- XIV -
Bri-ốt-nơ (Briosne) [24]: một Jê-du lác mắt – với chiếc mũ của Ba-ra-bax (Barrabas)[25]. Nhưng chẳng cam chịu, rút lưỡi dao ra khỏi cạnh sườn mình, và bị toạc tay vì bẻ gẫy những mũi gai còn trên trán, kẻ bị hình cũ ở nơi hành hình gọi là khám lớn.
Bị kết án năm năm vì làm hội kín, được thả về trước vài tháng vì thổ ra huyết, trở về Paris không một xu dính túi, hai buồng phổi không lành lại được – nhưng linh hồn Cách mạng đóng chốt vào thân hình!
Giọng nói thấm thía, xuất phát từ một trái tim bị thương như từ một cây đàn vi-ô-lông-xen (violoncelle) rạn nứt; cử chỉ bi tráng: cánh tay giơ thẳng như để tuyên thệ; đôi lúc từ đầu tới chân rung chuyển vì một cái rung mình của cô đồng cổ đại; và đôi mắt, như những lỗ khoét bằng dao, chọc thủng trần nhà ám khói của phòng câu lạc bộ, chẳng khác gì một nhà truyền giáo gia-tô bằng con mắt say đạo chọc thủng nóc nhà thờ và hướng lên trời.
Giữa những cơn ốm đau và thời gian thất nghiệp, giành thì giờ nghiên cứu những sách lớn từ đó anh đã hút nhựa và nhai tủy. Cái đó nâng đỡ anh, như máu bò uống nóng ở lò sát sinh. Sống bằng nhiệt tình của anh – trái tim nâng đỡ lồng ngực; thậm chí đã rút ra từ bệnh hoạn của mình một lý thuyết, nó ở ngoài ý thức của anh, là con để niềm đau khổ của anh, và gây hoảng sợ trên môi anh: “Tư bản sẽ chết nếu sáng sáng người ta không lau guồng máy của nó bằng mỡ người. Đối với những con vật bằng gang thép ấy, phải có sự lau chùi và sức đẩy của người thợ”.
Đối với chính bản thân anh, cũng cần phải có sự lau chùi những lá phổi rỉ máu, và cần phải có vài giọt loại dầu gọi là rượu vang cho cái cơ thể xộc xệch của anh.
Đừng hòng nghĩ tới chuyện đó: anh ăn gọi là và uống nước lã. Anh làm nghề làm hoa lá giả nhưng hoa lá không cứu được anh. Việc sử dụng công cụ lao động gậm nhấm nốt cái sức sống còn lại của anh – chất độc và hùa với đói khát.
Nhưng thứ chất độc khác mà người ta gọi là khí, và những hơi nồng nặc bốc lên từ những đám đông người chất đống trong những gian buồng quá chật, những cái đó lại lấy độc trị độc. Anh phát sốt lên trong đó, và bệnh sốt kích động anh, vực anh dậy và đưa anh lên cao.
Dù thế nào anh cũng đã góp sòng phẳng với cuộc sống. Anh sống mỗi tối ba tiếng đồng hồ mà hơn những kẻ khác trong cả năm – mở rộng thời gian hiện tại bằng hùng biện; lấn tới tương lai bằng ước mơ; con người bệnh tật ấy, ném lời nói lành mạnh cho cả đội quân công nhân, cho những vai lực sĩ và cho những bộ ngực sắt, họ hết sức cảm động thấy người vô sản không phổi ấy tự giết mình để bênh vực quyền lợi họ.
Bri-ốt-nơ bao giờ cũng đi với một người bạn bé nhỏ hơn anh, vận một chiếc rơ-đanh-gốt tươm tất, và bước đi thong thả, đầu hơi nghiêng về một bên và một chiếc ô cắp nách.
Anh này trông giống – có thể lẫn được – một người hồi 1848, ở Năng-tơ, đã làm tôi xúc động mạnh vì lối ăn nói táo tợn. Chính cái táo tợn đó đã làm anh bị đuổi khỏi cái địa vị nhỏ bé nó nuôi sống anh. Uy tín mà anh giành được ở câu lạc bộ làm cho bọn chủ anh mất thể diện và hoảng sợ. Người ta vừa thanh toán với anh xong, và anh từ biệt nhân dân một cách giản dị và trang nghiêm.
- Tôi không thể ở với bà con được nữa; tôi mang trên lưng cái kiếp khổ nhục của những kẻ đói khát. Bây giờ tôi đi Pa-ri, ở đấy may ra tôi sẽ tìm được cách bán thời giờ lấy một mẩu bánh mì… Ở đấy tôi cũng sẽ tìm được cách cống hiến cuộc đời của tôi, một kẻ nghèo khổ, vì như nó có thể lấp một lỗ hổng trên chiến lũy một buổi sáng khởi nghĩa nào đó.
