới ạ.”
“Thứ Ba tới… tức là ngày 14?” Okajima liếc tờ lịch để bàn. “Không thành vấn đề, cháu bận việc gì à?”
“Dạ, cũng có chút chuyện ạ.”
“Tôi có hỏi thì cháu cũng không nói rõ là chuyện gì đâu, phải không?”
Tôi làm thinh. Đâu thể nói với sếp rằng mình xin nghỉ để đi rình nữ sinh cấp ba.
“Tôi cho phép. Lúc ấy công việc hẵng còn thư thư.” Nói đoạn, bà thêm vào với giọng đùa cợt. “Mà này, nghỉ nhiều quá thì tôi không cho lên nhân viên chính thức đâu nhé.”
“Cháu cũng không muốn thành nhân viên chính thức ạ.”
Nghe tôi đáp, Okajima thở dài rõ to, bà chống hai khuỷu tay lên mặt bàn, đan các ngón lại rồi gác cằm lên. Nở nụ cười như một đứa trẻ tinh nghịch, bà nhìn thẳng vào mặt tôi, “Cháu nên bỏ cái thói nói năng cục súc ấy đi. Cứ như vậy ai mà tiếp tục trò chuyện cho được?”
“Cháu xin lỗi ạ.”
“Không phải xin lỗi đâu.”
Trưởng phòng Okajima lại đưa mắt dõi ra ngoài cửa sổ. Vì đã xin phép nghỉ nên tôi cũng về chỗ. Sasazuka ngay lập tức tiến tới gần, bảo rằng nếu không có việc gì làm thì vào kho dọn đồ đi. Vốn dĩ tôi cũng muốn vào đó nên rất biết ơn mệnh lệnh của gã.
Gọi là kho, nhưng thực chất chỉ là một gian phòng ở cạnh phòng Biên tập chứ chẳng phải cả một cái kho lớn nằm ở tòa nhà khác. Trong phòng chật kín kệ sắt chất đầy giấy tờ. Lần theo các kệ cũng như lần theo lớp lớp lịch sử của Nhà xuất bản Himurokawa.
Ví như chỉ cần nhìn chỗ lưu trữ bản thảo đã qua sử dụng của các ấn phẩm trước đây, ta sẽ thấy ngay kệ dưới cùng là nơi nhét đầy túi nylon chứa bản thảo viết tay, tiếp theo là hàng chồng giấy tờ đánh máy, kế đến là những thùng các tông đựng cả đống đĩa mềm.
Bước sang thời hoàng kim của công nghệ thư điện tử, bản thảo giấy xem như tuyệt chủng nên kệ còn một chỗ trống huơ trống hoác.
Tiện đây, chẳng biết vì lý do gì mà bây giờ người ta cứ nơm nớp lo sợ một ngày nào đó ổ cứng với dung lượng khủng kết nối internet sẽ hư sạch dữ liệu trong vòng một đêm, nên nhà xuất bản cứ in toàn bộ bản thảo trao đổi qua e-mail để lưu trữ. Nhờ thế nên phía trên thùng các tông đựng đống đĩa mềm mới lại chồng chất cả đống giấy tờ, trông mới hoài cổ làm sao.
Tôi lách qua lối đi giữa hai hàng kệ sắt để vào kho, nơi có tủ đựng hồ sơ.
Nhà xuất bản Himurokawa vốn là một đơn vị chuyên phát hành các ấn bản học đường, sản phẩm chủ lực là kỉ yếu tốt nghiệp cấp ba, sổ tay sinh viên, hoặc là các dạng tờ bướm.
Tuy nhiên, sự suy giảm số lượng trẻ em đến trường đã đẩy lĩnh vực kinh doanh này vào cảnh thất bát. Thế nên vài năm trước, nhà xuất bản phải chuyển sang mảng khác.
Tôi khom người trước tủ đựng hồ sơ. Hồ sơ lưu trữ theo địa chỉ và tên của từng học viên theo thứ tự bảng chữ cái. Tôi mở ngăn tủ dành cho quận Meguro, thành phố Tokyo. Nhác trông đã thấy hồ sơ của Yukiko.
Rồi, để xem thành tích mới nhất của cô bé thế nào.
Tiếng Anh 84 điểm
Toán 94 điểm
Lý-Hóa 79 điểm
… …
Điểm các môn tự nhiên có rớt một chút so với kì trước, nhưng nhìn chung thành tích vẫn rất đẹp. Đặc biệt là Toán, 94 là quá giỏi rồi. Đây còn là điểm số cao nhất của cô bé nữa.
Tôi đọc thư phản hồi của Yukiko. Từng hàng chữ viết bằng bút bi đều rất nắn nót.
Bài thi Lý-Hóa lần này có hơi khó nên em chỉ trả lời trong phạm vi hiểu biết của mình. Vốn dĩ em cũng không giỏi các môn tự nhiên. Em nghĩ từ nay mình sẽ phải cố gắng học hành hơn nữa.
Tại sao điểm Toán cao như thế mà lại học dở các môn tự nhiên nhỉ? Đối với một đứa tối dạ như tôi thì môn nào cũng như môn nào thôi.
Tôi thấy tò mò hơn về Yukiko.
Tôi trả hồ sơ về lại ngăn tủ.
Mấy năm trước, Nhà xuất bản Himurokawa có hợp tác với một công ty để tổ chức các lớp luyện thi dành cho học sinh cấp hai. Khóa học không muốn chiêu mộ học viên từ khắp cả nước vì dễ dẫn đến việc dàn trải, nên chỉ tập trung vào việc luyện thi cho các học sinh giỏi ở trung tâm thành phố.
