Chương 12
Trước đây tôi từng làm ông chủ quản lý một đại lý ô tô tên là Saab Cape Cod ở West Barnstable bang Massachusetts. Cái đại lý ấy và tôi đã ngừng kinh doanh cách đây ba mươi ba năm rồi. Xe hiệu Saab khi đó, cũng như bây giờ, là xe của Thụy Điển, và giờ thì tôi tin rằng thất bại trong vai trò chủ đại lý từ xửa từ xưa giải thích một điều mà trước đây luôn là một bí ẩn sâu thẳm: nó giải thích chuyện tại sao mấy ông Thụy Điển chưa bao giờ trao giải Nobel Văn chương cho tôi. Tục ngữ Na Uy cổ có câu: “Dân Thụy Điển có cu ngắn nhưng có trí nhớ rất dai.”
Nghe này: Chiếc Saab thời đó chỉ có một kiểu, kiểu con bọ như VW vậy, một chiếc mui kín hai cửa nhưng có động cơ đằng trước. Nó có cửa tự sát [45] hứng luồng không khí ngược chiều xe chạy ở tốc độ cao. Không giống những chiếc xe khác, nhưng lại giống chiếc máy cắt cỏ hay động cơ sau đuôi tàu của bạn, nó có động cơ hai thì thay vì bốn thì. Vì vậy mỗi lần đổ đầy bình xăng, bạn phải rót thêm vào một lon dầu nhớt nữa. Vì lý do nào đó, phụ nữ dị tính luyến ái thời ấy không muốn làm vậy.
Điểm đặc sắc chủ yếu ở đây là một chiếc Saab có thể kéo một chiếc VW đang dừng đèn đỏ. Nhưng nếu bạn hay nửa kia quan trọng của bạn không thêm dầu nhớt vào bình xăng vừa đổ, thì bạn và chiếc xe sẽ trở thành pháo hoa. Nó còn có dẫn động cầu trước, cũng giúp ích phần nào khi xe chạy trên mặt đường trơn trượt hay khi tăng tốc vào cua. Còn điều này nữa: Như một khách hàng tiềm năng nói với tôi, “Họ làm ra những chiếc đồng hồ đeo tay tốt nhất. Lý nào họ lại không làm ra được những chiếc xe tốt nhất chứ?” Tôi buộc phải đồng ý.
Chiếc Saab lúc ấy khác một trời một vực so với lớp đồng phục bốn thì đắt tiền, mạnh mẽ, trẻ trung, bóng loáng mà nó khoác lên mình ngày nay. Nó là cơn mộng tinh, nếu thích bạn gọi như vậy cũng được, của những anh kỹ sư ở nhà máy sản xuất máy bay trước đây chưa bao giờ sản xuất ô tô. Cơn mộng tinh, có phải tôi đã nói vậy không? Nghe cho kỹ này: Có một cái vòng trên bảng điều khiển, nối với một dây sên chạy trên ròng rọc trong ngăn chứa động cơ. Giật cái vòng này là ở đầu bên kia nó sẽ giăng một loại tấm che cửa sổ lên một cái trục lăn vận hành bằng lò xo đằng sau lưới tản nhiệt phía trước. Làm như vậy là để giữ ấm cho động cơ trong khi bạn đi đâu đó. Cho nên khi bạn trở lại, nếu bạn chưa ra khỏi xe quá lâu, động cơ sẽ khỏi động lại ngay.
Nhưng nếu bạn rời khỏi xe quá lâu thì dù có tấm che cửa sổ hay không, dầu nhớt cũng sẽ tách ra khỏi xăng và chìm như rỉ đường xuống đáy bình xăng. Do đó khi bạn khỏi động trở lại, bạn sẽ tích tụ một tấm màn khói như tàu khu trục đang thủy chiến vậy. Và tôi đã nhuốm đen cả thị trấn Woods Hole ngay giữa ban trưa bằng cách ấy đấy, vì đã để một chiếc Saab trong bãi xe ở đó khoảng một tuần. Tôi được biết những ông già bà lão sống vào thời ấy cho đến nay vẫn còn lớn tiếng tự hỏi không biết cái thứ khói kia có thể đến từ đâu. Cuối cùng tôi cũng nói xấu ngành cơ khí của Thụy Điển và như vậy tự tước đoạt khỏi tay mình một giải Nobel.