Ít lâu sau người ta hay tin anh đã thực hiện món quà tặng đã hứa. Người ta đã nhặt được xác anh, lỗ chỗ vết đạn, ở chân rào chướng ngại Pơ-ti – Pông – diễn đàn bằng đá của người đảng viên xã hội bị dồn vào cảnh đói khổ ấy và đã thoát ra bằng cái chết.
Lơ-frăng-xe[26] giống con người đó, với bộ mặt vàng võ và trầm tư, khoét đôi lỗ mắt sâu mà hiền. Thoạt gặp người ta tưởng là một người nhẫn nhục, một tín đồ gia-tô, nhưng cặp môi run rẩy bộc lộ nhiệt tình của một người vững tin, và giọng nói “dễ cảm” tiết lậu tâm hồn của con người cầm giũa ấy. Lời nói vọt ra, nóng hổi và vang động giữa một cơn giận rung lên; nhưng cử chỉ của anh giản dị, cũng như quần áo anh mặc giống mọi người và chiếc mũ bẹt. Câu nói của anh chẳng bốc lửa – mặc dù nó nóng bỏng!
Cái đầu con người mơ mộng này không cựa quậy trên thân hình mảnh dẻ, bàn tay nắm lại không rung chuyển diễn đàn, cử chỉ của anh không như thụi vào ngực kẻ địch.
Anh tỳ tay lên một quyển sách, cũng như khi xưa anh làm giáo viên và coi lớp học.
Đôi khi, lúc bắt đầu nói, anh có vẻ giảng bài và cầm thước kẻ trong tay; nhưng một khi vào vấn đề, anh quên mất cái giọng ông giáo, và đột nhiên trở thành một tay rèn tư tưởng, nó bốc khói dưới nhát búa quai thẳng cánh của anh. Anh nện thẳng và mạnh! Đó là kẻ đáng gờm nhất trong giới hùng biện, bởi vì anh ít lời, có lý lẽ… và mang mật đắng.
Đó là mật đắng của nhân dân, của quần chúng đông đảo có vầng trán lấm đất mà anh mang trong máu, và nó làm vàng khè những câu nói trọn vẹn của anh, và nó đem lại cho những lời ứng khẩu của anh mầu sắc những huân chương bằng vàng cũ.
Anh, người thầy cãi của những kẻ chảy máu, mang nặng cái bệnh vàng da cách mạng, có cái nhậy cảm của kẻ bị lột da con người bị thương ấy, không chủ tâm mà làm người khác bị thương! Nhưng đầy lòng chân thật và can đảm – và cuộc đời anh cũng lớn tiếng như tài hùng biện của anh để bênh vực những điều anh tin tưởng. Cái anh Lơ-frăng-xe ấy là nhà đại hùng biện của đảng xã hội.
Đuy-ca-xơ – một người phanh thây. Anh phanh cặp mắt tròn xoe; anh phanh đôi khuỷu tay nhọn hoắt; anh phanh đôi chân đi vòng kiềng; anh phanh cái miệng hề như kẽ ống tiền, từ đó thoát ra một giọng nói the thé và khịt mũi, nó không những làm sầy nhĩ tai, mà còn tượt cả da.
- Cậu giống một con mèo vàng ỉa ở bếp tro, Đa-côx-ta bảo anh.
Anh cũng giống một con mèo cào móng vào cửa kính một gian buồng trong đó nó bị bỏ quên đã ba ngày, nó gầy đi vì đói và vì điên cuồng.
Đấy quả là hai mặt của chàng trai tóc mầu cà-rốt ấy, anh đóng vai Ma-ra với nét mặt ngơ ngác của Lat-xut-sơ, anh đòi dùng máy chém với cử chỉ của con rối, anh lấy giọng của Gral-xô để nói về những “nguyên lý bất tử” và anh hay thốt ra tiếng Nhúp! Nhúp! Giữa hai chuỗi lời nói về Hội nghị Quốc ước.
Người khẳng khiu, tay như que diêm, chân như ống sậy, các khớp xương như chằng dây thép, nhăn nhó và lách cách như đám con rối gỗ ở cửa hiệu bách hóa. Ngộ nghĩnh đến giết người, trong vai hề hung dữ ấy, trước chiếc bàn tiệm cà-phê trên đó anh chất đống những cốc vại mà nhà hàng không từ chối được trước những yêu sách khôi hài và nạt nộ của anh!
- Nếu mày đeo cổ cồn, tao sẽ thắt cho mày chiếc ca-vát bằng gai. Nếu mày không trưng ra cho tao và nữ công dân đây hai cốc nữa – thật ngon! – thì đến Lần sau người ta sẽ cắt cổ mày. Mời nhân dân uống đi mau lên.
Tay chủ tiệm cà-phê tội nghiệp tất tưởi vừa chạy đi, vừa theo bản năng lấy lưng bàn tay rờ lên gáy.
