← Quay lại trang sách

- XV -

10 tháng Giêng 70.

Chúng tôi đang ở trong Thư viện Rit-sơ-li-ơ.

- Láo thật! Họ đồn Pi-e Bô-na-pac-tơ vừa giết chết gã thợ may của y!

Người nói đó đeo kính, có cái mũi dài, một bộ râu rậm, cái miệng nhạo báng, giọng khàn khàn: tên anh ta là Ri-gôn.

- Khá lắm! Khá lắm! Một Bô-na-pac-tơ vào tù và đám thợ may không dám đòi đền mạng! Nhưng không đùa! Cần xem tin đó có đúng không, và làm ầm lên!

- Ai báo tin đó cho cậu?

- Một tên mật thám cũ bị cách chức, nó vẫn cung cấp tin vặt, thằng gì ấy, cậu biết đấy, cái thằng ta đặt viết sách chống Sở cảnh sát ấy mà. Cậu có đến tòa báo Mac-xây-e không?

- Đi, nhanh lên!

Dọc đường, nhiều đồng chí nhập bọn với chúng tôi.

- Không phải một tay nhà thầu bị giết đâu… mà là một tay ở đằng cậu đấy…

- Một cậu trong tòa báo à?

- Phải, bị giết chết tươi! Ta cùng đến phố A-bu-kia đi.

- Này Vanh-trax, khổ thân cho anh bạn đồng nghiệp ấy thật nhưng mẹ kiếp! Lợi cho phong trào cộng hòa xã hội lắm đấy!

Lợi thật. Đúng là một anh bạn đồng nghiệp bị giết chết. Đấy là anh Vic-to No-a.

- Phải, nghe đâu tên khốn kiếp ấy đã bắn một phát vào ngực anh; nhưng người ta bảo anh chưa chết.

- Chưa chết!… Ai đi với tôi nào?

- Đi đâu?

- Tới nhà thằng Bô-na-pac-tơ! Tới Ô-tơ-ri, tới Pat-xy, tôi cũng chưa biết nữa… nghĩa là… chỗ cậu No-a đã tới sáng hôm nay… Ha-bơ-nếch, cho bọn mình một trăm phơ-răng.

Chẳng phải chỉ cần có tiền, phải có vũ khí nữa! Hom-be và Ma-rô-tô cùng kêu lên.

Ha-bơ-nếch, thư ký tòa soạn, chưa được yên tâm lắm.

- Đây! Năm mươi phơ-răng. Gọi xe ngựa, phóng đến đó… chứ vũ khí để làm gì? Một nạn nhân là đủ lắm rồi. Các anh có thể nhão hết, làm hỏng tình thế… Hãy cứ để tội giết người trên tay kẻ sát nhân!

- Thế có để cho nó cả người bị giết không?

- Những ai đi Ô-tơi, ra xe!

Chúng tôi đâm giàu: năm mươi viên đạn bằng bạc, mười viên đạn chì.

Chiếc xe ngựa chạy cọc cà cọc cạch. Chiều xuống; trời mát trên bờ sông.

- Các ông bảo tôi dừng ở đâu nhỉ? Bác đánh xe hỏi, bác không còn nhớ nữa và đưa con mắt lo lắng sục sạo cảnh buồn tẻ của con đường.

Chúng tôi đưa ra một địa chỉ đại khái, chỉ một cái đích tầm phơ.

- Tới địa phương, chúng tôi sẽ bảo.

Chúng tôi đã tới.

Chẳng có vết tích gì của tấn bi kịch! Chúng tôi tới gần mấy người qua đường thưa thớt, từng người một. Họ không biết chuyện gì cả.

- Nhà của ông hoàng Pi-e ở đâu?…

- Ở đây!… Không!… Xa nữa!…

Nhưng kia một ngọn đèn đỏ: một Sở cảnh sát.

Chẳng oong-đơ gì nữa, ta đến ngay đó.

- Thưa ông, chúng tôi là biên tập viên của báo Mac-xây-e. Chúng tôi nghe nói ông Vic-tơ No-a…

- Bị thương… Thưa ông, đúng.

- Bị thương nặng à?

Viên cảnh sát phác một cử chỉ ảo não rồi biến mất.

No-a đã được đem tới nhà người anh trai, ở một phố khu Nơi-y, yên tĩnh, câm lặng, có vài cây giơ cành đen trụi lên trên những ngôi nhà mới tỏa hơi yên tĩnh và sặc mùi vôi vữa.

- Ngõ Mat-xê-na: ở đây!

Người anh chạy ra đón chúng tôi. Con mắt chúng tôi dò hỏi anh, anh im lặng cũng là trả lời.

Không nói không rằng, anh dẫn chúng tôi vào một gian buồng tràn ngập bóng tối và để chúng tôi trước mặt người chết.

Anh No-a được đặt nằm trên chiếc giường chăn nệm gọn nguyên, mặt hầu như tươi cười. Trông anh có vẻ như một đứa trẻ to lớn đang ngủ; với hai bàn tay đeo găng da dê đen; anh cũng giống một chàng phù rể leo lên gác để ngủ trưa, trong khi đám cưới vẫn đang vui nhộn ở dưới vườn.

Thân hình anh bó chẽn trong một chiếc quần ca-di-mia – mà anh chẳng trưng diện ấy – đã mua tại hiệu Jac-di-ni-e, để vận vào những ngày lễ lớn – và chiếc yếm sơ-mi hồ cứng dán vào bộ ngực rộng, không một vết nứt rạn, nhưng có một đốm xanh ở một góc. Chính viên đạn đã gây nên đốm xanh đó khi xuyên vào tim anh.

- Trước khi đi, anh ấy có đau dữ không?

- Không, nhưng phải tổ chức tang lễ thật dữ vào!

Thế là lời lẽ tuôn ra, dồn dập và cháy bỏng từ những cặp môi se lại vì lo sợ, của bọn tôi.

- Hay chúng ta khiêng anh đi?… Như vậy mới xứng với vụ tháng Hai!… Ta đặt anh ngồi trên một chiếc xe bò như người bị bắn ở đại lộ Ca-puy-xin, và ta sẽ hô cầm vũ khí khắp các phố!…

- Phải đấy!

Các tiếng nói đều nghẹn ngào, nhưng giọng cương quyết.

- Liệu bác đánh xe có nhận chở thi hài không?…

- Bác ta sẽ không biết gì cả; ta lại vận áo rơ-đanh-gốt cho anh ấy, và khiêng anh xuống như một người ốm; tới chân cầu thang, ta chụp mũ vào đầu anh rồi đặt lên xe…

Cả anh Luy cũng không lưỡng lự, anh trao xác em trai cho bọn tôi.

Nhưng chúng tôi bỗng chột dạ.

- Song chỉ có bốn người, chúng ta không thể lôi cuốn nhân dân được!

Và, rủi cho Cách mạng, bọn tôi đã khiêm tốn – hoặc hèn nhát! Chúng tôi đã bỏ rơi con bài; chúng tôi không dám liều một quắn với món tiền đặt đẫm máu ấy.

Bọn tôi trở về thành phố.

Trời không còn sáng nữa, và khi chúng tôi quay lại nhìn qua cửa xe ngôi nhà mà anh bạn chúng tôi nằm, chúng tôi tưởng anh đang tựa cửa sổ và đôi mắt giương to nhìn chúng tôi chòng chọc.

Đó là người anh trai của anh phơi ra trước gió chiều vầng trán nhơm nhớp và mí mắt đỏ hoe.

Bọn tôi ngẹn ngào. Hai anh em họ giống nhau như hai giọt máu.

Tại tòa báo Macxaye.

Pa-ri đã biết tin vụ án mạng!

Tại tòa báo, các biên tập viên túc trực và từ bốn phía những người cộng hòa chạy đến.

Fông-vien tới, chiếc áo ba-đờ-xuy bị thủng – một viên đạn đã khoét cho anh một lỗ khuyết mới. Anh kể lại những điều chính mắt anh trông thấy: khẩu súng lục rút từ túi ra, No-a bị nhắm bắn, trúng đạn và chạy trốn, chiếc mũ nắm chặt trong các ngón tay co lại, cái chết trong ngực!

- Thế còn các anh? người ta hỏi chúng tôi.