***
Kể chuyện hài làm người khác cười khó chết bỏ. Trong cuốn Cái nôi mèo chẳng hạn, có nhiều chương rất ngắn. Mỗi chương trong số đó tượng trưng công việc của một ngày, và mỗi chương là một câu chuyện cười. Nếu lúc ấy tôi viết về một tình huống bi thảm thì sẽ không cần thiết phải tính toán thời gian để đảm bảo mấy thứ đó có tác dụng. Thường thì bạn rất khó thất bại với một cảnh bi thảm. Câu chuyện nhất định sẽ cảm động nếu tất cả những yếu tố thích hợp đều xuất hiện trong đó. Nhưng chuyện hài giống như việc làm một cái bẫy chuột từ đầu vậy. Bạn phải nỗ lực rất nhiều để chế ra cái thứ chụp mồi ấy khi đến lúc cần chụp mồi.
Tôi vẫn còn nghe hài kịch, và những món kiểu này không có nhiều xung quanh chúng ta. Món giống nhất với nó là những buổi chiếu lại chương trình đố vui Bạn đánh cược cuộc đời mình do Groucho Marx dẫn. Tôi biết nhiều tác giả vốn hài hước không còn hài hước nữa, trở thành những con người nghiêm túc và không thể nào kể chuyện cười được nữa. Tôi đang nghĩ đến Michael Frayn, tác giả người Anh viết cuốn Thợ thiếc. Ông ta đã trở thành một người rất nghiêm túc. Thứ gì đó đã xảy ra trong đầu ông ta.
Óc hài hước là một cách tránh xa cuộc sống tệ hại, để bảo vệ bản thân bạn. Cuối cùng thì bạn cũng quá đỗi mệt mỏi, còn tin tức thì quá đỗi tệ hại, rồi óc hài hước cũng không còn hoạt động nữa. Một người như Mark Twain nghĩ cuộc đời rất tệ hại nhưng tránh xa được cái tệ hại ấy bằng trò cười và những thứ tương tự, nhưng rốt cuộc thì ông cũng không thể làm được nữa. Vợ ông, đồng thời là bạn thân, và hai trong số các cô con gái của ông đã chết. Nếu bạn sống đủ lâu, nhiều người gần gũi bạn sẽ chết.
Có lẽ tôi không còn có thể bông đùa được nữa - đó không còn là một cơ chế tự vệ làm chúng ta thỏa mãn nữa. Một số người thì hài hước, còn một số thì không. Trước đây tôi thường hài hước mà giờ có lẽ hết rồi. Có lẽ đã xảy ra nhiều việc gây sửng sốt và thất vọng đến nỗi cơ chế hài hước không còn tác dụng nữa. Có lẽ tôi đã trở nên khá cau có vì tôi đã chứng kiến quá nhiều thứ làm phật ý tôi mà tôi không thể đối phó nổi bằng tiếng cười.
Có lẽ chuyện này đã xảy ra rồi cũng không chừng. Tôi thật sự không biết từ giờ trở đi tôi sẽ trở nên như thế nào nữa. Tôi chỉ tham gia cùng người khác xem thử cho vui chuyện gì xảy ra với thể xác này và bộ não này của tôi. Tôi giật mình nhận ra tôi đã trở thành nhà văn. Tôi không nghĩ tôi có thể kiểm soát cuộc đời mình hay những gì tôi viết ra. Mỗi một nhà văn khác mà tôi biết đều cảm nhận được mình đang chèo lái bản thân còn tôi thì lại không có thứ cảm giác ấy. Tôi không có thứ kiểm soát ấy. Tôi chỉ đang tồn tại.
Tất cả những gì tôi thực sự muốn làm là đem lại cho mọi người tiếng cười khuây khỏa. Óc hài hước có thể là một sự khuây khỏa, như viên thuốc aspirin vậy. Nếu một trăm năm nữa con người vẫn còn cười, lúc ấy nhất định tôi sẽ mãn nguyện lắm.
***
Tôi xin lỗi tất cả những ai trong số các bạn cùng tuổi với mấy đứa cháu của tôi. Và nhiều người trong số các bạn đang đọc cuốn sách này có lẽ cùng tuổi với mấy đứa cháu của tôi. Chúng nó, như các bạn vậy, đang bị các tập đoàn Baby Boomer [46] và chính phủ của chúng ta gạt gẫm và lừa dối một cách trọng thể.