Nhúp! Nhúp!
Nhưng ở chỗ công chúng thì tiếng Nhúp – Nhúp tới với cái đầu của kẻ bị chém biết nói. Anh nghiêm trang bước lên bục, đưa con mắt, nhíu lông mày, vểnh nghiêm ba sợi lông vàng nghệ của bộ râu, bó mình trong chiếc áo rơ-đanh-gốt chật cứng mà xương hằn lên làn da, chiếc quần bằng bùi nhùi mầu cháy, hai ống xoắn lại trên đôi giầy bốt-tin nữ bằng vải chéo mầu xanh. Bàn chân quắt queo của anh vẫn loay hoay trong đôi giầy nữ đỏ - vì ngón chân nhỏ xíu và trơ xương!
Anh cặp bên sườn một chiếc cặp như của một viên mõ tòa hoặc của một ông giáo trường làng. Chiếc cặp dùng lâu đã lốm đốm vết trắng trên nền da đen, tuy vậy nhân dân vẫn nhìn nó một cách kính trọng.
Tựa như trong đó có sổ sách của Cách mạng, có lệnh áp chế đánh vào bọn nhà giầu, có án tử hình đối với bọn bóc lột, có tờ áp-phích để dán lên cửa Ủy ban an ninh công cộng.
Chiếc cặp đó khiến anh được coi như một kẻ chuyên cần khắc khổ, mê mệt về công việc của một thầy tu xã hội chủ nghĩa hay của một tay bạo động có phương pháp. Vì thế, khi anh đã đặt cái thân hình bé nhỏ trước diễn đàn và mở chiếc cặp da, ung dung thong thả lấy ra một phiếu ghi chép nào đó đem đọc như một thầy tu đọc một tiết kinh Phúc âm để rồi bình giải, thì cử tọa kêu “Xuỵt! Xuỵt!”. Người ta khịt mũi như ở nhà thờ trước lúc bài thuyết pháp bắt đầu, va những đầu tay cứng như đá, những kẻ có ý kiến “phải làm như hồi 93”, đều lắng nghe kính cẩn, mà mắt vẫn liếc nhìn những người bên cạnh bị nghi là ôn hòa.
- Chẳng phải là anh ấy sẽ do dự để làm rơi đầu!
Lời đó là để nói với tôi, nó ám chỉ… tôi sẽ do dự, hình như thế. Tại phòng Đê-noa-yê, tôi nổi tiếng là kẻ sẽ không làm như “ông cha ta” sẽ lùi trước những thủ đoạn lớn, và tới chuyến xe tội nhân thứ ba, sẽ mời kẻ hành tội đi ăn một chút và uống một cốc.
Còn như Đay-ca-xơ thì sẽ làm “như ông cha ta”, và sẽ tự tay mang hẳn cơm lên đoạn đầu đài, để khỏi mất thì giờ.
Vâng, thưa các bạn công dân, tôi chỉ thật sự làm tròn bổn phận công dân, tôi chỉ tự thấy mình xứng đáng danh hiệu cao cả là người cách mạng, ngày nào mà, tự tay tôi, tôi phập đầu một tên quý tộc.
Và anh thốt tiếng phập, trước hết với cử chỉ của một con rối cười cợt – quần chúng thích lối nhăn nhó trào lộng và táo tợn – sau đó với vẻ oai nghiêm của kẻ hành hình vua X-tuy-a hoặc vua Ca-pê, hắn rút thanh gươm sáng quắc, hạ xuống một cái cổ đế vương, và làm bắn một cái đầu trước đó bất khả xâm phạm và thiêng liêng.
Anh thè lưỡi ra liếm dao máy chém; anh mài dao đó vào cái lưỡi của một khoa hùng biện khát máu và khôi hài; anh vừa cười vừa tự treo cổ vào sợi dây như một con khỉ quấn đuôi treo mình vào sợi dây chuông của tên đao phủ.
11 giờ tối.
Phải, tất cả những điều cần nói tất nhiên đã được nói! Tôi vừa cảm thấy có một đảng phái vô danh đang xói mòn đất dưới chân nền Cộng hòa tư sản, và tôi đã đoán ra cơn bão sắp tới. Những lời lẽ không thể chuộc lại được đã chói sáng dưới trần nhà như những tia chớp nóng chạy trên một nền trời sắp nứt.
Và những nghị sĩ Pa-ri đã rời phòng họp, uy tín giảm sút và bị tổn thương, mặt mày tái nhợt trước cảnh danh tiếng đang tiêu ma.
Chú thích:
24] Briosne: một đại biểu Công xã Pa-ri.
[25] Barrabas: nhân vật trong kinh thánh phạm tội được tha bổng còn Jê-du vô tội lại bị hành hình.
[26] Lefrancais: nguyên giáo viên bị cách chức năm 1850, sau được vào Công xã.