CHƯƠNG 21
Những ngày sau đấy, hiếm có buổi tối nào mà Bruno không đứng trên vỉa hè đối diện văn phòng của anh. Nếu không ở đó thì cũng là đối diện nhà anh, như thể Bruno biết tối nào anh sẽ đi thẳng về nhà, tối nào không vậy. Không có lấy một câu nói hay bất kỳ ký hiệu nào, mà chỉ có bóng dáng cao lớn với hai bàn tay đút vào túi áo khoác quân đội dáng dài, vừa vặn với cậu ta, trông như một cái ống khói vậy. Đôi mắt Bruno luôn dõi theo anh, Guy biết, dù anh không hề ngoái lại nhìn cho tới khi ra khỏi tầm mắt của cậu ta. Mọi việc cứ như thế trong suốt 2 tuần. Rồi bức thư đầu tiên xuất hiện.
Chỉ có 2 tờ giấy: tờ đầu tiên là bản đồ nhà của Bruno, đất đai, đường xá xung quanh, lộ trình Guy nên đi, được vẽ gọn gàng bằng các đường kẻ và những nét chấm bằng mực. Còn tờ thứ hai là những con chữ chi chít, vạch rõ kế hoạch giết cha của Bruno. Guy xé nó đi, nhưng rồi lại hối hận ngay lập tức. Anh nên dùng nó làm bằng chứng để chống lại Bruno. Cuối cùng anh quyết định giữ lại các mảnh vụn.
Nhưng việc đó hóa ra lại là thừa thãi. Cứ 2 đến 3 ngày, anh lại nhận được một bức thư như thế. Tất cả đều được gửi tới từ Great Neck, như thể hiện giờ Bruno đang sống ở đó vậy. Anh đã không gặp lại Bruno kể từ khi các bức thư bắt đầu được gửi đến. Thỉnh thoảng, những bức thư lại mang theo giọng điệu say xỉn. Nó thể hiện qua các lỗi chính tả và cảm xúc bùng nổ ở các dòng chữ cuối cùng. Nếu cậu ta tỉnh táo thì chúng sẽ ra vẻ âu yếm, trấn an về sự dễ dàng của vụ giết người. Nếu cậu ta say xỉn thì chúng sẽ thể hiện tình anh em thắm thiết hoặc dọa sẽ săn đuổi Guy cả đời, hủy hoại cả sự nghiệp lẫn tình yêu của anh, đồng thời nhắc nhở anh rằng cậu ta vẫn đang nắm đằng chuôi. Mọi thông tin cần thiết đều có thể lấy được ở tất cả những bức thư gửi tới, như thể Bruno đoán anh sẽ xé chúng đi, hoặc có khi còn chẳng thèm mở chúng ra.
Nhưng bất chấp quyết tâm xé bỏ mọi bức thư tiếp theo, Guy lại vẫn mở ra chúng ra, tò mò về nội dung ở đoạn cuối. Trong 3 kế hoạch của Bruno, kế hoạch dùng súng và đi vào bằng cửa sau của ngôi nhà là xuất hiện nhiều nhất, dù mọi bức thư đều nói rằng quyết định cuối cùng là ở anh.
Những bức thư đó ảnh hưởng tới anh theo cách tréo ngoe. Sau cơn sốc khi nhận bức thư đầu tiên, các bức thư tiếp theo gần như không còn ảnh hưởng gì tới anh nữa. Rồi khi bức thư thứ mười, mười hai, mười lăm xuất hiện trong hòm thư, anh cảm thấy chúng đang nện lên ý thức của mình một cách vô cùng khó hiểu. Mỗi khi ở một mình trong phòng, anh sẽ dành ra 15 phút đế cố gắng tách mọi nỗi đau ra và chữa lành cho chúng. Guy tự nhủ nỗi lo lắng trong anh bây giờ là quá vô lý, trừ phi anh thực sự nghĩ rang Bruno sẽ tố cáo, thậm chí là cố gắng giết hại anh. Mà thật ra thì anh không nghĩ vậy. Bruno chưa từng đe dọa làm điều đó. Nhưng lý trí không thể xoa dịu nỗi lo âu ấy, hay khiến nó bớt mệt mỏi hơn.
Bức thư thứ hai mốt nhắc tới Anne. “Anh không muốn Anne biết vai trò của mình trong vụ ám sát Miriam đâu nhỉ? Có cô gái nào lại muốn cưới một tay sát nhân cơ chứ? Chắc chắn không phải Anne rồi. Thời gian đang ngày càng gấp rút. Hạn cuối của tôi là 2 tuần đầu tháng Ba. Tới lúc đó, mọi chuyện sẽ dễ dàng thôi.”
Rồi khẩu súng được chuyển tới. Một gói to bọc giấy nâu bên ngoài đã được bà chủ nhà trao tận tay cho anh. Guy cười khẽ khi khẩu súng đen rơi ra. Nó là một khẩu Luger to, sáng bóng, trông mới tinh trừ một vết mẻ ở tay cầm được khắc vân chéo.
Trong một cơn bốc đồng nào đó, Guy lấy khẩu súng lục nhỏ của mình ra khỏi ngăn kéo trên cùng, rồi đặt khẩu súng có tay cầm mạ ngọc trai xinh đẹp ấy lên trên giường, nơi khẩu Luger đang nằm. Anh mỉm cười trước hành động của bản thân, rồi đưa khẩu súng Texas của mình lại gần để nghiên cứu. Hồi 15 tuổi, anh đã nhìn thấy nó qua ô cửa sổ tại một tiệm cầm đồ bừa bộn phía cuối đường Main ở Metcalf, rồi mua nó bằng tiền đi giao báo, không phải vì nó là súng mà vì nó đẹp. Sự gọn gàng, thuận tiện của phần nòng ngắn làm anh mê mẩn. Càng tìm hiểu thêm về thiết kế cơ khí của nó thì anh càng hài lòng. Anh đã cất nó trong ngăn kéo tủ suốt 15 năm qua. Anh mở ổ đạn rồi bỏ đạn ra, cả 3 viên, sau đó xoay ổ đạn bằng 6 lần kéo cò, trở nên mê mẩn khi một tiếng click thật trầm vang lên nhờ kết cấu hoàn hảo của khẩu súng. Rồi anh đút đạn trở lại, bỏ khẩu súng vào trong một chiếc túi flannel màu xanh oải hương, rồi cất nó vào tủ.
Anh nên tống khứ khẩu Luger như thế nào đây? Thả nó xuống sông? Vứt vào thùng rác? Hay nhét nó vào cùng với rác sinh hoạt? Tất cả những phương án anh nghĩ ra đều đáng ngờ và có phần khoa trương. Thế nên anh quyết định giấu nó vào dưới đống quần lót và tất ở ngăn dưới cùng cho tới khi nảy ra một kế hoạch hay hơn. Đột nhiên, anh nghĩ tới Samuel Bruno, lần đầu tiên dưới tư cách một con người. Sự hiện diện của khẩu Luger khiến ông ta và cái chết tiềm tàng của ông ta bỗng được đặt cạnh nhau trong đầu anh. Chính tại nơi đây, trong phòng của anh, là bức tranh hoàn chỉnh về cuộc đời của Samuel, theo lời con trai ông ta, cũng như kế hoạch giết chết ông ta - nằm trong một bức thư được gửi vào sáng nay và giờ thì nó đang ở trên giường anh, vẫn chưa được mở ra - cùng một khẩu súng mà có thể sẽ được dùng để ám sát ông ta. Guy lấy một trong những bức thư gần đây nhất của Bruno nằm ở ngăn tủ cuối cùng.
Samuel Bruno (Bruno hiếm khi gọi là “cha”) là ví dụ điển hình về những kẻ tồi tệ nhất mà nước Mỹ sản sinh ra. Ông ta xuất thân từ tầng lớp nông dân thấp kém ở Hungary, chẳng tốt hơn động vật là mấy. Với lòng tham giống như tất cả những người khác, ông ta chọn một bà vợ có xuất thân danh giá sau khi đã có đủ khả năng. Từ đó đến giờ, mẹ tôi vẫn luôn âm thầm chịu đựng sự không chung thủy của ông ta, vì quan niệm hy sinh trong hôn nhân. Giờ khi đã về già, ông ta lại cố gắng tỏ ra tử tế trước khi quá muộn, nhưng đã quá muộn rồi. Tôi ước gì mình có thể tự tay giết ông ta, nhưng như tôi đã giải thích với anh, vì Gerard, thám tử tư của ông ta, mà việc đó trở nên bất khả thi. Nếu anh mà dính líu tới ông ta thì ông ta cũng sẽ trở thành kẻ thù của anh. Ông ta là loại người luôn nghĩ mọi ý tưởng về kiến trúc chỉ đơn giản là vẻ đẹp bên ngoài, còn những ngôi nhà thoải mái dành cho tất cả mọi người chỉ là những thứ ngớ ngẩn. Ông ta chẳng hề quan tâm tới nhà máy của mình đang sản xuất thứ gì, miễn là mái nhà không dột và làm hỏng máy móc của ông ta. Anh có thể sẽ quan tâm tới tin nhân viên của ông ta đang biểu tình đấy. Hãy xem tờ New York Times số thứ Năm tuần trước, trang 31, ở góc cuối bên trái. Họ đang biểu tình đòi một mức lương đủ sống. Samuel Bruno thậm chí còn chẳng do dự cướp đi mọi thứ của chính con trai ruột...