Trên tờ bướm quảng cáo còn ghi “Phương pháp giảng dạy tối ưu dành cho học sinh ưu tú”. Hầu hết phụ huynh có con học cấp hai đều chắc mẩm rằng cô chiêu cậu ấm nhà mình phải thuộc hạng giỏi giang lắm, thế nên lớp học chẳng sợ thiếu học viên.
Công ty đối tác lo quảng bá và chiêu sinh, Nhà xuất bản Himurokawa thì đảm nhiệm phần việc in ấn các bộ giáo trình gửi cho học viên, chỉnh sửa và chấm điểm các bài thi gửi về.
Vì đã có nhiều năm làm ở mảng giáo dục nên nhà xuất bản có mối quan hệ rất khăng khít với các trường, khỏi lo việc không kiếm ra thầy cô dạy cấp hai nào cho khâu soạn câu hỏi, càng không sợ thiếu sinh viên cao học cần làm thêm nhận việc soạn đề thi.
Tủ hồ sơ lưu trữ đủ loại giấy tờ như đơn xin nhập học của các học viên ở vùng Kanto, bảng điểm và thư phản hồi, vân vân. Tôi biết đến Konishi Mina và Matsubara Masayo chính là nhờ mớ lưu trữ này. Ngay cả việc phát hiện ra cô bé Yukiko mà tôi vẫn chưa một lần thấy mặt cũng là từ những ngăn kéo ở đây. Tôi đang sắp xếp mọi thứ trong kho lưu trữ về đúng vị trí ban đầu của chúng thì cửa kho đột ngột mở ra, Sasazuka ở bên ngoài nhòm vào, “Người giao hàng đến rồi đấy.”
Tôi còn chưa kịp thấy mặt thì gã đã biến đi chỗ khác, xem ra Sasazuka không có hứng thú tiếp chuyện với người giao hàng.
Tôi quay lại phòng Biên tập, đưa gói phong bì cho tay giao hàng có hình xăm trên mu bàn tay rồi thanh toán cước phí. Lúc trông thấy mảng xăm trổ hình thỏ Bugs ấy, chẳng hiểu sao tôi thích thú đến nỗi suýt chút nữa là mờ miệng hỏi han về nó.
Thứ Bảy tôi tan ca lúc 4 giờ chiều. Tôi khoác túi lên vai, chào gọn lỏn một tiếng “Xin phép về trước” đoạn rời phòng Biên tập vào đúng 4 giờ.
Xuống khỏi tàu điện, tôi chọn đường vòng để ghé sang hiệu tân dược ven đường. Vì hôm nay là thứ Bảy nên tôi buộc phải đi mua sắm. Mấy năm gần đây các hiệu tân dược kiểu Mỹ mọc lên ngày một nhiều, ngoài thuốc men và các dụng cụ y tế, họ còn bày bán bột giặt, vật dụng nhà bếp, nước giải khát và thực phẩm. Nhìn chung thì giống như siêu thị có bán thuốc vậy. Nhưng hôm nay tôi đến mua dược phẩm.
Tôi ngắm nghía các kệ sản phẩm hồi lâu rồi chọn mua dung dịch sát khuẩn cresol.
Dĩ nhiên, là để tự tử.
Tôi thức dậy trên giường cùng cơn đau bỏng rát trong lồng ngực, có cảm giác như từ bao tử đến vòm họng đang mọc ra hàng ngàn mũi kim châm. Dịch vị cũng đang trào lên trong cuống họng.
Tôi tì vai phải lấy đà gượng dậy, với tay xuống cạnh giường để chộp lấy cái túi dùng để đựng đồ mua ở hiệu tân dược. Cứ thế, tôi vừa nằm dài trên giường vừa ghé miệng vào túi nôn thốc nôn tháo thứ dịch vị vàng vọt. Màng nhầy trong miệng gây cảm giác tê tê, cơn đau tái người lan đến tận sống mũi.
Đã nôn hết dung dịch sát khuẩn mà cơn buồn nôn vẫn không chịu lắng xuống. Cơ bụng và các bắp thịt ở vai căng cứng trong tư thế sẵn sàng cho một đợt nôn mửa nữa, nhưng còn gì đâu để mà nôn. Thứ duy nhất trào ra khỏi tôi lúc này chỉ có nước mắt.
Khi cơn co giật cuối cùng cũng dừng lại thì cơn bỏng rát còn dùng dằng nơi lồng ngực. Tôi xoay xở ngồi dậy được và loạng choạng đi vào nhà vệ sinh. Căn hộ tối om, tôi đành phải nhìn nhờ ánh đèn đường nhập nhoạng từ khung cửa sổ.
Tôi bật đèn nhà vệ sinh lên rồi nhìn vào gương. Mép môi có màu vàng lợt lạt, sưng phồng. Dùng ngón tay chạm vào thì thấy đau rát, tấy đỏ lên.
Hai má tôi cũng sưng vù, nhưng không phải là do dung dịch sát khuẩn, tôi đã quen nhìn thấy bộ dạng này rồi.
Rửa mặt súc miệng xong, tôi buông mình ngồi xuống ghế.
Trên bàn tròn có một chiếc cốc, bên trong còn quá nửa thứ dung dịch vàng vọt bốc ra thứ mùi chỉ ngửi thôi cũng đã cay mũi. Tôi rót không nhiều, nhưng vẫn không tài nào nốc hết được.
