- XIX -
6 tháng Chín – Blăngki.
Mười giờ sáng họp, phố Chợ.
Một ông già nhỏ bé, cao bằng chiếc bốt, lút mình trong một chiếc áo chùng, cổ quá cao, tay áo quá dài, vạt dưới quá rộng, đang dọn giấy má ở trên bàn.
Cái đầu động đậy, bộ mặt xám; cái mũi to nhọn như mỏ chim, gẫy ở giữa một cách kỳ cục; mom móm, giữa hai lợi ngọ nguậy một mẩu lưỡi hồng và run rẩy như lưỡi trẻ con; nước da khoai tía.
Nhưng, trên tất cả những cái đó, một vầng trán rộng và đôi con ngươi lấp lánh như những mảnh than đá. Đấy là Blăngki.
Tôi xưng danh. Cụ giơ tay bắt tay tôi.
- Tôi muốn làm quen với anh từ lâu rồi. Người ta nói với tôi rất nhiều về anh. Tôi muốn gặp riêng anh trong một góc, ta sẽ nói chuyện… như những đồng chí. Lát nữa, xong việc ở đây, anh đến nhà tôi. Đồng ý chứ?
Cụ đưa địa chỉ cho tôi, tiễn tôi bằng một cử chỉ thân thiện, rồi hỏi xem những người vụ La Vilet đã đến hay chưa.
Cuộc họp vừa xong, tôi liền chạy đến nhà cụ.
Cụ ở tại nhà một người bị đày cũ trong vụ Đảo chính, cụ đến đây trốn sau vụ mạo hiểm La Vilet.
Lúc tôi tới, cụ cầm trong tay một cây bút chì, cụ đang thảo một bản tuyên bố mà cụ đọc cho tôi nghe.
Đấy là một bản đình chiến nhân danh Tổ quốc ký kết giữa cụ với Chính phủ Quốc phòng.
Tôi ngẩng mũi lên.
- Anh thấy tôi lầm chăng?
- Nội trong một tháng, cụ sẽ bị coi là cừu địch!
- Nếu thế thì do bọn chúng!
- Ít nhất cụ cũng nên nhấn mạnh bản tuyên bố bình thản của cụ bằng một câu.
- Có lẽ thế… Xem nào, viết gì?
Tôi cầm lấy bút, viết thêm: “Phải khua mõ ngay từ hôm nay!”
- Phải, đó là một cách kết thúc.
Nhưng cụ lại đổi ý, và gãi đầu:
- Cũng chẳng đơn giản đến thế.
Như thế đó, con ma của khởi nghĩa, nhà hùng biện đeo găng đen, con người đã tập hợp hàng trăm ngàn người tại Quảng trường Mác, mà tài liệu Tasơrô định vu cho là một tên phản quốc.
Người ta bảo rằng chiếc găng đen kia che giấu một bệnh hủi; rằng cặp mắt cụ nhòa cả mật lẫn máu… trái lại, cụ có bàn tay sạch sẽ và con mắt trong sáng. Cụ giống như một nhà dạy trẻ, kẻ kích động những biển người ấy!
Và chính đấy là sức mạnh của cụ.
Những tay hùng biện có bộ dạng hoang dã, vẻ mặt sư tử, cổ bò mộng, nhắm vào cái thú tính ngang tàng hoặc man rợ của đám đông.
Còn cụ Blăngki nhà toán học lạnh lùng của nổi loạn và trả thù, dường như cầm trong các ngón tay gầy gò, bảng tổng kê những đau khổ và quyền lợi của nhân dân.
Lời nói của cụ không bay như loại chim lớn, với tiếng đập cánh mênh mông, trên những quảng trường công cộng, ở đó người ta thường không quan tâm đến suy nghĩ, mà muốn được ru ngủ bằng thứ âm nhạc vô bổ cho tư tưởng do mọi cảnh náo nhiệt rộng lớn gây nên.
Những câu nói của cụ như những mũi gươm cắm xuống đất, nó run rẩy và rung động trên thân bằng thép của nó. Chính cụ đã nói: “Kẻ nào có sắt thì có bánh”.
Bằng một giọng nói bình tĩnh, cụ buông rơi những lời như chém xuống, vạch một đường sáng trong đầu óc người dân ngoại ô và một vệt đỏ trong thịt bọn tư bản.
Và chính vì cụ nhỏ nhắn và có vẻ yếu đuối, chính vì cụ như kẻ hấp hối, chính vì vậy mà con người còm cõi đó, bằng hơi thở ngắn ngũi, làm cháy bùng cả đám đông, và họ lấy vai làm kiệu khênh cụ lên.
