← Quay lại trang sách

- IV -

Lúc này có phong trào diễn thuyết: Bôvalê sẽ đọc Hecnani tại rạp Cađinô- Cađê.

Buổi diễn thuyết long trọng! Great atraction (sự thu hút lớn)! Đây là để phản kháng Đế chế và biểu dương nhà thơ đã viết tập trừng phạt.

Nhưng, cũng như ở rạp Xiếc, cần phải có một nghệ sĩ loại hai, thằng hề hay con khỉ, nghĩa là trong những kẻ, sau tiết mục chính, ra chiếm lĩnh sân khấu, trong khi khán giả lấy mũ và cho gọi xe ra về.

Người ta đề nghị tôi đóng vai khỉ: tôi nhận lời.

Tôi sẽ ra trò gì đây? Tôi đề nghị và đặt nhan đề là: Banzăc và sự nghiệp của ông.

Những câu chuyện của Raxtinbác, của Xêsa và của Ruybenprê đã bám vào trí óc tôi. Tấn trò đời thường là tấn bi kịch của cuộc sống khốn khổ - miếng bánh mì hoặc manh áo giành giật bằng cách mua chịu hoặc trả dầu, với những cơn sốt của đói khát và những run rẩy của tờ giấy biên nợ. Không thể tôi không có điều gì xót xa để nói khi đề cập tới những nhân vật là anh em về tham vọng và lo âu của tôi đó!

Ngày công diễn đã tới – tên người Đầu trò và tên vai khỉ được ghi liền nhau trên chương trình.

Công chúng sẽ đông. Những bộ râu kỳ cựu năm 48 sẽ có mặt tại đấy để vểnh lên chống Boonapactơ, mỗi lần có một câu thơ khả dĩ ám chỉ đến nền cộng hòa. Cũng có cả lớp trẻ đối lập: những nhà báo, những luật sư, những nữ văn sĩ có thể lấy nịt chân thắt cổ hoàng đế, nếu như ngài rơi vào móng hồng của họ, và họ đã xếp mũ diện ngày chủ nhật của họ thành thế trận.

Nhưng từ xa, tôi trông thấy người ta xô nhau trước cửa nhà Đại Đông phương, xung quanh một người đang dán lên áp–phích một băng giấy mới.

Có chuyện gì vậy?

Họ đã cấm việc đọc kịch của Huygô, và ban tổ chức thông báo sẽ thay vở Hecnani bằng vở Lơ Xít.

Nhiều người bỏ đi sau khi đã khinh khỉnh rặn đọc cái tên tôi… nó chẳng nói gì với họ cả.

- Jăc Vanhtrax?

- Cóc biết.

Chẳng ai biết cả, trừ một số nhà báo, những người lui tới tiệm cà-phê của bọn tôi, họ chủ ý tới xem tô xoay xở ra sao và với hy vọng tôi sẽ thất bại hoặc gây chuyện.

Tôi để mặc người ta đọc thơ, tôi tới ngồi đợi ở quán bia gần nhất.

- Đến lượt cậu! Sắp đến cậu!

Tôi chỉ kịp leo lên cầu thang.

- Đến ông! Đến ông!

Tôi đi qua buồng; lên bục.

Tôi cứ thẳng thắn đặt mũ lên ghế, ném áo choàng lên chiếc dương cầm ở đằng sau, thong thả tháo găng tay, khuấy chiếc thìa trong cốc nước đường với vẻ nghiêm trang của tay phù thủy đang bói bằng bã cà-phê. Và tôi bắt đầu nó, chẳng bối rối hơn khi bọn tôi ba hoa ở tiệm ăn.

- Thưa các bà, các ông…

Tôi đã nhận ra trong cử tọa những bộ mặt thân thiện, tôi nhìn vào họ, tôi nói với họ, thế là lời nói tự tuôn ra, lại được giọng to của tôi truyền đên tận cuối buồng.

Đây là lần đầu tiên tôi nói trước công chúng kể từ ngày mồng Hai tháng Chạp. Buổi sáng năm ấy, tôi đã leo lên ghế, lên cột mốc để hô hào quần chúng và thét to: “Hãy cầm vũ khí!” – tôi nói với một bầy người lạ họ đi qua mà không dừng lại.

Hôm nay, tôi mặc áo đen, đứng trước những kẻ hãnh tiến diện bộ đồ đẹp, họ ngỡ đà làm một việc tàn bạo khi họ tới nghe đọc thơ.

Liệu họ có hiểu tôi và chịu nghe tôi không?

Trong cái giới nghiêm cách ấy, người ta ghét Napôlêông, nhưng người ta không ưa những kẻ khốn khổ mà lời lẽ nặng mùi thuốc súng tháng Sáu hơn mùi thuốc súng cuộc Đảo chính. Những kẻ chính chuyên của truyền thống cộng hòa có râu đốm bạc ấy – cũng như Rôbexpie và tất cả bọn họ theo gót Macximiliêng là tổ tiên họ - đều là những Briđoađông[3] nghiêm khắc của hình thức cổ điển.

Còn bọn thắt ca-vát trắng ngồi kia, đã đọc sách của tôi, bọn hủ lậu ấy, họ bị hoang mang về những đòn dư kích của tôi ít nhằm đánh vào tượng bán thân của Bađinghê[4] hơn là bộ xương của toàn thể xã hội như nó đã được tổ chức, xã hội chó má chỉ có đạn chỉ trút xuống luống cày, ở đó những người nghèo quằn quại đau khổ và chết đói – như những con cóc bị lưỡi cày cứa mất chân, thậm chí không đủ sức kêu lên trong đêm tối cuộc đời của chúng những tiếng ảo não và lẻ loi!

Xong, vào giờ phút này, chính là niềm khinh bỉ, chứ không phải mối tuyệt vọng căng đầy trái tim tôi, khiến nó nổ thành những lời lẽ mà tôi thấy hùng hồn. Trong bầu im lặng, tôi thấy hình như những lời đó đánh trúng và lóe sáng lên.

Nhưng những lời đó không có gia ngạnh của hận thù.

Chẳng phải tôi đánh trống cấp báo, mà là đánh trống tập kích, kiểu như anh lính trống vừa thoát ra khỏi một vòng vây khủng khiếp và, đột nhiên được đưa ra giữa ánh sáng, anh ngang nhiên và ngạo mạn, cười vào mũi kẻ địch, bất chấp cả mệnh lệnh của viên sĩ quan, cả chỉ thị cả kỷ luật, anh quẳng mũ có hiệu số xuống hố, xé phù hiệu và khua hiệu trống mỉa đời với niềm say sưa của đội quân nhạc ở Balaklava[5].

Sự thật, khi được đà, tôi phun bừa ra với họ tất cả những cái gì đã làm tôi ngạt thở!

Tôi quên Banzăc đã chết để nói về những người đang sống, tôi lại quên cả chửi Đế chế và, trước mặt đám tư sản ấy, tôi phất không phải chỉ lá cờ đỏ mà cả lá cờ đen.

Tôi cảm thấy tư tưởng tôi dâng lên và lồng ngực nở rộng, cuối cùng tôi thở căng phổi. Vừa nói tôi vừa thấy rùng mình vì kiêu hãnh, tôi cảm thấy một niềm vui gần như xác thịt; - tôi thấy như trước ngày hôm nay cử chỉ của tôi chưa bao giờ được tự do, và từ đỉnh cao của lòng thành thực nó đè nặng xuống những đầu óc kia, họ quay về phía tôi, đăm nhìn tôi, cặp môi hé mở, con mắt căng thẳng!

Tôi nắm được những con người ấy trong lòng bàn tay tôi, và tôi giày vò họ tùy theo cảm hứng.

Sao mà họ lại không nổi giận?

Đó là vì tôi đã giữ được bình tĩnh hoàn toàn, và để chọc thủng được những bộ óc ấy, tôi đã đóng chuôi vũ khí của tôi như một con dao găm trong bi kịch Hy Lạp, tôi đã vãi tung tóe tiếng La tinh lên họ, tôi đã dùng lời lẽ kiểu đại thế kỷ, - cái bọn ngu ngốc ấy chịu để tôi chửi tín ngưỡng và học thuyết của họ vì tôi đã chửi bằng ngôn ngữ tôn trọng phép tu từ của họ, ngôn ngữ mà bọn luật sư vào giáo sư cổ điển học vẫn đề cao. Chính là giữa hai đoạn văn bản kiểu Vilơmanh, tôi luồn vào một lời ngỗ nghịch, sống sượng và độc ác, và tôi không để cho họ có thì giờ kêu lên.

Lại có những kẻ mà tôi khủng bố!

Ban nãy tôi đã đạp nát một thành kiến của họ bằng một câu độc ác như một lưỡi dao cùn. Tôi thất cả một gia đình kinh ngạc và la lối, người bố thì tìm áo tơi, cô con gái thì sửa lại khăn san. Thế là tôi đưa con mắt hung dữ về phía ấy, và ấn họ xuống ghê bằng một cái nhìn đầy hăm dọa. Họ lại ngồi xuống kinh hoảng, và tôi suýt phì cười.

Nhưng đã đến lúc phải kết luận; tôi phải tìm câu kết cho tôi, tôi cho nó bùng cháy!

Kim đồng hồ vừa chạy hết vòng… tôi vừa kết thúc giờ nói chuyện và vừa mở đầu cuộc đời tôi.

Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, người ta đã nói về tôi trong vài tòa báo và vài tiệm cà-phê đường phố. Hai mươi bốn tiếng đồng hồ ấy là đủ rồi, nếu tôi thật vững vàng và được tôi luyện. Tôi không còn tình trạng đầu chui vào rọ, cổ mắc gọng kìm.