Mới nghĩ đã không chịu nổi cảnh phải uống lại thứ dung dịch đó, tôi bèn cầm chiếc cốc cùng cái túi chứa dịch nôn của mình đổ hết vào bồn cầu kiểu Âu.
Đầu lại ong ong lên rồi. Tôi leo lên giường, nằm xuống, mặt ngửa lên.
Tôi quờ quạng với tay qua chiếc bàn cạnh giường, chộp lấy đồng hồ báo thức giơ ra trước mặt. 2 giờ sáng. Lúc tôi uống dung dịch sát khuẩn là 7 giờ hơn, tức là bản thân đã bất tỉnh bảy tiếng rồi.
Toàn thân cảm thấy khó chịu, hai chân thì run rẩy, nhưng tôi còn sống. Tôi thẫn thờ đưa mắt nhìn trần nhà mờ mờ tối, biết thừa chuyện gì sắp xảy đến với mình rồi. Lần nào tôi cố gắng làm hại bản thân để tự tử cũng thế.
Lại phải đối diện với lão “bác sĩ” ấy.
Bác sĩ đang ngồi ở chiếc bàn bằng thép, bộ dạng vẫn như mọi khi, đang đọc dở quyển sách. Chắc lại mấy tác phẩm nhàm chán của những ông bà tác giả tôi chưa bao giờ nghe tên.
“Ái chà, lại nữa sao? Lại thêm một phen tự tử bất thành nhỉ.” Dứt lời, Bác sĩ kẹp thẻ đánh dấu trang vào quyển sách, đặt nó lên bàn rồi xoay cái ghế lăn về phía tôi.
Tuổi lão phải tầm sáu chục. Mái đầu bạc rẽ ngôi giữa, nhưng không phải do dùng lược, mà là do tóc trên đỉnh đầu chỉ còn lưa thưa. Chiếc áo blouse trắng phẳng phiu trông như mới.
Thân hình lão gầy guộc, trên mặt đeo một cặp kính tròn gọng đen, đôi môi mỏng dán giữa phần hàm dưới đầy nếp nhăn luôn nhếch lên với vẻ nhạo báng.
Tôi căm ghét lão đàn ông này.
“Rồi, nói tao nghe xem. Mày muốn thế nào đây?”
Về việc tôi muốn chết đến thế nào, Bác sĩ có lẽ là người hiểu rõ nhất. Bởi vì mỗi lần tôi tự tử bất thành đều phải đối mặt với lão.
“Lại diễn đạt sai nữa rồi.” Bác sĩ ngồi thẳng lưng lên rồi trừng mắt nhìn thẳng vào mặt tôi, “Nếu thật lòng muốn chết thì mày đã chết từ lâu rồi. Nghĩ xem có đúng không?”
Nhưng tôi thực sự muốn chết. Từ tận đáy lòng tôi thành tâm muốn chết quách đi. Tôi không phải kẻ chỉ nói suông về việc tự tử hay một kẻ đang giả vờ muốn tự tử. Trước đó tôi còn kiểm tra xem lượng dung dịch sát khuẩn cresol mà mình sẽ uống có đủ gây chết người hay không kia mà.
“Thế nhưng mày có chết đâu. Vì thế nên ham muốn chết của mày chẳng có gì để chứng minh cả. Miệng có đòi chết nhiều lần đến đâu đi nữa mà cứ tự tử bất thành hết lần này đến lần khác thì vô nghĩa lắm. Chẳng ai tin mày đâu. Tất nhiên, tao cũng không tin.”
Đúng là tôi không thể uống hết lượng dung dịch sát khuẩn đủ để mất mạng đã cẩn thận đong ra cốc. Xem ra là tại tôi bất tỉnh giữa chừng bởi vòm họng đau như xé và hai bên thái dương nhức như kim châm.
Ý chí thì muốn điều ngược lại, nhưng cơ thể không chịu nghe cho.
Thật không may, lý do này không đủ, vì Bác sĩ sẽ vặn lại, là tại tiềm thức tôi không muốn chết thôi.
“Tao không định mở miệng nói một câu ngu ngốc như thế đâu. Nghe này, trên đời chẳng có gì là tiềm thức cả. Chỉ hiện thực là tồn tại thôi.” Bác sĩ giở giọng giáo điều. “Mày vẫn chưa chết. Đủ thấy bản thân mày không muốn chết. Nếu mày tự tử thành công thì mới chứng minh được là bản thân mày thực sự muốn chết. Đơn giản thế thôi. Tao giải thích rõ ràng và dễ hiểu chứ? Vì lẽ đó, cách duy nhất để chứng minh rằng mày thực sự muốn chết chính là tự tử thành công.”
Nếu thâm tâm tôi thực sự mong chết thì tôi có thể tự tử thành công ư?