Chúng tôi thuật lại cuộc hành trình, và ý nghĩ đã đến với chúng tôi.

- Thế rồi để xác anh ấy ở đâu?

- Ở đây!… - Ở một ngoại ô!… - Ở nhà Rô-sơ-fo.

Nhà anh ta bất khả xâm phạm.

Thuyết này được người ta nhiệt liệt bênh vực.

- Với tư cách là nghị sĩ, anh ta có quyền kháng cự bằng gươm và bằng súng kẻ nào định vượt ngưỡng cửa nhà anh. Và biết đâu đấy? Phố Prô-văng-xơ chẳng xa Tuy-lơ-ri bao nhiêu!…

Tôi thì tôi muốn người ta đặt Vic-tơ No-a ngay trên bàn làm việc của chúng tôi, đêm nay, như đặt trên một bệ đá tại Nhà xác, và những con cưng của quần chúng, mặc áo choàng hoặc áo lao động, đến gác quanh người bị giết!

- Phải có xác anh ấy để làm việc đó!

- Ta đi kiếm!

Nhưng lời cửa miệng của các cuộc cách mạng đã được ném ra: Muộn quá rồi!

Lúc này, ngôi nhà ấy ắt đã bị canh gác và bao vây.

Rõ ràng chúng tôi là những anh nhà báo!

Thế mà thời cơ đến thật là thuận lợi! Liệu trong cuộc nội chiến, có nên để cho lòng táo bạo tê liệt đi không! Ai là kẻ sẵn sàng kiên quyết liều mạng mà chẳng có quyền dựng rào chướng ngại theo kiểu của mình, và trao quyền chỉ huy nõ cho một cái xác chết – nếu như một kẻ chết rồi làm người ta sợ hơn một kẻ còn sống!

Chính là anh ta có một tầm vóc khổng lồ, mà một cái đầu to lớn đến mức phải nã hàng vài chục phát súng nó mới tan vỡ được trên đôi vai lực sĩ của anh.

Trong khi chờ đợi, Pa-ri bị sôi sục. Có một cuộc họp tại Be-lơ-vin. Trong phòng lớn Fô-li, nhân dân đến chật ních, xao xuyến.

Trên mặt bàn chủ tọa, một tấm màu tang, và trong bong tối tấm màu đỏ, những cơn thịnh nộ nổ ra đối với tên sát nhân, và cuộc hẹn hò chiến đấu được quyết định ở bên quan tài.

- Phải chấm dứt cái cảnh này!

Lại một câu nói đã được tung ra, xưa kia, vào những giờ phút bi thảm, một lời nói nhặt trong lịch sử xa xăm, nó thoát ra từ nghĩa trang những người khởi nghĩa thuở trước, để trở thành châm ngôn của những người khởi nghĩa sau.

Chỗ nào cũng thấy phụ nữ - Một dấu hiệu rất tốt.

Khi phụ nữ dính vào câu chuyện, khi người nội trợ thúc đẩy ông chồng, khi chị dứt lá cờ đen phấp phới trên nồi cơm, đem ra cắm ở ngoài đường, ấy là lúc mặt trời mọc trên một đô thành nổi loạn.

12 tháng Giêng.

Mọi người sẽ gặp nhau ở đám tang.

Nhưng đáng lẽ cuộc đưa ma phải xuất phát từ tòa báo Mac-xây-e. Cuộc tập hợp phải diễn ra trong phố của tòa báo; khu phố náo động phải tràn ngập những người biểu tình phẫn nộ và người ta phải đợi tập trung hàng ngàn người để khởi hành!

Biết đâu cái thác người đó lại chẳng cuốn theo hàng trung đoàn và pháo binh, nhấn chìm kho thuốc súng của Đế chế, và trôi phăng như rác rưởi, cả bè lũ Na-pô-lê-ông?

Có lẽ thế!

Dưới mái Ôđêông

Chính Rigôn chỉ huy cuộc vận động này; như một viên đội mắng tân binh, như con chó của người chăn cừu xua đuổi đàn cừu, anh xếp người này vào hàng, la ó người khác.

- Bốn người một, đi sát nhau. Đứng vào hàng, mẹ kiếp!