Ai sẽ tin vào câu chuyện đó nếu anh tự mình kể ra? Ai có thể chấp nhận tin vào những điều huyễn tưởng đó chứ? Bức thư, bản đồ, khẩu súng - trông chúng như đạo cụ của một vở kịch, những món đồ được sắp xếp để ra vẻ cho một câu chuyện không có thật và sẽ chẳng bao giờ có thật. Guy đốt bức thư đó đi. Anh đốt tất cả các bức thư mình có rồi vội vã chuẩn bị tới Long Island.
Anh và Anne sẽ dành cả ngày lái xe, đi dạo trong rừng, rồi ngày mai lái xe tới Alton. Ngôi nhà sẽ hoàn thiện vào cuối tháng Ba, tức là họ sẽ có 2 tháng nhàn nhã trước đám cưới để trang hoàng cho nó. Guy mỉm cười khi nhìn ra cửa sổ tàu hỏa. Anne chưa bao giờ nói mình muốn cưới vào tháng Sáu, mọi chuyện cứ đơn giản diễn ra theo cách đó. Cô cũng chưa bao giờ nói mình muốn một đám cưới long trọng, mà chỉ từng nói, “Đừng tổ chức quá cẩu thả.” Rồi khi anh bảo cô rằng anh không ngại tổ chức một đám cưới linh đình nếu cô cũng muốn, cô đã ngân lên một tiếng “Ô” thật dài, rồi ôm ghì lấy và hôn anh. Không, chính anh cũng không muốn một đám cưới chỉ kéo dài 3 phút với duy nhất một người lạ mặt chứng kiến. Anh bắt đầu vẽ phác thảo ở mặt sau một chiếc phong bì hình ảnh một tòa nhà văn phòng 20 tầng mà tuần trước anh mới biết rằng mình có nhiều cơ hội được trao dự án. Anh đang giữ bí mật để gây bất ngờ cho Anne. Anh cảm thầy rằng tương lai vừa bỗng nhiên trở thành hiện tại. Anh đã có tất cả mọi thứ mình muốn. Chạy xuống các bậc thềm của ga tàu, anh nhìn thấy chiếc áo da báo của Anne trong đám đông cạnh cửa ga. Anh sẽ mãi nhớ khoảng thời gian cô chờ anh ở đây, anh nghĩ thầm, các động tác nhún nhảy e thẹn nhưng vội vã khi cô nhìn thấy anh, cái cách cô mỉm cười và quay nửa người lại, như thể cô sẽ không chịu đợi thêm dù chỉ nửa phút.
“Anne!” Anh vòng tay quanh người cô rồi hôn vào má.
“Anh không đội mũ à.”
Anh mỉm cười vì đó chính xác là điều anh đoán cô sẽ nói. “Cả em cũng không mà.”
“Em ngồi trong xe. Và tuyết thì đang rơi đây này.” Cô nắm lấy tay anh và họ chạy băng qua con đường mòn có 2 hàng gỗ tần bì khô khốc để tới bãi đỗ xe. “Em có bất ngờ này!”
“Anh cũng vậy. Của em là gì?”
“Hôm qua em đã bán được 5 mẫu thiết kế đấy.”
Guy lắc đầu. “Anh không hơn được em rồi. Anh chỉ có một tòa văn phòng. Có khả năng thôi.”
Cô mỉm cười, lông mày nhướn lên. “Có khả năng à? Tuyệt!”
“Phải, phải, phải!” anh nói, rồi lại hôn cô.