“Sai rồi, sai rồi. Ngược lại mới đúng. Mày tối dạ thật nhỉ.” Bác sĩ giả vờ tỏ vẻ ngạc nhiên. Tính cách của lão thật đáng ghét. “Nghe này. Những người nằm chết ngoài kia là những người thực sự muốn chết. Ngược lại, những người còn đang nhởn nhơ là những người hoàn toàn không muốn chết. Nói tóm lại, dù cho bọn họ có mong muốn hay ước nguyện điều gì trong lòng đi nữa thì nó cũng chẳng quan trọng. Sự thật rằng họ đã chết rồi mới là điều quan trọng duy nhất. Tao có thể suy ra rằng những người đang nằm chết ngoài kia là vì họ thật lòng muốn chết, họ chết vì đủ thứ lý do, như tuổi già, ung thư, tai nạn giao thông, hoặc là vì mong mỏi cái chết như mày vậy. Mày xem, mỗi khi những người leo đỉnh Alps chết vì gặp nạn hay các tay đua Công thức 1 chết vì sự cố thì lũ chuyên gia phân tích tâm lý ngu ngốc luôn có mặt để ra điều bảo rằng tiếng gọi của cái chết trong tiềm thức nó như thế này thế kia đấy còn gì.”
Bác sĩ hạ họng, tuôn ra một tràng cười mỉa mai.
Tôi phải dừng lại ngẫm nghĩ một lúc. Bởi vì bản thân tôi đang có cảm giác rằng mình lại sắp sửa bị lừa bởi những lời lẽ ngụy biện của lão. Những ông già bà cả chết vì tuổi tác có thật là vì họ muốn chết không? Thế tức là loài người sẽ trường thọ mãi mãi, chỉ cần họ đừng bao giờ ước rằng mình muốn chết à?
“Đúng thế. Chỉ cần đừng bao giờ nghĩ, muốn chết quá, thì loài người thừa sức sống đến hai ba trăm năm tuổi. Thậm chí còn có thể thọ đến hàng vạn, thậm chí hàng triệu năm ấy chứ.” Bác sĩ thản nhiên đáp. Chắc là lão lại đang lừa phỉnh tôi như mọi khi rồi. Nhất định là thế.
“Người cao tuổi ngừng hưởng dương vì họ không còn muốn tiếp tục sống nữa, chỉ muốn chết đi thôi. Nếu trong đầu họ không nghĩ những chuyện như thế thì tuổi thọ của họ sẽ còn kéo dài hơn nữa. Từ tất cả ta có thể suy ra kết luận thế này. Chết chẳng qua chỉ là tự tử mà thôi.” Khuôn miệng lão cong lên để nặn ra một nụ cười độc địa. “Trên đời này thực sự lại có người xướng lên cái giả thuyết nghe ngu ngốc thế đấy. Cha đẻ của giả thuyết này là một nhà tâm lý học người Mỹ theo học thuyết của Jung*. Dù sao đi nữa thì trường phái của Jung cũng tồn tại nhiều thứ ngớ ngẩn lắm.”
Đủ quá rồi. Từ nãy đến giờ tôi đã hết kiên nhẫn với mớ luận điểm nhảm nhí của lão. Tôi quay mặt vào trong hòng cắt đứt cuộc hội thoại.
Ánh nắng rọi vào từ khung cửa sổ khiến căn phòng sáng bừng lên. Tôi xoay đầu để kiểm tra đồng hồ báo thức thì thấy đã gần 12 giờ trưa chủ nhật. Cơn bỏng rát nơi lồng ngực phần nhiều đã dịu bớt. Cơ thể tôi đang dần dà hồi phục. Tôi thử đứng dậy thì thấy hai chân còn run rẩy. Xem ra cả ngày hôm nay chỉ có thể nằm một chỗ rồi.
Chính vì thế, tôi mới chọn tự tử vào tối thứ Bảy.
Trước đây đã có lần tôi uống dung dịch xà phòng vào ngày thường. Quả nhiên lồng ngực tôi đau như xé, còn cơn buồn nôn cứ liên tục kéo đến. Nguyên nhân theo như Bác sĩ giải thích thì hình như là do tác dụng của chất hoạt động bề mặt*.
Tôi đã phải lết đến nhà vệ sinh để nôn thốc nôn tháo vào bồn cầu. Bỗng dưng từ lỗ mũi tôi bay ra những bọt bong bóng. Bong bóng xà phòng. Chúng lơ lửng bay quanh bồn cầu với vẻ lấp lánh. Tôi còn nhớ rất rõ mình không kìm được mà cười phá lên, bất chấp cảm giác khó chịu vì tức thở.
Sáng hôm sau, tôi kiệt sức đến nỗi không bước đi nổi nữa, đành gọi điện đến chỗ làm thêm xin nghỉ phép đột xuất. Sasazuka bắt máy, còn dùng giọng rất mực lo lắng để hỏi thăm.
Cứ thế mà chết quách đi có phải tốt hơn không, ở lại làm phiền người khác làm gì.
Tôi mà nói ra câu ấy thì có khi lại phải nghe Bác sĩ giễu cợt rằng bản thân tôi có thực sự muốn chết hay chăng. Hoặc không thì cũng bị bảo là một đứa ngu dốt.
Tôi cứ nằm ngửa trên giường mà nhìn trần nhà.
Bác sĩ luôn mắng nhiếc và châm chọc đầu óc đần độn của tôi. Tự tôi cũng biết rõ mình không thông minh cho lắm, nên dù cố cãi lại lão thì tôi cũng không thắng nổi. Tôi thừa biết rằng dẫu có mở miệng đáp trả đi chăng nữa, những gì tôi nhận lại từ lão cũng chỉ là khinh thường chiếu cố.
Đây là chuyện của hơn một năm về trước.
Tôi đến Nhà xuất bản Himurokawa làm việc, vẫn răm rắp nghe lệnh Sasazuka như mọi khi, sắp xếp lại giáo trình, gửi đến nhà các học viên theo danh sách trên máy tính. Mặc dù không thạo đánh máy, nhưng làm theo chỉ dẫn của người khác đối với tôi không có vấn đề gì.
Đang lơ đãng nhìn màn hình, mắt tôi đột nhiên lia đến tên một học viên nọ. Thành tích học tập của em thật xuất sắc. Hết lần này đến lần khác, em đạt điểm gần như tuyệt đối ở mỗi bài kiểm tra trong toàn bộ giáo trình.
Tôi rất ngưỡng mộ các bé gái sáng dạ. Thành ra tâm trí tôi chỉ đọng lại mỗi cái tên yêu kiều Konishi Mina của em. Mấy hôm sau, lúc đang làm việc trong kho lưu trữ, tôi mới phát hiện ra mớ giấy tờ của các học viên cất giữ trong tủ hồ sơ. Tôi đã vô thức lại gần tủ và lấy hồ sơ của Konishi Mina ra đọc.
Em là học sinh lớp Mười sống ở tỉnh Saitama. Tờ đơn đăng kí nhập học có điền họ tên, địa chỉ, số điện thoại, đính kèm bảng điểm và thư phản hồi của cô bé. Những con chữ tròn trịa viết bằng bút nước mực xanh trông thật thích mắt.
Vì dần dà cảm thấy tò mò về Konishi Mina, tôi đã quyết định dành ra cả ngày chủ nhật để đến thành phố nhỏ của em. Tới nơi, tôi đã rình rập trước nhà và vờ gọi nhầm số với mong muốn thấy mặt và nghe giọng em.
Konishi Mina là một cô bé giống hệt tưởng tượng của tôi. Em không thực sự xinh, nhưng lại sở hữu một khuôn mặt vừa tươi trẻ lại vừa khả ái. Tóc ngắn, kính gọng bạc, phục trang bình thường. Nhìn qua hẳn ai cũng nghĩ em là một cô bé sáng dạ, nhưng tính cách hơi rụt rè, những lúc đi chơi với bạn bè em cũng chẳng nói gì nhiều mà chỉ đưa ánh mắt chờ đợi, có vẻ thích làm người lắng nghe hơn là người nói.
Trong vòng một tháng, hễ có dịp tôi lại đến quan sát Konishi Mina, lòng thầm tính cách tiếp cận em. Tôi muốn nhìn thấy em ở một cự li gần gũi hơn thế này. Đến một ngày nọ, tôi lại vớ lấy túi đeo chéo của mình, hạ quyết tâm làm một chuyến du hành chẳng biết là lần thứ mấy đến thành phố nhỏ bé ấy của Saitama. Trong túi là cặp găng tay mỏng bằng nhựa mà tôi đã tự tiện lấy ở nhà xuất bản, cùng một cuộn dây nhựa loại to bản.
Để chung với một cây kéo màu bạc, bén nhọn lấp lánh.
Ngày thứ Hai thuộc tuần thứ hai của tháng Mười là ngày hội thể thao, hội thao của các trường nô nức diễn ra. Những người bình thường chẳng bao giờ tập thể dục đầy đủ hẳn là đang nghĩ đến việc chạy bộ, tôi thì chỉ nằm dài trên giường cả ngày. Vị dung dịch sát khuẩn còn sót lại trên lưỡi khiến tôi mất hết cả cảm giác thèm ăn.
Thứ Ba ngày 14, cơ thể tôi mới bình phục hoàn toàn. Sau khi dùng bữa sáng với bánh mì nướng và nước cam, tôi liền mở tập bản đồ 23 quận Tokyo ra trên bàn và suy tính xem hôm nay nên làm gì.
Yukiko học lớp Mười một trường tư thục Hazakura. Đứng đợi ở đâu thì sẽ gặp cô bé sau giờ học nhỉ?
Tôi đến thư viện thêm lần nữa để kiểm tra lại địa chỉ của trường Hazakura trong danh sách liệt kê các cơ sở công cộng ở Tokyo, đoạn rê ngón tay trên bản đồ quãng đường di chuyển từ Desert Himonya đến ngôi trường ấy.
Phương tiện di chuyển mà tôi nghĩ ra được chỉ có tàu điện và xe buýt. Tôi đoán rằng Yukiko hoặc sẽ xuống tàu ở ga Đại học Gakugei, hoặc sẽ xuống xe buýt ở trạm Takaban và đi bộ từ đấy về chung cư. Chỉ có điều tôi vẫn chưa rõ cô bé sẽ chọn đường nào.
Xem ra đứng chờ ở Desert Himonya là phương án tối ưu. Nhưng nếu đứng phục ở cửa ra vào thì làm sao tôi biết cô nữ sinh đang về nhà này chính là Yukiko kia chứ? Ở Desert Himonya thiếu gì gia đình có con gái, trong số đó hẳn sẽ có nhiều em là bạn học cùng trường với Yukiko.
Trước tiên, phải tìm hiểu xem đồng phục trường Hazakura trông như thế nào đã.
Tôi nhìn đồng hồ đeo tay. 8 giờ sáng. Nếu đi lúc này thì tôi sẽ đến trường vào giữa giờ giải lao mười phút. Tôi rời khỏi căn hộ. Cơn mưa đầu thu như ứ đọng, trên trời không ló ra nổi một tia nắng. Cách đây bốn ngày tôi cũng đã đi một chuyến tương tự, tàu điện ngầm, đổi tuyến, đi ngang qua ga Đại học Gakugei để xuống ga gần trường Hazakura.