Sức mạnh cách mạng nằm trong tay những người mảnh dẻ và những người giản dị… nhân dân yêu mến họ như yêu đàn bà.
Có chất đàn bà trong con người Blăngki ấy, cụ bị bọn cổ điển của Cách mạng buộc tội là phản nghịch, cụ đã gợi lên, để tự bảo vệ, những kỷ niệm về gia đình cụ bị bỏ rơi vì chiến đấu và vì tù tội, và bóng ma của người vợ yêu chết vì đau khổ – nhưng vẫn luôn luôn ngồi trước mặt cụ, trong cảnh cô đơn của ngục tối, mà gió biển khóc than đập bên ngoài.
Năm giờ – Bãi La Coocđori.
Buổi chiều nay, nhân dân đã hội họp.
Cái chính trị lối cũ phải chết ở chân giường trên đó nước Pháp nằm đẻ đang hấp hối – nó không thể đem lại cho chúng ta sự khuây khỏa, cũng như hạnh phúc.
Vấn đề là không nên đầm mình trong vũng phân người ấy, và muốn cho cái nôi của nền Cộng hòa thứ ba khỏi thối nát trong đó thì phải trở lại cái nôi của cuộc Cách mạng đầu tiên.
Ta hãy quay trở lại phòng Jơ-đờ-Pôm.
Jơ-đờ-Pôm, vào năm 1871, nằm ngay giữa trái tim của Pari thất trận.
Giữa viện Tămplơ và Tháp nước, không xa Tòa Thị chính, các bạn có biết một cái bãi hết sức ẩm thấp, nằm kẹp giữa mấy dãy nhà. Những người buôn bán nhỏ ở tầng dưới của những ngôi nhà này, con cái họ thường chơi ở ngoài vỉa hè. Không có xe qua lại. Các tầng gác xép đầy những người nghèo.
Người ta gọi cái bãi trống hình tam giác đó là Bãi La Coocđơri.
Thật là vắng vẻ và buồn rầu, cũng như phố Vecxay, nơi Đẳng cấp thứ ba lặn lội dưới trời mưa; nhưng từ cái bãi này, cũng như xưa kia từ cái phố mà Mirabô đi lại, có thể phát ra một tín hiệu, tung ra một khẩu lệnh mà quần chúng sẽ nghe theo.
Các bạn hãy nhìn kỹ cái ngôi nhà quay lưng ra phía Trại lính và một mặt nhìn ra Chợ. Ngôi nhà đó yên tĩnh như mọi nhà. Hãy leo lên gác!
Ở tầng thứ ba, có một cửa ra vào mà chỉ hích vai một cái là đổ, qua đó người ta vào một gian phòng to và trần trụi như một lớp học.
Các bạn hãy chào đi! Đây là nghị viện mới.
Chính Cách mạng đang ngồi trên những chiếc ghế dài kia, đứng tựa vào các vách tường kia, tỳ tay trên diễn đàn kia: Cách mạng vận áo công nhân! Chính đây là nơi họp của Hội quốc tế những người lao động và là nơi hẹn hò của Liên hiệp nghiệp đoàn thợ thuyền.
Nơi đó có giá trị ngang tất cả những nghị trường nhân dân thời cổ đại, và qua cửa sổ có thể lọt ra ngoài những lời làm sôi sục đông đảo quần chúng, chẳng khác gì mà những lời Đăngtông, quần áo xộc xệch và thét vang như sấm, ném qua cửa sổ Tòa án tới nhân dân đang bị Rôbexpie làm cho khiếp đảm!
Cử chỉ ở đây không ghê gớm như cử chỉ của những người hồi ấy, và không nghe thấy tiếng trống của Xănte rung lên trong một góc. Cũng không có cái bí mật của những hội kín, ở đó người ta đeo băng bịt mắt để tuyên thệ, và dưới mũi nhọn của một con dao găm.
Đây là Lao động vận áo sơ-mi trần, giản dị và khỏe mạnh, với những cánh tay của thợ rèn, Lao động mang dụng cụ sáng loáng trong bóng tối và kêu lên:
- Người ta đừng hòng giết tôi! Đừng hòng giết tôi, và bây giờ tôi nói!
Và họ đã nói!
Những người của Quốc tế, tất cả những người xã hội có tên tuổi – trong đó có Tôlanh – đã họp. Và từ một cuộc tranh luận kéo dài bốn tiếng đồng hồ, vừa xuất hiện một lực lượng mới: Ủy ban Hai mươi quận.
Đó là phân khu, là chi khu, như trong những ngày 93 vĩ đại, là một cuộc liên minh tư nguyện những người công dân đã được tuyển lựa và tập họp thành từng nhóm.