Những khẩu lệnh nghiêm trang:

- Ai có súng lục, đi đầu!

Những khẩu lệnh ngộ nghĩnh:

- Ai chột dạ, đi giữa!

Đi cuối cùng là những người chỉ có những dao mổ, những compa những dao thô cán bịt sắt, loại dao này tuy nhiên gây những vết thương kinh khủng – những thỏi sắt hay thép giấu dưới éo vét thợ…. Bởi vì thợ ứ ra trong đoàn người của Khu phố La-tinh này.

Họ trước là hàng xóm, sau trở thành bạn của khối sinh viên trong vụ âm mưu Phục hưng hoặc trong âm mưu khác thất bại và bị truy nã. Họ đã tham gia các Ủy ban xã hội với những người ủng hộ cuộc ứng cử của Rôsơfo và Cantagren. Người ta đã uống cà phê pha rượu với nhau ngày bầu cử, người ta lại đã cùng ăn cám nắm trong nhà tù Mazax.

Rigôn tin ở những anh chàng công xưởng này hơn là những chàng trai Trường học; vì vậy anh mới đặt họ đi tập hậu. Họ sẽ thúc vào lưng bọn đi giữa để đẩy họ tiến lên; họ sẽ đâm xả vào bọn ấy nếu họ định chạy trốn.

Anh vừa kể với tôi như vậy, vừa hít thuốc, lúc nào cũng hít thuốc, cằm nhọ, áo gilê bẩn, hai lỗ mũi khô cứng, nhưng có gì tự hào trên vầng trán và trong ánh mắt.

Anh làm cho hộp thuốc rít lên, kiểu Rô-be Make[27]; anh chàng tinh quái ấy, anh còn làm tôi nghĩ tới Napôlêông vừa nhón thuốc trong túi, vừa đọc kế hoạch tác chiến.

Chẳng phải lưỡng lự gì, anh ta có cái hung bạo!

Lúc anh vừa vuốt ve khẩu súng lục như người ta vỗ má một đứa bé, vừa nói: “Ngủ đi, con, ngủ đi!”, xong anh vừa nói thêm vừa lấy ngón tay dọa đùa nó: “Phải xem khi mày thức dậy, nhãi con! Và nổ vào bọn lính”, cái đó làm bọn đi giữa vững tâm, vì họ không tin người ta có thể ba lơn như thế khi người ta phải tới đó thật sự.

Và cái đó thì những người kiên quyết chẳng phải là không ưa, họ cảm thấy cái gã tinh quái đeo kính và có râu kia sẽ khạc đạn cũng như chửi vào mặt bọn lính, và anh sẽ giơ ngực ra cho chúng cũng như chổng đít vào chúng – cao cả hoặc thô lỗ, tùy theo tình thế sẽ bi tráng hoặc khôi hài.

Lên đường.

- Tiến lên!

Đi đầu là năm sáu anh đeo mục kỉnh, những thanh niên có vẻ chín chắn.

Rigôn là người khinh xuất duy nhất trong đám, mà cho dẫu thế anh vẫn có bộ mặt nghiêm trang nếu anh không cố tình xù lông lên, nếu anh không khàn khàn và gây gổ cái giọng, và, để diễn tả ý kiến của anh về giới tăng lữ, giới quý tộc, giới quan tòa, quân đội, trường Xoocbon, anh không bắt chước cử chỉ của con cún con giơ cẳng lên làm ô uế cả những đền đài.

Brơiê, Grănggiê, Đacôxta, những anh này giống những giáo sư khoa học với cặp mắt sưng lên vì đọc sách.

Những người kỳ cựu trong đoàn quân tự hỏi tại sao những anh đeo mục kỉnh kia lại “tự xưng làm lãnh tụ?”

Họ chẳng giống XanhJuyxt, Đêmulanh, cũng như cánh Môngtanha, cánh Girôngđanh! Đã thế người ta còn nghe thấy họ bảo bọn nghịch ngợm cánh tả là ngu ngốc và phản bội!

Họ thuộc về phái nào?…. đấy là những người của Blăngki.