Trường tư thục Hazakura nằm trên đỉnh một con dốc thoải, cách ga tàu vài phút đi bộ về phía Nam.
Xung quanh trường là khu dân cư yên tĩnh nên dù có quảng cáo rằng đây là nơi có môi trường giáo dục lý tưởng cũng không ngoa lắm đâu. Những hàng giậu cắt tỉa gọn gàng nối tiếp nhau, từ ô cửa sổ khép hờ của một nhà nọ, tôi còn nhác thấy dải ren trắng của tấm rèm đang phấp phới.
Khu phố này rõ là của tầng lớp khá giả, những người có thể nhăn mày khó chịu khi nghe thấy tiếng đóng mở cửa ô tô. Nhưng chỉ cần ra ga bắt tàu điện ngầm là đến ngay khu sầm uất như Shibuya, nên hoàn cảnh quanh trường có lành mạnh đến mấy đi nữa thì cũng khá là vô bổ trong việc giáo dục đám học sinh nên người.
Kéo dài từ cổng chính vào trong sân trường, cắt ngang dãy phòng học là một lối đi lát gạch đỏ có hàng cây hồ dương trồng ở hai bên. Chính giữa tòa nhà sơn màu trắng đục có khắc mặt đồng hồ thật lớn, kim ngắn đang chỉ 10 giờ hơn.
Tiết học vẫn chưa kết thúc nên chẳng có bóng dáng học sinh nào trên hàng gạch đỏ. Hình như có lớp đang học nhạc cổ điển thì phải, giai điệu của những tiếng đàn và kèn cứ loáng thoáng bên tai tôi.
Tôi đi tìm chỗ nghỉ chân để chờ đến trưa, cuối cùng cũng tìm ra một công viên nhỏ. Tôi ngồi xuống băng ghế, vừa thầm mong sao hôm nay trời đừng mưa, vừa ngắm một bà mẹ trẻ đang cười đùa với con mình. Đứa bé áng chừng mới 5 tuổi, hết trèo lên khung xà bằng gỗ rồi lại nhảy lên tấm lưới đan bằng chão. Người mẹ vừa đưa tay xoa cái bụng căng tròn, vừa dõi trông con.
Có tiếng chuông nghe như chuông nhà thờ gióng lên đằng xa, báo hiệu đã 12 giờ. Tôi rời khỏi công viên, quay trở lại trường Hazakura.
Đám học sinh đã ùa ra lối đi gạch đỏ. Cả nam và nữ sinh đều khoác áo vest màu xanh lá mạ. Quần nam sinh và váy nữ sinh có màu giống nhau. Ngoài sân có một nhóm nam sinh đang đá bóng, đã bỏ áo vest và xắn tay áo sơ mi đến khuỷu.
Biết rõ đồng phục của trường trông như thế nào rồi, tôi liền quay trở lại con dốc của khu dân cư.
Tôi quyết định dùng bữa trưa ở một quán ăn nhanh trước ga. Thực đơn hôm nay gồm bánh kẹp thịt phô mai và một tách cà phê đen nóng.
Cà phê ở các quán ăn nhanh luôn đậm, còn cà phê ở các nhà hàng gia đình luôn nhạt. Đây là luật bất thành văn của hàng ăn.
Lúc tôi cầm khay lên tầng hai thì thấy vào buổi trưa ngày thường thế này quán khá là vắng khách. Chỉ có một nhóm phụ huynh đang mải ngồi tụm lại một góc trò chuyện với nhau, để mặc lũ trẻ con chừng bốn năm tuổi vừa kêu bô ba vừa nhóp nhép mấy miếng khoai chiên đựng trong hộp giấy lớn cầm ở tay.
Khoai tây chiên ở các quán ăn nhanh luôn mềm oặt. Luật bất thành văn thứ hai của hàng ăn là đây.
Khoai tây nên chiên sao cho giòn lớp vỏ ngoài và bên trong thì vẫn mềm xốp, nhưng khoai chiên của hầu hết các quán ăn nhanh đều dai nhách, cầm cọng nào lên cũng rũ xuống trông hệt như một dấu chấm hỏi. Tất cả đều tại đám nhân viên chẳng thèm ngó ngàng gì đến máng đựng khoai gắn đèn hồng ngoại.
Nhắc mới nhớ, bộ dạng nhồm nhoàm thứ khoai tây chiên mềm oặt ấy của lũ trẻ trông mới ngon miệng làm sao. Tôi nhớ ra rằng vị giác của con người vốn hoàn thiện từ bé. Mai đây trưởng thành, có khi mấy đứa trẻ kia lại tưởng khoai chiên ỉu dai mới là bình thường ấy.
Sau một lát ngồi nghỉ trong quán ăn nhanh, tôi bắt tàu để về lại ga Đại học Gakugei. Khu phố mua bán trước ga cũng thưa thớt người.
Lần này tôi đi một mạch đến chung cư Desert Himonya. Ngay sân trước chung cư vẫn là hộp máy tự động ấy. Tôi đi thẳng đến tủ hòm thư của các chủ hộ. Tôi tra từng hòm thư một. Nếu bảo rằng mình là người giao hàng từ nội thành ra, hẳn là người trong chung cư sẽ cho tôi vào mà không nghi ngờ gì.
707 (TNHH) HYPERPRISM
Trên một nhãn hòm thư trông như mẫu chữ in từ máy in laser có dán logo kết hợp từ nhiều ngôi sao lấp lánh vẽ theo nét manga. Chắc là hình đồ họa làm từ phần mềm vẽ 3D. Căn hộ này hẳn là văn phòng của một công ty thiết kế đồ họa hoặc truyền thông. Tôi bước đến hộp máy khóa cửa tự động, nhập số 707 vào rồi ấn nút gọi.