Phải, hành tinh này đang bừa bộn kinh khủng. Nhưng trước giờ nó vẫn luôn là đống lộn xộn mà. Chưa bao giờ có thứ gọi là “Những ngày xưa tươi đẹp”, chỉ có những ngày bình thường thôi. Và như tôi nói với mấy đứa cháu, “Đừng nhìn ông. Ông chỉ mới tới đây thôi.”
Có những lão già ngu ngốc luôn nói rằng bạn chưa trưởng thành cho tới khi sống sót được bằng cách nào đó, như họ vậy, qua một thảm họa nổi tiếng gì đấy - cuộc Đại Suy Thoái, Thế chiến Thứ hai, Việt Nam, cái gì cũng được. Những người kể chuyện phải chịu trách nhiệm cho câu chuyện hoang đường mang tính hủy hoại, nếu không muốn nói là tự sát này. Lặp đi lặp lại trong may câu chuyện, sau vụ lộn xộn kinh khủng nào đó, nhân vật chính rốt cuộc cũng có thể nói, “Hôm nay tôi đã là một người phụ nữ rồi. Hôm nay tôi đã là một người đàn ông rồi. Hết chuyện.”
Khi tôi trở về nhà từ Thế chiến Thứ hai, chú Dan của tôi vỗ lên lưng tôi và nói, “Cháu giờ đã là một người đàn ông rồi đó.” Tôi giết ông ta liền. Không thật là giết, nhưng tôi lúc đó chắc chắn muốn làm vậy lắm.
Dan, ông chú xấu xa của tôi đó, người nói rằng một tay đực rựa không thể trở thành một người đàn ông trừ khi anh ta từng tham chiến.
Nhưng tôi có một người chú tốt bụng, chú Alex quá cố của tôi. Chú ấy là em của bố tôi, một cử nhân Harvard không con cái và là một nhân viên bán bảo hiểm nhân thọ thật thà ở Indianapolis. Chú ấy tinh thông sách vở và thông thái lắm. Và điều phàn nàn chủ yếu của chú về người khác là họ rất ít khi để ý những lúc mình hạnh phúc. Cho nên khi chúng tôi đang uống nước chanh dưới một cây táo vào mùa hè chẳng hạn, và hàn huyên uể oải về mấy chuyện nọ kia, gần như là xì xào như mấy con ong mật, chú Alex sẽ bất thình lình cắt ngang cái thứ ba hoa rỗng tuếch thoải mái ấy mà thốt lên, “Nếu đây không phải là tuyệt thì tôi chẳng biết thế nào mới tuyệt nữa.”
Thế là tôi giờ đây cũng làm y như thế, cả con cháu tôi cũng vậy. Và tôi hối thúc các bạn làm ơn để ý những lúc bạn hạnh phúc, hãy thốt lên hay thì thầm hay nghĩ một lúc nào đó, “Nếu đây không phải là tuyệt thì tôi chẳng biết thế nào mới tuyệt nữa.”
***
Chúng ta không sinh ra với trí tưởng tượng có sẵn. Nó phải được thầy cô, cha mẹ bồi đắp. Có một thời trí tưởng tượng rất quan trọng vì nó là nguồn giải trí chính yếu. Năm 1892 nếu là một đứa nhỏ bảy tuổi, bạn sẽ đọc một câu chuyện - chuyện rất đơn giản thôi - về một cô bé có con chó vừa chết. Điều đó làm bạn muốn khóc phải không? Bạn biết cảm giác của cô bé ấy phải không? Rồi bạn đọc một câu chuyện khác về một gã nhà giàu trượt vỏ chuối. Điều đó làm bạn buồn cười phải không? Và cái mạch điện trí tưởng tượng này đang được chế tạo trong đầu bạn. Nếu bạn đi tới phòng trưng bày nghệ thuật, đây chỉ là một hình vuông phết đầy những vết son hàng trăm năm nữa cũng không di chuyển. Chẳng có âm thanh nào phát ra từ cái hình vuông ấy.