Mọi quận có bốn đại biểu thay mặt do hội nghị vừa chỉ định, và tôi là một trong những người được chọn có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của một khu ngoại ô phía trên, chống lại Tòa Thị chính.
Chúng tôi vừa căng ra trên khắp đô thành mạng lưới của một liên minh, nó đẻ ra vô số những liên minh khác với liên minh Quảng trường Mac… cho dẫu liên minh này đã gây được tiếng tăm đến thế nào trong lịch sử.
Ấy là tám mươi người nghèo từ tám mươi căn nhà tồi tàn mà ra, họ sắp nói và hành động – nên, nếu cần – nhân danh tất cả những phố của Pari, đoàn kết trong cảnh bần cùng và để chiến đấu.
Bảy giờ - Belơvin.
Chúng tôi ngược lên Belơvin, bằng bước xung kích.
Chúng tôi sẽ tổ chức một câu lạc bộ.
Nhưng trước hết, một người trong bọn tôi đã phải nói với một đồng chí chủ một quán ăn mới có được, không mất tiền, một bình rượu và một con bê thui mà chúng tôi vồ lấy ăn ngon lành.
Số là từ hai hôm nay, bọn tôi chẳng tọng vào họng súng được bao nhiêu, và người ta lại hò hét quá nhiều: đâm đói meo!
Ta đang tiến hành cách mạng phải không, bố? Đàn con ông hàng rượu hỏi, chúng ngỡ đó là một ngày hội để người ta vận quần áo đẹp, hoặc một cuộc ẩu đả để người ta sắn tay áo.
Thật tình, chẳng có vẻ gì là cách mạng… người ta không thể bảo rằng cái gì như một nền Đế-chế vừa xụp đổ.
Vấn đề lúc này là tập hợp nhân dân.
- Làm thế nào?
- Tôi nghĩ ra rồi! Uđê nói.
Anh đã trông thấy nhóm tàn binh của một trung đoàn giạt tới dưới ánh nắng của một trại lính. Anh liền đi vào phố, tới chỗ lính tản mát, tìm một anh lính kèn trong đám, kéo anh ta tới một cột mốc bảo:
- Cậu trèo lên đây, và thổi kèn đón Cách mạng.
Và anh lính kèn đã thổi!
Tò te tí te! Tò te!
Cả khu phố kéo tới.
- Cậu cố giữ mọi người trong cuộc diễu hành, trong khi bọn mình chạy đi tìm một rạp xiếc.
- Ở đâu?
- Ở Fôli - Belơvin, một anh đề nghị: rạp ấy có thể chứa được ba ngàn người.
- Tôi muốn gặp ông Giám đốc?
- Tôi đây.
- Bạn công dân, chúng tôi cần đến cái rạp của bạn.
- Ông có trả tiền tôi không?
- Không. Nhân dân yêu cầu bạn cho chịu; rồi người ta sẽ quyên tiền. Nếu điều đó không vừa lòng bạn, kệ! Bạn ưng người ta phá cửa và đập gẫy ghế chăng?
Tay chủ gãi đầu.
Tò te tí te! Tò te!
Tiếng kèn nghe gần lại. Đám đông đang tiến.
Hắn đã nhận lời – phải thế thôi!
Cuộc họp.
Người ta đã thành lập ban điều khiển. Uđê, người vùng đó, chủ tọa.
Anh nói vài lời cám ơn cử tọa, rồi nhường lời cho tôi giải thích tại sao bọn tôi đến, và bọn tôi nhân danh ai mà nói.
Cử tọa xúc động!
Tôi đã nói những điều cần nói, hình như thế.
Và hội nghị hoanh nghênh chương trình của Công xã phác thảo trong tờ áp-phích ở La Coocđơri.
Một phát súng nổ.
- Bắt lấy tên giết người!
Vài người chạy xô lên diễn đàn và kêu lên rằng, bên cạnh họ, ở kia, ngay trên vỉa hè có kẻ vừa giết một người của bọn họ.
- Chính một tên cảnh sát ăn mặc vận thường đã bắn!
Toàn đội cảnh sát khu phố lẩn trốn từ ngày mồng 4 đã phản công!… Chúng ta sắp bị tấn công!
Một cơn hoảng sợ trong các góc rạp; nhưng tuyệt đại đa số đứng lên:
- Nền Cộng hòa muôn năm!
Và trên đầu mọi người lấp lánh và vùng vẫy những võ khí bằng đủ thứ kim loại và đủ mọi cỡ.
Dưới một tia sáng hơi đốt, lóe lên một lưỡi rìu không biết lấy ở đâu. Trong một khung cửa, một người lấy ra những quả bom giống những củ khoai Oocxini.
