← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 23

Guy liếc hàng gạch nâu ở bên kia đường một lần nữa, chắc chắn là anh đã nhìn thấy Bruno mà. Anh đảo mắt tìm xung quanh, cố chống lại ánh sáng chạng vạng. Anh đã nhìn thấy cậu ta ở đó, cạnh chiếc cổng sắt màu đen, nhưng giờ lại chẳng thấy một ai. Guy quay người chạy lên thềm nhà. Anh có vé đi xem một vở opera của Verdi tối nay. Anne sẽ gặp anh ở nhà hát lúc 8 rưỡi. Anh không thấy muốn gặp Anne vào tối nay cho lắm, không muốn nhìn vẻ cổ vũ của cô, lại càng không muốn làm bản thân mệt mỏi khi phải giả bộ mình cảm thấy khỏe hơn thực tế. Cô lo lắng về tình trạng mất ngủ của anh. Cô không nói gì nhiều, nhưng chỉ thế đã đủ làm anh thấy phiền rồi. Hơn hết, anh không muốn đi nghe Verdi. Anh bị ma ám làm sao mà lại mua vé đi xem Verdi? Anh đã muốn làm gì đó để lấy lòng Anne, nhưng dù nó có hay đến mấy thì cô vẫn sẽ không thích nó lắm, và không phải thật điên rồ khi mua vé đi xem một thứ mà cả hai người họ đều không thích hay sao?

Bà McCausland cho anh một số điện thoại mà anh phải gọi lại. Anh nghĩ trông nó giống như số của một trong những bà dì của Anne. Anh hy vọng tối nay Anne sẽ bận.

“Guy, em không nghĩ mình tới được,” Anne nói. “2 người mà dì Julie muốn em gặp sau bữa tối mới đến.”

“Được rồi.”

“Và em không thể trốn được.”

“Hoàn toàn ổn mà.”

“Nhưng em vẫn xin lỗi. Anh có biết em đã không gặp anh từ thứ Bảy rồi không?”

Guy cắn lưỡi. Cảm giác ghê tởm trở nên rõ ràng hơn trước sự quấn quýt, quan tâm, thậm chí là giọng nói dịu dàng, trong sáng của Anne, thứ mà trước đây khiến anh cảm thấy như một vòng tay âu yếm, nhưng giờ tất cả dường như chỉ để anh nhận ra rằng mình không còn yêu cô nữa.

“Sao tối nay anh không đưa bà McCausland đi nhỉ? Em nghĩ thế sẽ tuyệt lắm đấy.”

“Anne, anh hoàn toàn không quan tâm.”

“Không có bức thư nào gửi tới nữa chứ, Guy?”

“Không.” Cô hỏi anh lần thứ ba rồi đấy!

“Em yêu anh. Anh sẽ không quên điều đó đâu, phải không?”

“Không, Anne.”

Anh chạy lên cầu thang vào phòng, treo áo lên móc, gội đầu, chải tóc và rồi sau đó chẳng còn gì để làm nữa. Anh muốn Anne. Anh muốn cô một cách khủng khiếp. Vì sao anh lại điên rồ tới mức nghĩ rằng mình không muốn gặp cô chứ? Anh tìm trong túi tờ giấy ghi số điện thoại mà bà McCausland đưa khi nãy, chạy cả xuống cầu thang và tìm kiếm trên sàn hành lang. Nó đã biến mất - như thể có người đã cố tình chộp nó đi đế cản trở anh. Anh nhìn qua mép kính của cửa trước. Bruno, anh nghĩ thầm, chính Bruno là kẻ đã lấy nó.

Gia đình Faulkner sẽ biết số của dì cô. Anh sẽ gặp Anne, dành cả tối với cô, dù điều đó có nghĩa là anh phải dành cả tối với bà dì Julie của cô đi chăng nữa. Điện thoại ở Long Island reo liên tục mà chẳng có ai trả lời. Anh thử nhớ lại họ của dì cô nhưng không thể.

Căn phòng của anh dường như bị phủ kín bởi sự im lặng hồi hộp và ngột ngạt. Anh nhìn giá sách thấp mà mình đã đóng quanh tường, nhìn bó thường xuân mà bà McCausland tặng anh trong chiếc giỏ treo tường, nhìn chiếc ghế đỏ bằng vải nhung cạnh đèn đọc sách, nhìn các bản phác thảo đen trắng trên giường có tựa đề “Vườn thú tưởng tượng”, nhìn tấm rèm như áo thầy tu che khuất căn bếp của anh. Một cách chán chường, anh gạt tấm rèm sang một bên và ngoái lại nhìn. Anh có cảm giác chắc chắn rằng có người đang đợi anh trong phòng, dù anh không mảy may sợ hãi. Anh cầm tờ báo lên và bắt đầu đọc.

Lát sau, anh đã uống cạn cốc Martini thứ hai trong một quán rượu. Anh lý luận rằng mình phải ngủ, nhưng cuối cùng anh lại đi uống rượu một mình, điều anh ghét cay ghét đắng. Sau khi tới quán, anh đi xuống quảng trường Thời Đại, cắt tóc và trên đường về nhà, anh đã mua sữa cùng vài tờ báo lá cải. Anh nghĩ sau khi viết thư cho mẹ, anh sẽ uống sữa, đọc báo và lên giường. Hoặc số điện thoại của Anne sẽ xuất hiện trên sàn khi anh quay trở lại. Nhưng không có.

Khoảng 2 giờ sáng, anh rời giường và lang thang trong phòng, đói và không muốn ăn. Vậy nhưng anh nhớ vào một buổi tối của tuần trước, anh đã mở một lon cá mòi và ăn ngấu nghiến bằng lưỡi dao. Buổi tối là thời gian dành cho những sở thích nguyên thủy, để gần gũi với bản thân hơn. Anh rút một quyển vở từ trên giá sách và hấp tấp lật nó ra. Đó là quyển sổ vẽ New York đầu tiên của anh, năm anh 22 tuổi. Anh đã vẽ một cách lung tung - cao ốc Chrysler, bệnh viện tâm thần Payne Whitney, các con thuyền trên sông Đông, những người công nhân đang ấn các mũi khoan điện vào đá. Có cả một chuỗi những bản vẽ về các tòa nhà được nói đến trên đài phát thanh thành phố với ghi chép về không gian, ở trang bên cạnh cũng là chính tòa nhà ấy với những thay đổi mà anh muốn, và đôi khi có thể là một tòa nhà hoàn toàn mới theo ý tưởng của anh. Anh đóng vội quyển số lại vì nó quá tuyệt, anh không nghĩ bây giờ mình có thể làm tốt như vậy nữa. Tòa Palmyra dường như là dòng năng lượng dồi dào, vui vẻ cuối cùng trong tuổi trẻ của anh. Cảm giác nức nở mà anh đã đè nén làm ngực anh co thắt với nỗi đau khó chịu quen thuộc - quen thuộc sau những năm tháng ở cạnh Miriam. Anh nằm xuống giường để cố ngăn lại cơn đau kế tiếp.

Guy thức dậy cùng với sự hiện diện của Bruno trong bóng tối, dù trước đó anh không nghe thấy tiếng động gì cả. Sau cơn giật mình đầu tiên vì sự đột ngột của cậu ta, anh không thấy ngạc nhiên nữa. Như anh đã tưởng tượng ngay từ những đêm trước, anh khá mừng vì Bruno đã đến. Thật sự là Bruno sao? Phải. Guy nhìn thấy đầu điếu thuốc lá của cậu ta, trên bàn làm việc.

“Bruno à?”

“Chào,” Bruno nói một cách êm ái. “Tôi đi vào nhờ chìa khóa dự phòng. Giờ anh đã sẵn sàng rồi phải không?” Bruno có vẻ bình tĩnh và mệt mỏi.

Guy chống khuỷu tay để ngồi dậy. Tất nhiên là Bruno đang ở đó. Đầu lọc thuốc lá màu cam của cậu ta kia kìa. “Rồi,” Guy nói, cảm thấy âm thanh ấy đang dần hòa quyện vào màn đêm, không như những đêm khác, nó chỉ được phát ra trong câm lặng. Nó cởi bỏ dây trói trong đầu anh đột ngột đến mức làm anh đau đớn. Đó là những gì anh đã đợi để nói, những gì sự im lặng trong căn phòng này đã đợi để nghe. Giống như lũ quái vật ngoài kia vậy.

Bruno ngồi xuống mép giường và túm cả hai cánh tay anh. “Guy, tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa.”

“Không.” Người Bruno đầy mùi thuốc lá, mùi sáp chải tóc ngọt tởm lợm cùng mùi rượu chua loét, nhưng Guy không né tránh cậu ta. Đầu anh vẫn còn đắm chìm trong cảm giác giải phóng ngọt ngào.

“Mấy ngày vừa rồi tôi đã cố gắng tử tế với ông ta,” Bruno nói. “Không hẳn là tử tế chỉ là lịch sự thôi. Tối nay, ông ta đã nói gì đó với mẹ tôi, ngay trước khi chúng tôi ra ngoài…”

“Tôi không muốn nghe điều đó!” Guy nói. Anh liên tục phải ngăn Bruno lại vì không muốn nghe những gì cha cậu ta nói hay phải mường tượng ra vẻ ngoài ông ta. Anh không muốn biết điều gì về ông ta hết.

Cả hai im lặng một lúc, với Guy là vì anh không muốn giải thích, còn với Bruno là vì cậu ta đã trở nên im lặng.

Bruno khịt mũi với một âm thanh ghê tởm. “Mai chúng tôi sẽ tới Maine từ buổi trưa. Mẹ tôi, tôi cùng người tài xế. Tối mai được đấy, bất kỳ tối nào trừ tối thứ Năm cũng đều ổn cả. Bất kỳ lúc nào sau 11 giờ...”

Cậu ta tiếp tục lải nhải, lặp lại những điều mà Guy đã biết. Guy không ngăn cậu ta lại nữa, vì anh biết mình sẽ bước vào căn nhà đó và tất cả đều sẽ trở thành sự thật.

“Tôi đã phá cửa sau cách đây 2 ngày, đập nó khi đang say xỉn. Họ sẽ không sửa nó đâu, họ quá bận. Nhưng nếu họ sửa...” Cậu ta đút một chiếc chìa khóa vào tay Guy. “Thì tôi đã có cái này cho anh.”

“Gì vậy?”

“Găng tay. Găng tay phụ nữ, nhưng nó hơi chật đấy.” Bruno bật cười.

Guy cảm nhận lớp cotton mỏng của chiếc găng tay.

“Anh có khẩu súng rồi chứ? Nó đâu?”

“Ở ngăn tủ dưới cùng.”

Guy nghe tiếng cậu ta va vào bàn và mở tủ ra. Chụp đèn kêu răng rắc và đèn sáng lên, thân hình cao lớn của Bruno đang đứng ở kia, trong một chiếc áo khoác dài nhạt màu đến mức gần như trắng phớ, quần đen với hai sọc trắng nhỏ. Khăn lụa buộc trên cổ cũng màu trắng. Guy quan sát từ đôi giày nhỏ màu nâu cho tới mái tóc lưa thưa bóng nhẫy, cứ như thể từ vẻ ngoài của cậu ta, anh có thể khám phá ra điều đã làm thay đổi cảm xúc của mình, hay cảm xúc đó là gì. Đó là một cảm giác quen thuộc và hơn thế nữa, có phần giống với tình anh em. Bruno đóng chốt súng và quay lại nhìn anh. Mặt cậu ta nặng nề hơn lần cuối cùng Guy nhìn thấy, đỏ bừng và háo hức hơn bao giờ hết. Đôi mắt xám của cậu ta trông to hơn khi đong đầy nước mắt và gần như đã chuyển sang sắc vàng. Cậu ta nhìn Guy như thể đang cố tìm lời để nói, hoặc van xin Guy tìm lời hộ. Rồi cậu ta liếm đôi môi mỏng, lắc đầu rồi vươn tay về phía đèn. Đèn tắt.

Anh gần như không nhận ra được là cậu ta đã bỏ đi lúc nào. Những tưởng như vẫn chỉ có hai bọn họ trong phòng, và ngủ.

Ánh sáng chói mắt rọi xuống cả căn phòng khi Guy tỉnh giấc. Đồng hồ điểm 3 giờ 25 phút. Anh mơ màng nhớ lại sáng hôm nay mình đã dậy để nghe điện thoại, Myers gọi để hỏi xem vì sao anh chưa đến và anh đã nói rằng mình cảm thấy không khỏe lắm. Quỷ tha ma bắt cái gã Myers ấy. Anh nằm đó, chớp chớp mắt để giảm bớt cảm giác đờ đẫn và để nó ngấm dần vào phần lý trí trong anh, vì tối nay anh sẽ làm chuyện đó. Chỉ cần sau tối nay thôi, tất cả mọi chuyện sẽ qua. Anh đứng dậy, rồi chậm rãi thực hiện chu trình cạo râu, tắm, mặc đồ, nhận thức rất rõ mọi việc mình đang làm đều chẳng có nghĩa lý gì cho tới 11 giờ tối nay, thời khắc đó chẳng thể hối thúc cũng chẳng thể trì hoãn, nó sẽ đến như nó nên thế. Anh cảm thấy lúc này mình đang di chuyển trên một con đường định sẵn mà không thể dừng lại hay đổi hướng, dù anh có muốn đi chăng nữa. Khi đang ăn bữa sáng muộn trong quán cà phê cuối phố một cảm giác kỳ quái bao trùm lấy anh. Cảm giác ấy nói với anh rằng lần cuối cùng gặp Anne, anh đã kể cho cô tất cả những gì mình sắp làm và cô đã lắng nghe một cách bình thản, cô biết mình phải như vậy vì anh, vì anh tuyệt đối phải làm những gì mình sắp làm. Nó có vẻ nghiễm nhiên và không thể tránh khỏi, anh cảm thấy như thể tất cả mọi người trên thế giới đều biết điều đó, từ người đàn ông vô tư lự đang ngồi ăn bên cạnh, cho đến bà McCausland, đang quét hành lang khi anh ra ngoài, người đã trao cho anh một nụ cười cực kỳ thương yêu và hỏi thăm xem anh có khỏe không. Quyển lịch hàng ngày trên tường quán cà phê hiện lên: Thứ Sáu, ngày 12 tháng 3. Guy nhìn nó chăm chú trong giây lát, rồi ăn nốt bữa sáng.

Anh cứ muốn đi mãi. Đến khi rẽ vào đại lộ Madison, rồi đại lộ Năm tới cuối công viên trung tâm, qua mé khu phía tây của công viên tới ga Pennsylvania, anh mới quyết định rằng đã đến lúc lên tàu để tới Great Neck rồi. Anh bắt đầu nghĩ tới đường đi nước bước cho tối nay, nhưng nó nhàm chán như những thứ mà anh bị ép phải học đi học lại ở trường vậy, nên anh ngừng lại. Chiếc phong vũ biểu * bằng đồng đằng sau một ô cửa sổ ở đại lộ Madison bỗng trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt, như thể anh sắp có được một kỳ nghỉ, sắp được sở hữu chiếc phong vũ biểu ấy và đùa nghịch với nó vậy. Thuyền buồm của Anne không có chiếc phong vũ biểu nào đẹp như thế không thì anh đã chú ý tới rồi. Anh phải mua một chiếc trước khi họ dong thuyền về phương Nam trong tuần trăng mật mới được. Anh nghĩ tới tình yêu của mình như một tài sản giá trị. Anh đã tới tận mạn Bắc của công viên trung tâm thì mới nhớ ra là mình chưa mang súng. Hay găng tay. Và đã 8 giờ kém 15 phút rồi. Một mở màn thật hay ho và ngớ ngẩn làm sao! Anh gọi taxi và vội vã quay về nhà.

* Một dụng cụ đo gió và áp suất không khí nhằm đề dự báo thời tiết.

Sau cùng thì vẫn còn khối thời gian, nhiều đến mức anh phải đờ đẫn đi lại trong phòng một lúc lâu. Anh có nên đi giày đế cao su không nhỉ? Anh có nên đội mũ không? Anh lôi khẩu Luger ra khỏi ngăn kéo dưới cùng và đặt nó lên bàn. Có một bản kế hoạch của Bruno được đặt dưới khẩu súng và anh mở nó ra, nhưng ngay lập tức mọi câu chữ đều quen thuộc đến mức anh đã ném nó thẳng vào thùng rác. Động lực làm các chuyển động của anh trơn tru hơn. Anh lấy đôi găng tay cotton màu tím trên chiếc bàn đầu giường. Một tờ giấy nhỏ màu vàng bay ra. Đó là vé đến Great Neck.

Anh nhìn chằm chằm vào khẩu Luger có màu đen xì và to khủng khiếp, thậm chí còn to hơn cả lần đầu anh trông thấy nó. Thật ngớ ngẩn khi chế tạo một khẩu súng to như vậy! Anh lấy khẩu súng nòng quay nhỏ của mình ra khỏi ngăn tủ trên cùng. Tay cầm ngọc trai của nó sáng lên với vẻ đẹp kín đáo. Nòng súng ngắn thanh mảnh trông thật hăm hở, sẵn sàng và mạnh mẽ cùng với vẻ cứng cáp thanh tao và dè dặt. Tuy vậy, anh không được quên mình sẽ bỏ lại khẩu Luger tại hiện trường, vì đó là súng của Bruno. Nhưng mang theo cả một khẩu súng nặng chỉ để làm thế có vẻ không đáng. Anh thật sự không còn cảm thấy thù hận Bruno nữa, thế mới lạ.

Trong một khoảnh khắc, anh đã vô cùng bối rối. Tất nhiên là phải mang khẩu Luger theo rồi, nó nằm trong kế hoạch mà! Anh đút khẩu Luger vào túi áo khoác ngoài. Tay anh duỗi ra để với lấy đôi găng trên mặt bàn. Đôi găng tay màu tím, còn chiếc túi vải đựng khẩu súng nòng quay của anh có màu tím oải hương. Đột nhiên, việc anh mang theo khẩu súng nòng quay nhỏ thật hợp lý vì hai thứ có màu sắc tương đồng, thế nên cuối cùng anh đã cất khẩu Luger lại vào ngăn kéo cuối cùng và đút khẩu súng nhỏ vào trong túi. Anh không kiểm tra xem mình còn cần làm gì nữa không, vì vốn đã cân nhắc kế hoạch của Bruno vô cùng thường xuyên, nên đơn giản là anh có thể cảm nhận được khi nào bản thân đã hoàn thành xong tất cả mọi việc. Cuối cùng, anh lấy một cốc nước và rót nó vào chậu tường vy treo tường. Một cốc cà phê có thể khiến anh tỉnh táo hơn, anh nghĩ thầm. Anh sẽ mua một cốc ở ga Great Neck.

Trên tàu, vào khoảnh khắc bị một người đàn ông va vào vai, các dây thần kinh của anh dường như run rẩy đến mức anh chắc mẩm sẽ có chuyện gì đó xảy ra. Một loạt những từ ngữ lộn xộn ùa vào trong tâm trí làm anh suýt thốt ra khỏi đầu lưỡi: Trong túi tôi không có súng thật đâu. Tôi chưa từng coi nó là một khẩu súng. Tôi không mua nó vì nó là súng. Và ngay lập tức anh thấy dễ chịu hơn khi nhớ ra mình sắp dùng nó giết người. Anh cũng giống Bruno. Không phải anh đã cảm thấy thế nhiều lần rồi nhưng hèn nhát không dám thừa nhận sao? Không phải anh đã biết Bruno cũng giống mình sao? Không thì vì sao anh lại quý cậu ta? Anh yêu Bruno. Bruno đã chuẩn bị từng ly từng tí một cho anh. Tất cả sẽ diễn ra tốt đẹp vì mọi thứ luôn diễn ra tốt đẹp đối với Bruno. Thế giới vận hành cho những người như Bruno.

Trời mưa lâm thâm tạo thành một màn sương mờ ảo, đẹp đẽ khi anh bước chân xuống tàu. Guy đi thẳng tới dãy xe buýt mà Bruno đã tả. Không khí qua ô cửa sổ xe mở toang lạnh hơn cả ở New York và mang theo hương vị đồng quê tươi mát. Xe buýt ra khỏi vùng trung tâm tràn ngập ánh đèn, đi vào một con đường tối om có các dãy nhà dọc hai bên. Anh nhớ ra mình đã không ghé qua uống cà phê ở nhà ga. Sự sơ sót đó khiến anh lâm vào trạng thái bứt rứt đến mức anh suýt nữa đã xuống xe buýt và quay lại nhà ga. Một cốc cà phê có thể tạo ra tất cả sự khác biệt trên thế gian này. Phải, trong đó có cả mạng sống của anh! Nhưng khi đến trạm dừng trên đường Grant, anh bất giác đứng dậy rồi xuống xe. Cảm nhận được bước chân của mình trên con đường đã định sẵn sẽ giúp an ủi anh phần nào.

Anh bước đi trên con đường đất, âm thanh ẩm ướt đàn hồi vang lên theo từng nhịp. Trước mặt, một cô gái trẻ chạy lên bậc thềm, dọc theo một lối đi vào nhà, tiếng cửa đóng lại sau lưng cô ta vang lên thật bình yên và thân thiện. Khoảng đất quang trước mặt chỉ có duy nhất một cái cây, bên trái nó là bóng tối và rừng rậm. Ngọn đèn đường mà Bruno vẽ trong mọi tấm bản đồ có màu xanh dương đầy dầu mỡ và tỏa ra một quầng sáng vàng nhạt. Một chiếc ô tô chầm chậm tiến lại gần rồi lướt qua người anh, đèn pha đảo tròn như mắt của loài thú hoang trên con đường gập ghềnh.

Anh đã đến nơi tự lúc nào. Và rồi như thể có một tấm rèm được kéo lên khỏi quang cảnh sân khấu mà anh vốn đã quen thuộc: bức tường dài cao 2 mét trát vữa trắng ở sát ngay trước mặt, khoảng không gian như tối đi vì bóng cây cherry rũ xuống, còn phía sau chính là một cái mái nhà màu trắng hình tam giác. Chuồng chó: Anh băng qua đường. Cuối đường vang lên tiếng bước chân chậm rãi trên mặt sỏi. Anh lại đứng chờ ở mé phía bắc tối tăm của bức tường cho tới khi một bóng người xuất hiện. Đó là một cảnh sát, tay đung đưa cùng chiếc gậy, đang tuần tra trên đường. Guy chẳng hề cảm thấy lo âu, thậm chí anh nghĩ có khi mình còn lo hơn nếu người này không phải cảnh sát. Khi cảnh sát đi qua, Guy di chuyển thêm 15 bước dọc theo bức tường, bật nhảy, bám lấy phần gờ, rồi loạng choạng trèo lên. Gần như thẳng phía dưới, anh trông thấy bóng dáng lờ mờ của thùng sữa mà Bruno bảo cậu ta đã quẳng đến gần tường. Anh cúi xuống để nhìn ngôi nhà qua các nhành cây cherry. Anh có thể nhìn thấy 2 trong số 5 ô cửa số lớn ở tầng 1 cùng một góc bể bơi ở trước mặt. Không có ánh đèn nào. