← Quay lại trang sách

- VI -

Phải, anh ngu như bọn lợn ấy! A ha, cha mẹ ơi! Anh chàng Vanhtrax là thế đấy. Mắt anh ta vãi đái ra đó, vì anh ta không được viết bài về Cộng hòa xã hội ở cái tiệm của Giracđanh!… Mà anh lại bảo hắn, cũng không muốn cả những bông hoa nhỏ xíu của anh ư? Thôi được, để tôi, tôi nhận; một trăm phơrăng một bó, mỗi thứ bẩy bó.

Đấy là Vilơmetxăng, anh ta gặp tôi ở góc đại lộ, hỏi thăm bây giờ ra sao, và đã đề nghị với tôi như thế, sau khi đã lấy bụng ẩy tôi, sau khi tuyên bố rằng tôi ngu như lợn.

- A ha! Cha mẹ ơi! Cái anh chàng Vanhtrax là cái gì?

Một giờ sau, tình cờ tôi lại gặp lại anh ta ở chỗ ngoặt một phố; anh ta lại kêu lên:

- Là thế đấy! A ha! Cha mẹ ơi!

Phải, thế đấy! Tôi đã muốn đặt cái tiếng tăm chớm nở của tôi vào chính trị, muốn nhẩy liền ngay vào giữa chiến trường…

Giracđanh đã chữa cho tôi khỏi cái mơ tưởng ấy.

Tuy nhiên, tôi không tin vào ý kiến cũng như những lời khuyên của hắn. Tôi đã leo lên những cầu thang khác – rồi lại leo xuống tay không vẫn hoàn tay không. Không đâu có chỗ cho những điều tàn bạo của tôi.

Giữa những dòng ký sự viết cho báo Figarô, tôi từng để nhô ra đầu ngọn cờ của tôi; trong những bó hoa ngày thứ bẩy, bao giờ tôi cũng luồn vào một bông phong lữ thảo đỏ như máu, một bông vạn thọ đỏ, nhưng lần dưới những bông hồng và cẩm chướng.

Tôi kể những câu chuyện nông thôn hoặc chuyện hàng quán, những kỷ niệm quê hương hoặc những mối tình chợ phiên; nhưng nếu nói tới những người chân đất thì tôi rãi ánh nắng lên cảnh cùng khổ của họ, và cho kêu loảng xoảng những vẩy thủy tinh trên quần áo họ.

QUYỂN SÁCH

Bây giờ đến số trang, tôi thấy như hình như tôi đã hoàn thành tác phẩm. Đứa con đã ra đời… cái đứa đã cựa quậy lần đầu tiên vào hôm tôi đưa đám Muyêcgiê!

Nó nằm trước mặt tôi kia. Nó cười, nó khóc, nó giẫy giụa trong nỗi đắng cay và đẫm nước mắt ấy – tôi mong nó sẽ biết đi theo con đường của nó.

Nhưng đi thế nào?

Tất cả mọi người ở tòa báo đều bảo những bài báo gộp lại thành tập “đều thất bại”, và các nhà xuất bản không muốn in loại đó nữa.

Nhưng tôi vẫn ôm đứa bé trong tay, và chúng tôi tới gõ cửa mấy nơi. Chỗ nào, người ta cũng đều lễ phép yêu cầu chúng tôi cuốn xéo.

Tuy nhiên, cuối cùng thật là quái quỷ, một nhà xuất bản mới vào nghề cầu may đọc mấy trang đầu.

- Đắt! Mười lăm ngày nữa, ông sẽ chữa bản in thử, và hai tháng nữa sẽ có phiếu-cho-in.

Mũi tôi nở ra, ngực tôi phình lên.

Phiếu-cho-in, cái đó có giá trị ngang với lệnh “Bắn!” trên rào chướng ngại, đó là nòng súng chĩa qua cửa sổ!

Cuốn sách sắp ra, cuốn sách đã ra[7].

Lần này tôi cứ tưởng như tôi đã tới đích. Tôi thò ra khỏi đất quá cái mặt, tôi đã thoát tới ngang thắt lưng, tới bụng – tôi tưởng sẽ không bao giờ bị đói.

Chớ có tin vào đó nhiều quá, Vanhtrax.

Nhưng trong khi chờ đợi, hãy cứ hưởng sự thành công đi, chú mình: đứa du đãng và vô danh hôm qua giờ đã có món khoai hầm trong cà-mèn với một nhánh con nguyệt quế.

Cuốn sách đi thẳng tới; thằng bé quả là có dũng khí, và người ta chạm cốc chúc sức khỏe nó trong các tiệm cà-phê đường phố và những gác xép Khu phố La-tinh. Những kẻ không xu đã nhận ra một bà con của họ, những kẻ giang hồ đã trông thấy vực thẳm, tôi đã cứu thoát thói ươn lười hoặc nhà tù cả đám thanh niên đang chạy tới đó, bằng con đường hẻm mà Muyêcgiê đã phủ hoa tử đinh hương ở hai bên!

Bao giờ cũng thế!

Chính tôi, tôi cũng có thể lăn vào đấy!

Tôi rùng mình, khi nghĩ tới chuyện đó – ngay trong tia sáng niềm vinh quang chớm nở của tôi!

Niềm vinh quang chớm nở của tôi? Tôi nói để vây vo đôi chút, chứ, thật tình, tôi chẳng thấy bản thân có gì thay đổi, từ khi tôi đọc báo thấy nói có một nhà văn trẻ mới ra đời, và sẽ đi xa.

Hôm diễn thuyết tôi đã xúc động nhiều hơn; người tôi lay chuyển khác thường những ngày tôi được nói chuyện với nhân dân. Lúc đó, từng phút từng phút, tôi phải truyền xúc động vào những trái tim đang phập phồng ở trước mặt tôi kia; muốn nghe tiếng đập của những trái tim đó tôi chỉ cần nghiêng đầu xuống, tôi có thể thấy lời nói của tôi rực cháy trong những con mắt đang chòng chọc nhìn vào mắt tôi, với những ánh nhìn mơn trớn tôi, hoặc hăm dọa tôi… thật cũng gần như một cuộc giao chiến bằng vũ khí!

Còn những tờ báo nằm trên mặt bàn của tôi kia – như những chiếc lá héo! – chúng không rung chuyển và chẳng la hét!

Vậy đâu là tiếng bão tố mà tôi ưa chuộng?

Có lúc tôi tự thấy xấu hổ nữa, khi nhà phê bình chỉ nêu lên và khen ngợi bút pháp của tôi, khi người ta không phơi bầy được cái vũ khí che giấu dưới những nếp đăng-ten của lời văn như lưỡi gươm của Asiơ ở Xyrôx.

Tôi sợ tỏ ra là hèn đối với những ai, ở những câu lại bộ của kẻ khố rách, đã nghe tôi hứa rằng ngày nào thoát khỏi cảnh đói rách lem luốc và khỏi bóng tối của đêm đen, tôi sẽ nhảy xổ vào họng kẻ thù.

Chính kẻ thù đó hôm nay đang ca ngợi tôi.

Thật ra, tôi thấy khó chịu hơn là thú vị, khi nhận lời chào hỏi của những kẻ mà tôi khinh bỉ.

Niềm sung sướng thật sự của tôi, nó đã từng làm mắt tôi trào ra những giọt lệ kiêu hãnh thành thực là khi, trong những bức thư không biết từ đâu tới, và không biết đến với tôi bằng cách nào, tôi nhận được những cái bắt tay của những người vô danh xa lạ, của chàng trẻ tuổi hoảng hốt hoặc kẻ bại trận rớm máu.

“Giá tôi được đọc ông sớm hơn!” – kẻ bại trận nói,

“Giá tôi không đọc ông!” – chàng trẻ tuổi.

Vậy là tôi đã thâm nhập quần chúng, vậy là tôi đã có quân lính, một đạo quân phía sau tôi!… Chà! Tôi đã qua bao đêm đi lại trong buồng, nắm những mẩu thư nhầu nát đó trong tay nắm chặt nghiền ngẫm cuộc tấn công thiên hạ với những người gửi thư kia làm tướng lĩnh!

May sao, tôi đã nhìn thấy tôi ở trong gương: tôi đã lấy điệu một hộ-dân-quan La Mã và đã làm cứng đờ nét mặt như chiếc phù điêu của David Đănggiê!

Đừng có thế, chú mình ơi: ngừng lại!

Chú chẳng phải sao chép cử chỉ của bọn Môngtahha, cũng như cái chau mày của bọn Jacôbanh, mà là làm công việc bình thường của chiến đấu và bần cùng.

Vậy chú chỉ nên tự nhủ rằng thật là êm ái khi cảm thấy đến với mình những niềm thân thiết của người xa lạ khi ta đã từng bị người trong nhà không hiểu và ngược đãi.

Hãy thổ lộ niềm vui cảm thấy vì đã phát hiện cho mình một gia đình yêu chú hơn chính gia đình chú, và gia đình đó đã không chửi mắng chú hoặc cười nhạo những cao vọng của chú, mà lại giơ tay đón chào chú-như ở thôn quê người ta chào trưởng tộc vinh dự và gánh nặng của dòng tộc.

Phải, chính đó là cái đã chiếm đoạt tâm hồn tôi.

Tôi tự cảm thấy được một số người ưa mến và thật sự là tôi cần đến cái đó, bởi vì thật là đau khổ cứ phải đóng vai nhạo báng và ảm đạm, như tôi đã làm, suốt cả một cuộc đời thanh niên cường tráng.

Trong số thư đó, có một bức thư của đàn bà.

“Thế không có ai yêu ông trong thời gian ông nghèo đến thế à?”

Chẳng có ai!

Chú thích:

[7] Đó là cuốn – Những kẻ bất phục tùng Pari, NXB Asiơ Fôrơ