Từ khắp phía, từng tốp nhỏ, hoặc từng cả đoàn lớn như chúng tôi, Pari ngược về phía Nơi-y, người ta đi bước đều khi được một trăm người, người ta khoác tay nhau khi được bốn mươi người.

Đấy là những mẩu quân đội đi tìm nhau, những mảnh của nền Cộng hòa gắn lại với nhau trong máu của người chết. Đấy là con vật mà Pruyđom gọi là con thủy quái vô chính phủ, nó thò ra nghìn cái đầu gắn vào cái thân của một tư tưởng chung, với những cục than hồng phẫn nộ lóng lánh trong những hố mắt.

Những cái lưỡi không rít lên; mảnh vải đỏ chẳng phấp phới. Người ta không có gì để nói với nhau, vì người ta biết rõ điều mình muốn.

Những trái tim căng phồng niềm hy vọng chiến đấu – những túi quần áo cũng căng phồng.

Nếu người ta khám xét đám đông này, người ta sẽ thấy ở trong mình họ toàn bộ đồ nghề của các bàn thợ, toàn bộ đồ sắt của các nhà bếp, con dao, cái khoan, dao cắt sắt, rũa, trên đầu có nút bịt, nhưng tất cả đều sẵn sàng ra khỏi nút chai để đâm vào thịt bọn mật thám. Cứ phát hiện ra một thằng…. người ta sẽ cắt tiết nó.

Và bọn cảnh sát hãy coi chừng! Nếu chúng tuốt vũ khí, người ta sẽ chọi dụng cụ lao động với dụng cụ giết người!

Những kẻ ngồi không cũng có việc của họ, những báng súng ngắn đắt tiền toát mồ hôi dưới những bàn tay hâm hấp và đeo găng.

Thỉnh thoảng, một cái mõm mài sắc thành dao găm đó, họng một khẩu súng lục đó thò ra ngoài chiếc áo choàng hoặc chiếc áo rơđanhgốt cài không kín. Nhưng chẳng ai chú ý tới. Ngược lại, người ta nở một nụ cười kiêu hãnh, để tỏ ra rằng bản thân người ta cũng đủ sức và đủ ý chí trả lời bọn cảnh sát – thậm chí cả quân đội nữa.

Cảnh sát câm họng! Quân đội mất hút!

Chính đó là điều làm tôi suy nghĩ! Biết đâu lát nữa, chúng tôi lại không bị bắn tạt sườn bởi một tràng đạn lia ra từ một căn nhà đóng kín cửa, ngay khi tiếng hô đầu tiên chống Đế-chế do một người hăng hái hoặc một tên phản bội ném ra!

- Thế càng tốt! Một người đi cạnh tôi có bộ đảng viên hội kín nói. Giai cấp tư sản đã rời cửa hàng của họ, đi với nhân dân. Thế là nó bị ta cầm tù, chúng ta sẽ giữ chịt nó trước miệng súng tới lúc nó cũng bị lòi ruột như chúng ta. Bây giờ thì chính nó sẽ thét lên vì đau đớn, và nó sẽ là kẻ đầu tiên ra lệnh khởi nghĩa. Việc của ta là lái phong trào và xả liên thanh vào cả bọn: tư sản lẫn Bônapactit!

Một bộ mặt nghiêm trang quay sang phía chúng tôi, một bàn tay nhăn nheo đặt lên cánh tay tôi. Đó là cụ Mabiơ, vừa tới kịp lúc để nghe cái thuyết của nhà đại số học về tàn sát, và, bằng bộ mặt xám, cụ tán thành.

Tôi hỏi cụ có vũ khí không.

- Không. Tốt hơn là để người ta giết tôi trong khi tôi không có gì để tự vệ. Những người đa cảm sẽ viết lời về một ông già không có vũ khí bị bọn lính say rượu giết chết! Thế mới hay, anh hãy tin tôi!… Chà! Giá như máu chảy được! cụ kết luận với niềm dịu hiền chan chứa trong cặp mắt xanh biếc.

- Thì ta cứ nổ súng trước.

- Không! không! Phải để cho bọn lính bắt đầu.

Chú thích:

[27] - Robert Macaire: nhân vật kịch điển hình của hạng kẻ cướp huyênh hoang.