Thôi, ngày hôm nay thế là tốt; và nước bọt của tôi đã chùi sạch cáu bẩn của những năm qua, cũng như máu của Pupa đã rửa sạch bùn nhơ của tuổi trẻ chúng ta!

Tôi có thể không bao giờ tóm được dịp may. Dù sao thì nó cũng chuội mất, nếu tôi cứ đứng ở bờ bên kia, nếu tôi không lui tới cái tửu quán mà mấy tay viết lách đầy tham vọng thường đến.

Chính vì tôi tới ăn ở quán hàng ngày, vì đôi lần tôi đã quá chén, và mỗi khi quá chén, tôi đâm ra táo tợn và hăng hái, chính vì tôi đã thoát ra khỏi cuộc sống lao động cực nhọc và buồn tẻ để lang thang với đám người lang thang ấy, nên cuối cùng tôi đã chọc thủng được bóng tối và phá tan được im lặng!

Phải có một đồng luy để thỉnh thoảng tiêu sài!… Tôi đã có nó vào ngày lĩnh lương.

Ta cảm tạ mi biết bao, hỡi chức vụ nhỏ với 1500 phơrăng mi đã khiến ta có thể tới nơi kia để tiêu mười phơrăng những ngày đầu tháng, và ba phơrăng những ngày khác; mi đã đem lại cho ta vẻ thiện dân, do đó, mi kiếm được cho ta những chỗ dạy học một trăm xu một giờ - cũng vẫn những chỗ mà trong bao lâu ta chỉ đòi năm mươi xăngtim!

Chính cái chức vụ tầm thường ấy đã cứu tôi, chính nhờ nó mà tôi có bữa ăn sáng này.

Là vì buổi diễn thuyết không đem lại cho tôi một xu nào. Viên giám đốc đã trả tôi bằng hiện vật, rộng rãi: tối hôm qua, chúng tôi đã chén một bữa linh đình.

Nhưng hôm nay túi tôi rỗng: tôi chẳng giàu hơn nếu tôi bị thính giả huýt còi. Găng tay, giày bốt-tin, áo sơmi diện, đã làm tôi hao tốn nhiều. Tôi sẽ ăn bữa tối thế nào đây?

Khoảng chín giờ, bụng tôi réo lên kinh khủng. Tôi tới tiệm Cà-phê châu Âu, nơi đám bạn tôi thường ăn chịu, và tôi nhận lời mời uống nước chè đường vì ở đó có thêm bánh sâu kèn.

Ngày hôm sau, tôi tới Thị chính như thường lệ. Đám viên chức thấy tôi đến, ra cả ngoài cửa.

- Có chuyện gì vậy?

- Ông Vanhtrax! Ông thị trưởng gọi ông.

Từ hành lang qua cửa phòng cưới xin hé mở, tôi nhìn thấy ông thị trưởng đang đợi tôi thật.

Ông đưa tôi vào buồng riêng.

- Thưa ông, chắc ông cũng đoán được vì sao tôi gọi ông đến đây?

-?…

- Không à?… Vậy thì, chuyện như thế này. Hôm chủ nhật, tại rạp Cadinô, ông đã đọc một bài diễn văn xúc phạm tới chính phủ. Ít nhất thì đấy cũng là danh từ mà ông thanh tra Đại học đã dùng trong bản báo cáo gửi ông quận trưởng. Riêng cá nhân tôi, tôi bầy tỏ với ông sự ngạc nhiên của tôi khi thấy ông làm hại tới một nền cai trị mà tôi là người đứng đầu, và tới một địa vị tuy nhỏ nhặt, như chính ông đã nói với tôi, nó cũng vẫn là nguồn sinh sống thực sự và duy nhất của ông. Chính thức mà nói, tôi báo để ông biết rằng từ nay ông bị cấm không được lên diễn đàn nữa, và yêu cầu ông đệ đơn xin thôi việc hoặc hứa với tôi xin thôi việc.

Không được lên diễn đàn nữa – chuyện đó tôi không lo; dù sao, đòn đánh đã trúng, mà tôi lại thêm được cái tiếng là bị ngược đãi.

Nhưng xin thôi việc! Mất cái chỗ làm nhỏ bé của tôi! Ý nghĩ ấy làm tôi lạnh sống lưng. Tất cả những mẩu bài báo đã hứa hẹn cho tôi một tương lai vẻ vang đều không giá trị bằng một bữa xúp. Thế mà bao giờ tôi lại quen ăn xúp rồi, và tôi sẽ rất cực để qua hơn một ngày nhịn ăn.

Tuy nhiên vẫn phải đi thôi. Tôi tái mặt khi bắt tay con người hào hiệp ấy, và khi vĩnh biệt cái đồn nhỏ ấy.