Tối hôm đó, đứng trên cây cầu gỗ nhỏ trên dòng suối sau nhà Anne, Guy đã định nói, “Em có biết hôm nay Bruno gửi gì cho anh không? Một khẩu súng.” Không phải vì anh đã suýt nói ra điều đó, mà là chính sự tách biệt của Bruno cùng mối liên hệ của cậu ta với anh, với cuộc sống của anh và Anne khiến anh sốc với một nhận thức kinh hoàng. Anh không muốn giấu giếm một bí mật nào với Anne hết, vậy nhưng bí mật này lớn hơn tất cả những gì anh đã kể cho cô. Bruno, cái tên đang ám ảnh anh, sẽ chẳng có nghĩa gì với Anne cả.
“Có chuyện gì vậy, Guy?”
Cô biết có chuyện gì đó, anh nghĩ. Lúc nào cô cũng biết. “Không có gì.”
Anh vội bám theo khi cô quay người đi về phía ngôi nhà. Màn đêm làm mặt đất tối om, vì bị tuyết bao phủ nên cũng khó mà phân biệt được đâu là cành cây đâu là bầu trời. Guy bỗng cảm nhận được cảm giác thù địch trong khu rừng phía đông ngôi nhà. Trước mặt anh, cửa bếp đang rải một thứ ánh sáng màu vàng ấm áp xuống bãi cỏ. Guy quay người lại, nhìn vào khoảng không đen ngòm phía bìa rừng. Khi nhìn vào anh có cảm giác bất an xen lẫn nhẹ nhõm, như cắn vào một chiếc răng sâu vậy.
“Anh sẽ đi một vòng xem sao,” Guy nói.
Anne đi vào nhà và anh quay người lại. Anh muốn xem xem cảm giác ấy sẽ mạnh hơn hay yếu đi khi Anne không ở cùng mình. Anh cố gắng cảm nhận thay vì dùng mắt nhìn. Nó vẫn ở đó, yếu ớt và lảng tránh, trong khi bóng tối ngày một đen kịt ở phía bìa rừng. Chẳng có gì là chắc chắn cả. Có khi nào mọi thứ chỉ là do bóng tối, tiếng động và suy nghĩ của anh tạo ra không?
Anh đút tay vào túi áo khoác rồi ngoan cố tiến lại gần.
Âm thanh khô khốc của cành cây gãy lạo xạo khiến ý thức của anh dồn vào phía dưới chân, tập trung ở một điểm xác định. Anh xông về phía đó. Giờ là tiếng bụi cây xào xạc, một bóng đen di chuyển trong đêm. Guy thả lỏng toàn bộ các múi cơ để nhảy bổ tới, tóm được nó và nhận ra tiếng hít vào khàn đặc của Bruno. Bruno vùng vẫy trong tay anh như một con cá khỏe mạnh dưới nước, vặn người và đâm mạnh vào gò má anh. Túm chặt lấy nhau, cả hai cùng ngã xuống, chiến đấu bằng tay không, như thể cả hai đều muốn đánh nhau tới chết. Các ngón tay của Bruno điên cuồng cào vào cổ họng Guy, dù anh đã cố duỗi thẳng tay để ngăn cậu ta lại. Hơi thở của Bruno rít lên giữa đôi môi mím chặt. Guy lại đấm vào miệng cậu ta, dù tay phải của anh có vẻ như đã bị gãy và không còn có thể nắm chặt được nữa.
“Guy!” Bruno kêu lên một cách phẫn nộ.
Guy túm lấy cô áo cậu ta. Đột nhiên cả hai ngừng vật lộn.
“Anh đã biết là tôi!” Bruno giận dữ nói. “Đồ con hoang bẩn thỉu!”
“Cậu đang làm gì ở đây?” Guy kéo cậu ta dậy.
Khuôn miệng của Bruno chảy máu loe ra như thể sắp khóc. “Thả tôi ra!”
Guy đẩy mạnh, cậu ta ngã phịch xuống đất như bao cát, rồi lại lảo đảo đứng dậy.
“Được rồi, cứ giết tôi nếu anh muốn! Anh có thể nói đó là hành động tự vệ mà!” Bruno rên rỉ.
Guy liếc mắt về phía ngôi nhà. Họ đã vật lộn vào tận sâu trong rừng. “Tôi không muốn giết cậu. Nhưng tôi sẽ làm thế nếu thấy cậu ở đây thêm một lần nào nữa.”
Bruno bật cười, hệt như một tiếng vỗ tay thắng lợi.
Guy tiến lên một cách đầy hăm dọa. Anh không muốn chạm vào Bruno nữa. Vậy nhưng chỉ 1 giây trước thôi, anh đã đánh nhau với cậu ta. Những từ “Giết, giết!” liên tục vang lên trong đầu. Anh biết mình chẳng thể làm gì để ngăn được tràng cười ấy, cho dù có giết cậu ta đi chăng nữa. “Cút đi.”
“Anh sẵn sàng để làm việc đó trong 2 tuần tới chưa?”
“Sẵn sàng tố cáo cậu với cảnh sát.”
“Sẵn sàng đầu thú à?” Bruno cất giọng the thé đầy châm chọc, “Sẵn sàng kể cho Anne tất cả hả? Sẵn sàng dành 20 năm tới trong tù? Chắc chắn rồi, tôi đã sẵn sàng!” Cậu ta dịu dàng xoa tay vào nhau. Tròng mắt cậu ta sáng lên đỏ quạch. Cơ thể lảo đảo giống như một con quỷ vừa bước ra từ những cành cây đen ngòm xoắn xít sau lưng.
“Tìm người khác làm công việc dơ bẩn của cậu đi,” Guy lầm bầm.
“Xem ai đang nói kìa! Tôi muốn anh và tôi đã tóm được anh! Thế đấy!” Cười. “Tôi sẽ bắt đầu hành động. Tôi sẽ kể cho bạn gái anh nghe tất cả. Tối nay tôi sẽ viết thư cho cô ta.” Nói xong rồi cậu ta lắc lư bỏ đi, vấp chân ngã một cách nặng nề, rồi lại lảo đảo đi tiếp với cơ thể èo uột. Rồi đột nhiên, cậu ta quay lại và hét lên, “Trừ phi tôi nhận được tin của anh trong một, hai ngày tới.”
Guy kể cho Anne rằng anh đã đánh nhau với một gã lang thang trong rừng. Anh chỉ phải nhận một con mắt đỏ quạch sau trận đánh lộn, nhưng anh thấy mình không còn cách nào để được ở nhà mà không phải tới Alton vào ngày mai, trừ phi giả vờ bị thương nặng. Cho nên anh đã nói rằng mình bị đấm vào bụng và cảm thấy không khỏe. Ông bà Faulkner hoảng hốt, khăng khăng đòi cảnh sát tới kiểm tra mảnh đất và muốn họ canh gác trong một vài đêm tới. Nhưng chỉ có người canh gác thôi là chưa đủ. Nếu Bruno quay lại, Guy muốn mình cũng có mặt ở đó. Anne gợi ý anh nên ở lại tới thứ Hai, để có người chăm sóc nhỡ như anh bị ốm. Guy quyết định ở lại.
Anh thầm nghĩ rằng chưa có thời điểm nào trong đời lại khiến anh xấu hố như 2 ngày ở trong nhà Faulkner. Anh xấu hổ vì cảm thấy cần phải ở lại, xấu hổ vì sáng thứ Hai đã đi vào phòng của Anne và tìm kiếm trên bàn làm việc, nơi cô giúp việc đặt thư từ để xem liệu Bruno có gửi thư thật không. Cậu ta đã không làm thế. Anne rời khỏi nhà tới cửa hàng của cô ở New York mỗi sáng trước khi thư được giao. Sáng thứ Hai, Guy kiểm tra 4 đến 5 bức thư trên bàn của cô, rồi vội vã đi ra như kẻ trộm, vì sợ cô giúp việc nhìn thấy. Nhưng anh tự nhủ rằng mình vẫn hay vào phòng của cô khi cô không có mặt. Thỉnh thoảng khi căn nhà đầy người, anh sẽ trốn tới phòng của Anne một lát. Và cô thích thú khi thấy anh ở đó. Anh ngả đầu vào khung cửa và quan sát căn phòng lộn xộn - giường chưa dọn, những cuốn sách nghệ thuật quá khổ không nhét vừa giá sách, những mẫu thiết kế mới nhất của cô được dán vào một dải nút bần màu xanh lục trên tường, ở góc bàn là một cái ly đựng thứ nước màu xanh biển nhạt mà cô quên đổ đi, chiếc khăn lụa màu nâu vàng ở lưng ghế mà rõ ràng là cô đổi ý không đeo nữa. Mùi nước hoa dành dành mà cô đã chấm vào cổ phút chót vẫn thoang thoảng trong không khí. Anh khao khát được hòa nhập cuộc sống của mình với cô.