Cái mạch điện trí tưởng tượng được dạy phải phản ứng lại ngay cả gọi ý nhỏ nhất. Một cuốn sách là một sự sắp xếp hai mươi sáu ký hiệu ngữ âm, mười con số, và khoảng tám dấu câu, mà người ta có thể đưa mắt nhìn ngang nhìn dọc và mường tượng ra cảnh núi lửa Vesuvius phun hay trận chiến Waterloo. Nhưng thầy cô và cha mẹ ngày nay không nhất thiết phải tạo ra những mạch điện này nữa. Giờ đây đã có những chương trình được sản xuất chuyên nghiệp có diễn viên kỳ cựu, bối cảnh, tiếng động, âm nhạc rất thuyết phục. Giờ đây đã có xa lộ thông tin. Chúng ta không cần những mạch điện này nữa cũng như không cần biết cách cưỡi ngựa vậy. Nhưng những ai trong chúng ta có mạch điện trí tưởng tượng trong mình có thể nhìn vào mặt một người mà thấy nhiều câu chuyện ở đó; đối với những người khác, một gương mặt sẽ chỉ là một gương mặt.
Và đấy, tôi vừa sử dụng dấu chấm phẩy, cái dấu mà từ đầu tôi đã bảo bạn đừng bao giờ sử dụng. Mục đích là tạo ra một quan điểm. Quan điểm ấy là: Quy tắc nào cũng có giới hạn, kể cả quy tắc đúng.
***
Ai là người thông thái nhất tôi từng gặp trong cả cuộc đời mình? Đó là một người đàn ông, nhưng dĩ nhiên không nhất thiết như vậy. Đó là ông họa sĩ đồ họa Saul Sternberg, người mà như những người khác tôi biết, giờ đã chết. Tôi có thể hỏi ông ta bất cứ thứ gì, sau sáu giây ông ấy sẽ cho tôi một câu trả lời hoàn hảo, thều thào, gần như là càu nhàu vậy. Ông sinh ra ở Rumani, trong một ngôi nhà nơi theo ông, “có mấy con ngỗng nhìn vào cửa sổ.”
Tôi nói, “Saul, tôi nên cảm thấy như thế nào về Picasso?”
Sáu giây trôi qua, rồi ông nói, “Chúa đặt ông ta lên trái đất để cho chúng ta thấy làm một người giàu sụ thì như thế nào.”
Tôi nói, “Saul, tôi là tiểu thuyết gia, và nhiều bạn tôi cũng là tiểu thuyết gia, không những thế còn là tiểu thuyết gia hay nữa, nhưng khi chúng tôi nói chuyện với nhau, tôi luôn có cảm giác chúng tôi đang làm trong hai ngành rất khác nhau. Điều gì làm tôi có cảm giác như vậy?”
Sáu giây trôi qua, rồi ông nói, “Đơn giản vô cùng. Có hai loại nghệ sĩ, không loại nào vượt trội hơn loại nào một chút nào cả. Một loại là vị nghệ thuật, loại kia là vị nhân sinh. (Nguyên văn: Một loại là nhằm đáp ứng lại diễn trình tiến hóa của bản thân nghệ thuật của người nghệ sĩ, còn một loại nhằm đáp ứng lại bản thân sự sống.)”
Tôi nói, “Saul, ông có khả năng thiên phú à?”
Sáu giây trôi qua, rồi ông càu nhàu, “Không đâu, nhưng những gì ông đáp ứng lại trong bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào đều là sự đấu tranh của người nghệ sĩ với những hạn chế của chính họ.”
BÀI CẦU SIÊU
Trái Đất trên thập tự giá,
nếu y tìm được tiếng nói
và một đầu óc mỉa mai,
rất có thể bây giờ y sẽ nói
về sự lạm dụng của chúng ta đối với y,
“Tha thứ cho họ đi, Cha,
Họ không biết những gì họ đang làm.”
Điều mỉa mai sẽ là
chúng ta biết những gì
chúng ta đang làm.
Khi sinh linh cuối cùng
bị tận diệt vì chúng ta,
sẽ thật thi vị làm sao
nếu Trái đất có thể nói,
bằng giọng nói bềnh bồng
có lẽ
từ đáy
của Hẻm Núi Lớn,
“Đã kết thúc rồi.”
Con người không thích ở đây.