“Vâng?” Từ loa trong của hộp máy vọng ra tiếng trả lời của một người đàn ông trẻ tuổi.
“Giao hàng của Speed King đây ạ.” Tôi ghé miệng đến gần hộp máy rồi trả lời thật to. “Có người gửi hàng đến ạ.”
May mắn thế nào mà gã thanh niên không hỏi tôi món hàng từ đâu đến. Đúng như tôi trù tính, nếu ngày nào cũng sử dụng dịch vụ chuyển phát thì chắc là bọn họ đã quá quen với cảnh này rồi.
“Cảm ơn nhé. Giờ tôi sẽ mở cửa đây.”
Tiếng rừ rừ vang lên ngoài thềm. Lúc tôi bước lại gần cửa tự động thì hai cánh kính lập tức mở ra. Bước vào tiền sảnh lát cùng loại gạch với phần sân, tôi đến thang máy rồi bấm tầng năm.
Ra khỏi thang máy đã thấy hành lang sơn màu trắng ngà trải dài trước mắt, với những ô cửa sổ lắp kính trổ ra hướng Bắc và những khung cửa ra vào màu nâu sậm ở phía Nam.
Tôi dò biển từng căn hộ để tìm 503. Bên trên chuông cửa là tấm biển đề họ tên các thành viên trong gia đình.
503
TARUMIYA Kazuhiro
Toshie
Yukiko
Kenzaburo
Trông cứ như một khổ thơ ấy. Kazuhiro, Toshie, Yukiko, Kenzaburo, tôi lẩm bẩm những cái tên. Xem ra nhà Tarumiya là một gia đình có bốn thành viên. Nghĩa là Yukiko còn một đứa em trai.
Tôi mường tượng ra chân dung cả nhà. Yukiko 16 tuổi, suy ra bố mẹ cô bé cũng phải hơn bốn mươi. Nơi này lại gần trung tâm, để sống ở đây thì nhà Tarumiya phải khá giả lắm. Nội việc gửi con gái vào học ở một trường tư thục đã chứng tỏ rằng nhà họ nếu không thuộc giới trung lưu thì cũng phải là hàng sung túc.
Bố cô bé có lẽ là nhân viên của một công ty lớn nào đó có văn phòng nằm trong một tòa nhà sang trọng tọa lạc ở trung tâm thành phố. Nếu đã ngoài bốn mươi thì rất có thể ông ta sắp được cất nhắc lên hàng ngũ quản lý, như thư kí trưởng bộ phận hoặc đại diện trưởng bộ phận chẳng hạn.
Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh một người đàn ông đeo kính gọng bạc, vận bộ comple hiệu Armani hay đại loại thế. Bộ dạng có lẽ giống một nam diễn viên truyền hình tôi từng thấy qua.
Vì thiếu dữ liệu về mẹ và em trai Yukiko nên tôi chẳng tưởng tượng ra hình ảnh gì. Dẫu vậy, tôi vẫn đoán rằng mẹ của em nhất định là kiểu phụ huynh mà ai cũng đã từng thấy trên truyền hình, nhưng về đứa em trai thì chịu. Chủ yếu là do tôi không biết tuổi thằng bé. Học sinh cấp hai? Tiểu học? Hay chỉ là trẻ nhỏ đang chập chững tập đi? Chân dung đứa em trai trong gia đình vẫn là một chỗ trống.
Tôi không cần mường tượng ra hình ảnh Yukiko. Bởi lẽ chỉ cần đứng chờ ở đây thôi, chẳng mấy chốc tôi sẽ gặp cô bé.
Tôi rời khỏi cửa để đi tìm chỗ nấp. Đối diện cửa thang máy về phía xa là thang bộ. Cầu thang ở đây so với chung cư nơi tôi sống vừa to vừa sạch lại sáng sủa hơn rất nhiều, hầu như chẳng có lấy một góc tối.
Ai trên đời này cũng có một chỗ náu thân. Nếu có người sống dưới gầm cầu thì cũng có người sống trong lều tuyết, có người sống trong khu lắp ghép bê tông cốt thép bỏ hoang thì hiển nhiên cũng phải có người sống trong những khu chung cư sang trọng gắn hệ thống khóa tự động chứ.
Chỉ có điều, thang bộ ở đây chẳng được ai để tâm coi sóc, tường là bê tông trần, không sơn phết. Thang này e rằng chỉ dùng làm lối thoát hiểm. Đã có hẳn hệ thống thang máy sang trọng, chắc không ai vì muốn giảm cân mà cất công dùng thang bộ lên tận tầng năm đâu. Xem ra tôi không cần lo đến việc người ta nhòm ngó rồi.
Ngồi xuống chiếu nghỉ cầu thang, tôi nhìn đồng hồ. 2 giờ chiều. Cho đến giờ tôi vẫn không rõ khi nào trường cô bé mới tan học, nhưng tôi khá chắc rằng mình phải đợi ở đây ít nhất là ba tiếng.
Nghe chừng tôi đã quá ngây thơ. Hơn 6 giờ tối mà Yukiko vẫn chưa về. Mỗi lần chuông thang máy kêu, tôi lại chạy lên cầu thang để nhòm ra hành lang, nhưng đều chỉ thấy mấy tay nhân viên văn phòng hay mấy bà nội trợ, chứ không phải bóng áo đồng phục xanh lá mạ kia.
Sắp sửa quá 8 giờ rồi. Yukiko không thuộc dạng nữ sinh ngoan ngoãn tan trường là về thẳng nhà à? Hay do cô bé bận sinh hoạt câu lạc bộ?
Bụng tôi ậm ạch khó chịu, có thể là tại bữa trưa chỉ tọng toàn thức ăn nhanh đây mà.
Giữa lúc tôi đang băn khoăn không biết có nên rời đi hay không, chuông thang máy lại kêu. Tôi chạy lên cầu thang, từ góc tường nhòm ra hành lang. Một nữ sinh mặc áo vest màu xanh lá mạ bước ra khỏi thang máy. Hạnh phúc làm sao, mái tóc của em dài óng ả đến tận lưng. Chiều cao vào khoảng 1m60. Dáng người cân đối, dưới tà váy đồng phục lộ ra cặp chân thon thả.
Em băng qua hành lang, vai khoác một chiếc túi vải lớn.
Quả là một cô bé xinh đẹp, đấy là ấn tượng đầu tiên của tôi về Yukiko. Cằm nhọn, hàng mi dày phủ bóng xuống cặp mắt sáng ngời khiến khuôn mặt em có nét như loài mèo. Không phải mèo hoang hay chạy nhảy gờ tường, mà là giống mèo lông ngắn thuần chủng của Mỹ.
Khoảng cách hơi xa nên tôi nhìn không rõ, nhưng hình như em không xỏ khuyên ở tai, mi mắt hay mũi. Thế thì em về trễ hẳn là do sinh hoạt câu lạc bộ chứ không phải vì la cà hay đi chơi đêm.
Cô bé bước lại gần cửa căn hộ 503 rồi ấn chuông. Có tiếng nói chuyện lào xào không rõ, vài giây sau thì cửa nhà mở ra, đón em khuất hẳn vào trong.
Đúng là Yukiko rồi.
Vì không thể xin nghỉ liên tiếp mấy buổi liền nên suốt ba ngày nay tôi đã làm việc rất chăm chỉ.
Thứ Sáu ngày 17 tháng Mười, hơn 3 giờ tôi đã xin phép về. Trưởng phòng Okajima bảo rằng tuần sau tôi mà còn thế này bà sẽ không duyệt phép đâu, nhưng cuối cùng vẫn cho tôi về.
Bản thân tôi cũng biết rằng sắp sửa đến giai đoạn công việc bận rộn nhất rồi. Hôm nay đã là cơ hội cuối cùng trong tháng để tôi theo dõi cô bé.
Một tiếng đồng hồ sau, tôi lại ngồi giết thời gian ở công viên gần trường Hazakura. Lâu lắm rồi bầu trời mới lại trong xanh và làn gió mới lại mát rượi thế này. Vào đúng cái hôm quá lý tưởng để ra ngoài chơi thì cặp mẹ con tôi bắt gặp lúc trước lại không có ở đây. Tấm lưới của khung xà đung đưa trong cô quạnh.
Nhác thấy đã đến giờ, tôi liền đi tới trường Hazakura. Đến nơi đã thấy từng tốp học sinh từ hành lang ùa ra sân trường. Tôi đứng ở trạm dừng xe buýt ngoài cổng chính, mắt dõi theo một nhóm các cô cậu mặc đồng phục.
Bảo rằng ngôi trường thuộc số ít các trường điểm của thủ đô thì có hơi quá lời, nhưng đối với những người thường xuyên qua lại khu này thì Hazakura quả thật là một trường danh tiếng chỉ dành cho cô chiêu cậu ấm.
Nói cách khác, học sinh trường này nếu không sống ở biệt thự sang trọng thì cũng ở căn hộ cao cấp, sinh trưởng trong gia đình chỉ sử dụng các vật dụng đã tiệt trùng, luôn tích trữ rất nhiều rau củ quả trồng trọt hữu cơ trong chiếc tủ lạnh khổng lồ có khả năng bảo quản độ tươi ngon lâu nhất cho thực phẩm, mỗi cuối tuần cả nhà lại cùng nhau đi ăn ở một nhà hàng Ý nào đó, đứa bé nhất đang tuổi đi mẫu giáo thì trông chừng bằng cách cho xem anime dài tập.
Trên nền gạch nung đỏ, các cô cậu học sinh đang kiêu hãnh bước đi với vẻ tươi trẻ tràn đầy sức sống bừng sáng khuôn mặt kia hẳn cũng thuộc thế hệ trẻ em tin vào thế giới ảo tưởng của Nàng Lọ Lem và Aladdin, trải qua thời thơ ấu ngập tràn mơ ước mình sẽ như Totoro* bảo vệ thiên nhiên.
Sau hai mươi phút đợi chờ, rốt cuộc tôi cũng thấy Yukiko xuất hiện trên con đường gạch đỏ. Em vừa đi vừa trò chuyện với một cô bé nhỏ thó, trông như bạn cùng lớp. Cô bé này có khuôn mặt bầu bĩnh, đeo kính gọng bạc, răng hơi hô. Một ca cần đi niềng. Có lẽ ngay từ nhỏ, bố mẹ cô bé đã không dạy con mình phải bỏ thói quen mút ngón tay. Khuôn mặt cô bé trông hệt như bức biếm họa vẽ người Nhật thời xưa vậy.
Yukiko và cô b