Guy ở lại tới sáng thứ Ba rồi tới Manhattan, đến lúc đó thì vẫn chưa có thư của Bruno. Công việc đang chất đống. Có cả ngàn thứ chọc giận anh. Hợp đồng với công ty Shaw Realty cho tòa văn phòng mới vẫn chưa được chốt. Anh cảm thấy cuộc sống của mình đang mất đi trật tự vốn có, lạc lõng và hỗn loạn hơn cà khi anh nghe tin về vụ Miriam bị giết. Tuần đó không có bức thư nào của Bruno trừ bức thư đã đến từ thứ Hai, chờ sẵn anh ở nhà. Đó là một tin nhắn ngắn nói rằng tạ ơn Chúa, hôm nay mẹ cậu ta đã khỏe lên và cậu ta có thể rời khỏi nhà. Cậu ta kể mẹ mình đã ốm nặng suốt 3 tuần qua vì viêm phổi và cậu ta đã luôn ở bên cạnh bà.
Tối thứ Năm, khi Guy từ một buổi họp của câu lạc bộ kiến trúc về nhà, bà chủ nhà của anh, bà McCausland nói rằng anh có 3 cuộc gọi đến. Điện thoại lại reo vang khi họ đứng trong hành lang. Đó là Bruno, cáu kỉnh và say xỉn. Cậu ta hỏi liệu Guy đã sẵn sàng nói chuyện có lý trí chưa.
“Tôi nghĩ là chưa đâu nhỉ,” Bruno nói. “Tôi đã viết thư cho Anne.” Và rồi cậu ta dập máy.
Guy lên gác và uống rượu một mình. Anh không tin Bruno đã thật sự viết thư hay có ý định làm thế. Anh cố gắng đọc sách trong 1 tiếng đồng hồ, sau đó gọi cho Anne để hỏi thăm, rồi bồn chồn đi ra ngoài và đặt một suất phim chiếu muộn.
Chiều thứ Bảy, anh đi gặp Anne ở Hempstead, Long Island, để xem một buổi biểu diễn của chó ở đó. Nếu Bruno đã viết thư thì Anne hẳn đã nhận được vào sáng thứ Bảy, Guy nghĩ thầm. Nhưng rõ ràng cô chưa nhận được. Anh có thể nhận ra điều đó nhờ cách cô vẫy tay chào anh từ trong xe ô tô. Anh hỏi thăm xem cô có thích bữa tiệc tối qua ở chỗ Teddy không. Em họ Teddy của cô đã tổ chức sinh nhật.
“Bữa tiệc tuyệt vời. Chỉ là không ai muốn về nhà hết. Muộn quá nên em phải ngủ lại. Em còn chưa thay đồ đây này.” Và cô phóng xe ra đường qua cánh cổng hẹp.
Guy nghiến răng lại. Vậy thì có thể bức thư đang đợi cô ở nhà. Anh cảm thấy chắc chắn là như thế đồng thời tình cảnh bất lực vào lúc này, khi mà chẳng còn có thể ngăn chặn được điều gì càng khiến anh mệt mỏi đến mức không buồn nói thêm nữa.
Anh cố gắng nghĩ ra điều gì đó để nói một cách tuyệt vọng khi họ đi dọc các hàng chó.
“Anh đã nghe tin gì từ Shaw chưa?” Anne hỏi anh.
“Chưa.” Anh quan sát một con chó Dachshund run rẩy, đồng thời cố nghe xem Anne đang nói gì về con chó Dachshund mà một người họ hàng của cô nuôi.
Cô chưa biết, Guy nghĩ thầm, nhưng nếu hôm nay cô chưa biết thì vấn đề chỉ còn là thời gian thôi, có thể là chỉ vài ngày nữa là cô sẽ biết hết tất cả. Nhưng biết gì mới được cơ chứ, anh liên tục tự hỏi, nhẩm đi nhẩm lại một câu trả lời, để tự trấn an hay tra tấn bản thân thì anh cũng không rõ nữa: đó là trên chuyến tàu mùa hè năm ngoái, anh đã gặp người đàn ông sẽ giết hại Miriam, anh đã chấp thuận việc giết hại ấy. Đó là những gì Bruno sẽ kể cho cô, với một số chi tiết nhất định để khiến nó thuyết phục hơn. Và nếu ở trước tòa án, chỉ cần Bruno hơi bóp méo cuộc trò chuyện của họ trên tàu, không phải là đã có thể cấu thành thỏa thuận giữa 2 kẻ sát nhân hay sao? Mấy tiếng đồng hồ ở trong toa của Bruno, cái địa ngục thu nhỏ ấy, đột nhiên quay lại một cách rõ ràng trong tâm trí Guy. Chính cảm giác căm ghét đã kích thích anh nói nhiều như thế chính lòng cảm ghét nhỏ mọn đã khiến anh phát điên lên với Miriam ở công viên Chapultepec hồi tháng Sáu năm ngoái. Lúc ấy Anne cũng giận dữ, không phải với những gì anh nói mà với lòng căm ghét của anh. Căm ghét cũng là tội. Chúa cũng lên án sự căm ghét như tội thông dâm và giết người vậy. Lòng căm ghét là mầm sống của tội ác. Nếu ở tòa án đạo Cơ đốc, chẳng phải ít nhất anh cũng phải chịu một phần tội lỗi về cái chết của Miriam sao? Không phải Anne cũng sẽ cho là thế sao?
“Anne,” anh ngắt lời cô. Guy nghĩ thầm, mình phải chuẩn bị tinh thần cho cô. Và anh cũng phải biết. “Nếu có người cáo buộc anh có vai trò trong cái chết của Miriam, em sẽ...? Liệu em...?”
Cô dừng lại và nhìn anh. Dường như cả thế giới ngừng di chuyển, anh và Anne đứng ở trung tâm bất động của nó.
“Có vai trò? Ý anh là sao, Guy?”
Có ai đó đẩy anh. Họ đang đứng giữa đường. “Thế đây. Buộc tội anh, chỉ có thế?’
Dường như cô đang tìm lời để nói.
“Chỉ là buộc tội anh,” Guy tiếp tục. “Anh chỉ muốn biết thôi. Buộc tội anh chẳng vì lý do gì cả. Nó sẽ chẳng có nghĩa lý gì cả phải không?” Anh muốn hỏi là liệu cô sẽ vẫn kết hôn với anh chứ, nhưng câu hỏi đó thật đáng thương và khúm núm, anh không thể mở lời được.
“Guy, vì sao anh lại nói thế?”
“Anh chỉ muốn biết thôi, đó là tất cả!”
Cô đẩy anh lùi lại để họ tránh xa khỏi dòng người đang di chuyển trên đường. “Guy, có ai đó buộc tội anh à?”
“Không!” anh phản đối. Anh cảm thấy lúng túng và bực bội. “Nhưng nếu có kẻ làm thế nếu có kẻ cố gắng đưa ra những chứng cứ quan trọng chống lại anh...”
Cô nhìn anh với vẻ thoáng thất vọng, ngạc nhiên và cả không tin tưởng. Anh đã từng nhìn thấy cô như vậy trước đây, khi anh nói hoặc làm gì đó trong cơn giận dữ, hoặc chán ghét, mà Anne không tán thành và cũng chẳng hiểu nổi. “Anh đoán sẽ có kè làm thế à?” cô hỏi.
“Anh chỉ muốn biết mà thôi!” Anh rất vội và câu hỏi này có vẻ đơn giản mà!
“Vào những lúc như thế này,” cô lặng lẽ nói, “anh khiến em cảm thấy chúng ta giống như 2 người hoàn toàn xa lạ.”
“Anh xin lỗi,” Guy lầm bẩm. Anh cảm thấy cô vừa cắt đi một sợi dây vô hình kết nối họ.
“Em không nghĩ anh thấy hối lỗi, nếu không anh đã chẳng liên tục lặp lại điều này!” Cô nhìn thẳng vào anh, giữ giọng trầm xuống dù đôi mắt đang ngấn lệ. “Cũng giống ngày hôm đó ở Mexico, khi anh sa vào cơn giận dữ với Miriam vậy. Em không quan tâm... em không thích như thế, em không phải loại người đó! Anh khiến em cảm thấy mình không hề hiểu anh!”
Không hề yêu anh, Guy nghĩ thầm. Dường như cô đã từ bỏ anh, không còn cố gắng hiểu anh hay yêu anh nữa. Tuyệt vọng, tình cảm tuột đi, Guy đứng đó, không thể cử động hay nói nổi thành lời.
“Được rồi, vì anh đã hỏi em,” Anne nói, “em nghĩ việc có người buộc tội anh sẽ tạo nên sự khác biệt lớn đấy. Em muốn hỏi vì sao anh lại đoán thế. Vì sao?”
“Không vì sao cả!”
Cô quay người, đi tới cuối đường mòn, đứng đó, đầu cúi xuống.
Guy tiến tới sau lưng cô. “Anne, em hiểu anh mà. Em hiểu anh hơn bất kỳ ai trên thế giới này. Anh không muốn có bí mật nào với em hết. Nó nảy đến trong đầu anh và anh hỏi em, thế thôi!” Anh cảm thấy mình đã thú nhận, và khi cảm giác nhẹ nhõm tràn đến, đột nhiên anh cảm thấy chắc chắn - chắc chắn hệt như lúc trước về việc Bruno đã viết thư - Bruno chưa hề và sẽ không viết.
Cô chùi nước mắt, vội vã nhưng lãnh đạm. “Chỉ một điều thôi, Guy. Liệu anh có ngừng mong đợi những điều xấu nhất được không - về tất cả mọi chuyện?”
“Được rồi,” anh nói. “Chúa ơi, được rồi.”
“Giờ thì quay lại xe thôi.”
Anh dành cả ngày với Anne, tối hôm ấy họ ăn tối ở nhà cô. Không có bức thư nào từ Bruno cả. Guy gạt khả năng đó ra khỏi đầu, như thế anh vừa vượt qua một cơn khủng hoảng vậy.
Tầm 8 giờ tối thứ Hai, bà McCausland gọi anh ra nghe điện thoại. Đó là Anne.
“Anh yêu à... em nghĩ là mình hơi lo lắng.”
“Có vấn đề gì thế?” Anh biết vấn đề là gì.
“Em nhận được một bức thư. Trong đống thư sáng nay. Về việc anh nói đến hôm thứ Bảy.”
“Việc gì vậy, Anne?”
“Về Miriam - được đánh máy. Và nó không có chữ ký.”
“Nó nói sao? Đọc cho anh nghe đi.”
Anne run rẩy đọc lên, nhưng bằng kiểu nói đặc trưng của cô, “Thưa cô Faulkner, cô có thể sẽ hứng thú khi biết được rằng Guy Haines có dính líu nhiều với vụ ám sát vợ mình ở trên mức luật pháp đang nghĩ. Nhưng sự thật sẽ được phơi bày thôi. Tôi nghĩ cô nên biết để phòng trường hợp cô có kế hoạch cưới một kẻ hai mặt như thế. Ngoài điều đó ra, tác giả bức thư này biết rằng Guy Haines sẽ không còn tự do lâu nữa đâu. ‘Ký tên, ‘Một người bạn.’”
Guy nhắm mắt lại. “Chúa ơi!”
“Guy, liệu anh có biết đó có thể là ai không?... Guy? Anh à?”
“Anh đây,” Guy nói.
“Đó là ai?”
Từ giọng nói, anh biết rằng cô chỉ thấy sợ hãi mà thôi, cô vẫn tin anh, chỉ là cô lo cho anh. “Anh không biết, Anne.”
“Nó có thật không, Guy?” cô hỏi một cách lo lắng. “Anh nên biết chứ. Nên làm gì đó.”
“Anh không biết,” Guy nhắc lại, cau mày. Tâm trí anh dường như bị trói buộc trong một nút thắt không thể tháo gỡ.
“Anh phải biết. Nghĩ đi, Guy. Anh có quen ai được coi là kẻ thù không?”
“Dấu bưu điện chỗ nào vậy?”
“Grand Central. Nó là một tờ giấy trống trơn. Anh không thể kết luận được gì từ nó.”
“Giữ nó cho anh.”
“Tất nhiên rồi, Guy. Và em sẽ không kể cho ai hết. Ý em là người trong gia đình em.” Cô tạm dừng. “Phải có một kẻ nào đó, Guy. Hôm thứ Bảy, anh đã nghi ngờ một người nào đó... đúng không?”
“Không hề.” Họng anh thít chặt. “Thỉnh thoảng, mọi chuyện như thế này lại xảy ra, em biết đây, sau một phiên tòa.” Và anh nhận thức rất rõ về khao khát che giấu Bruno một cách cẩn thận như thể Bruno là chính anh và anh đang thật sự có tội vậy. “Khi nào thì anh có thể gặp em, Anne? Anh có thể tới ngay tối nay không?”
“À, em... có hẹn đi tới một bữa tiệc từ thiện với bố mẹ rồi. Em có thể gửi bức thư này cho anh. Dịch vụ đặc biệt, anh sẽ nhận được ngay sáng mai.”
Nên nó đã tới vào sáng hôm sau, cùng với một kế hoạch khác của Bruno, một đoạn thư ngắn nhưng có phần cổ vũ, trong đó cậu ta nhắc tới bức thư đã gửi cho Anne và hứa hẹn sẽ gửi nhiều hơn.