- Chúng cứ việc tới!
Không có ai tới cả. Tên hung thủ đã trốn mất rồi.
Rồi người ta có tìm ra hắn không? Không biết.
Nhưng ngay lập tức, hội nghị biểu quyết tất cả mọi người sẽ đi đưa đám người chết.
Hôm đưa đám, người ta đẩy tôi đi trước đoàn tang, và người ta đòi hỏi công dân Vanhtrax phải có diễn văn.
Người phu đào huyệt vừa nghỉ, tay tì lên cán mai, trên nghĩa trang bỗng im phăng phắc.
Tôi bước lên, và tôi chào một lần cuối cùng người đã bị nạn ở giữa chúng tôi, mà nấm mồ kề sát ngay chiếc nôi của nền cộng hòa.
- Vĩnh biệt anh Bécna!
Những tiếng xì xào… Tôi cảm thấy có ai kéo vạt áo tôi.
- Tên anh ấy không phải là Bécna, mà là Lămbe, bố mẹ anh nói nhỏ vào tai tôi.
Những con người khốn khổ! Tôi đứng thẫn thờ, hơi cảm động, nhưng chính mối xúc động đó đã cứu tôi khỏi lố bịch, và mở rộng lời nói của tôi.
- Niềm kính trọng của chúng ta càng phải sâu sắc biết bao trước quan tài của người người vô danh ngã xuống không có vinh quang, được hưởng một niềm tôn kính chẳng phải dành riêng cho cá nhân họ vẫn khiêm tốn trong dũng cảm và khó nhọc, mà là dành cho đại gia đình nhân dân, trong đó họ đã sống và vì nó họ đã chết!
Chẳng làm sao cả, dù thế tôi cũng đã làm rầu lòng gia đình Lămbe!
Câu lạc bộ muốn có đại biểu của nó ngồi vào bàn của Thị chính. Nó ra lệnh cho bọn tôi lập tức đến đóng tại tòa Thị chính và cho năm người có võ khí – không kém một người – để giúp sức bọn tôi.
Bọn tôi đã bị đuổi đi.
Năm người kia muốn giữ bọn tôi lại ở cầu thang: nếu cần thì sẽ chết ở đấy! Hình như họ cho bọn tôi là nhu nhược, vì bọn tôi không bảo họ tấn công.
Trong lúc chúng tôi cầm cự với chúng, mẹ kiếp! Một người trong bọn anh sẽ đi cứu viện, viên đội vừa nói vừa xoắn ria mép.
Cứu viện?… Liệu chúng tôi có tìm được một đại đội trọn vẹn để theo chúng tôi tới cùng không, dù chúng tôi tối nào cũng được hoan hô?
Ba bốn lần, người ta quyết định sẽ kéo nhau cả đoàn tới Thị sảnh.
Một nửa phòng họp giờ đã giơ tay; người ta hốt hoảng thốt ra những lời hăm dọa; bọn tôi đã sợ bị kéo đi quá xa.
Quá xa!… Cũng chỉ tới đầu phố, tới đây mọi người tản mát cả, để lại bọn tôi ba bốn người tới dọa Chính phủ
Bọn tôi lên xe ngựa – mất toi ba xu – và chúng tôi buồn bã xách bản yêu cầu hoặc bản tối hậu thư đi lang thang trong những hành lang sáng lờ mờ; gặp bộ mặt gỗ khi tới phòng giấy của Aragô, gặp bộ mặt khi nào chúng tôi nổi giận. Bọn lính gác động đậy trong bóng tối, theo hiệu lệnh của một tay vận thường phục nào đó, đeo băng và đi bốt to tướng.
Tôi đã tưởng rằng làm chỉ huy tiểu đoàn thì sẽ tăng sức mạnh hùng biện của tôi, và tốt hơn hết là nói xong thì cho người ta trông thấy mũi nhọn của người lưỡi lê.
Thế là tôi nộp đơn xin gia nhập ngành quân sự, tuy bản thân tôi xưa nay chưa làm lính bao giờ, lon ngủ vẫn làm tôi phì cười, và tôi rất sợ khi bước đi vướng chân vào vỏ gươm.
Đã có hội đàm với một vài cấp to của khu phố, ở nhà tay chủ xưởng Menzetza, tay này trước ngỡ tôi có bộ mặt tướng cướp, bây giờ lại thấy tôi có vẻ xởi lởi… điều này đã làm cho một tay theo phái Mara nghiến răng, vì hắn muốn tất cả những kẻ có nhiệm vụ chặt đầu phải có một cái đầu làm cho người ta sợ, nhưng điều đó lại làm cho các vị thân hào được yên tâm, và đã khiến tôi được bầu ra với gần hết số phiếu!
Danh giá, quả là đắt! Tôi phải có một chiếc mũ kêpi thêu bốn đường chỉ bạc: tám phơrăng, không kém một xu, mà đấy là mua ở hiệu ông Bruynơrô, bạn của Pyat, ông ta để lại cho tôi theo giá vốn.
Tôi muốn dừng lại ở đấy khoản chi phí cho bộ đồng phục, nhưng đôi giày của tôi đã ọp ẹp và qua hai ngày, tôi nhận thấy nó chạm đến sĩ diện của tiểu đoàn.
Tôi đã đặt vấn đề giầy với một ủy ban, nó đã họp không có mặt tôi, rồi long trọng cho gọi tôi đến.
- Bạn công dân, mọi người vừa biểu quyết cho bạn một đôi bốt đế kép. Người báo cáo nói thêm: Như thế để bạn thấy, nhân dân quý trọng bạn đến chừng nào!
Ở đâu cũng có những kẻ ghen tị! Đôi đế kép ấy làm người ta càu nhàu.
Nhưng tôi không thể giựt nó ra được. Thế rồi nó làm tôi ấm, và đôi chân tôi hả hê.
Mặc, người ta vẫn xì xào, không phải trong phe tiến bộ, mà những người tốt biết rằng tôi đã mòn cả giầy lẫn người để phục vụ họ, nhưng viên thị trưởng đã tiến hành một âm mưu thưởng những ngón chân nào chĩa móng ra.
- Rồi chúng chĩa cả răng nữa, anh thư ký đại hội hai nói bằng một ngôn ngữ bóng bẩy, khi anh báo tin cho tôi biết, trong báo cáo buổi sáng.
- À! ra thế! Được rồi!
Một hồi trống.
- Những người không có giầy ngày mai sẽ đi đất tới ban tham mưu, ông thiếu tá sẽ đích thân tới tòa thị chính. Họ phải cắm lưỡi lê vào nòng súng và mang đạn trong bao.
Họ đã tới chỗ hẹn, chân không giầy.
Đám đông cười ồ, ngạc nhiên, bàn tán.
- Đằng trước, tiến.
Cơ quan thị chính xúc động.
Viên thị trưởng, xuất thân là anh bán kính, lấy một chiếc ống nhòm hải quân và chõ về phía chúng tôi.
Hắn trông thấy bầy quân chân sạm nâu bấm xuống để chờ xung phong, kẻ thì nhợt nhạt hy vọng, người thì tím mặt căm giận…
Chuyện đó không kéo dài!
Lúc chúng tôi xếp hàng dưới cửa sổ buồng thị trưởng, đột nhiên, bao nhiêu giày bay tới tấp như những bó hoa hồng làm trời tối xầm lại. Người ta ngỡ như ở Milăng, khi phụ nữ ném hoa lên mũ quân lính chúng ta – duy mùi hương là có khác.
Những kẻ cấp giầy bất đắc dĩ đã thề trả miếng.
Hắn muốn loại bỏ tôi ở chức tiểu đoàn trưởng bằng bất cứ giá nào.
Hắn đã tìm được cách!
Sáng nay, đang cơn mưa rào tưởng có thể nhấn chìm cả một đạo quân, quân của tôi đã bị tống cổ ra ngoài thành theo một lệnh giả mạo của thiếu tá là ông ta sẽ chủ tạo cuộc tập bắn và ông ta sẽ có mặt ở bãi tập.
Tôi không liên quan gì tới cuộc du hành ấy cả, và tôi ung dung ngồi nhà nghe mưa rơi!
Nhưng kìa, dưới cửa sổ nhà tôi, cuộc nổi loạn ồn ào; những tiếng kêu “Đả đảo Vanhtrax!” vang lên. Lại có những anh vỗ súng và đòi leo lên.
- Khỏi phải lên, tôi xuống đây!
Họ đã tràn vào phòng Faviê và ở đó, năm sáu trăm người, họ giơ quả đấm với tôi lúc tôi len vào giữa họ để lên diễn đàn.
Nhưng đấy là những người thật thà và, dù đang chửi rủa và giận dữ, họ cũng không có một cử chỉ bêu diếu và nhục mạ tôi. Thậm chí cuối cùng họ đã nghe tôi, lúc tôi vạch trần sự phản bội! Làn sóng dẹp xuống, cơn giận nguôi đi…
Nhưng tôi đã quá ngán! Tôi trả lại mũ và gươm, tôi xin rút lui.
Xin chào, các bạn!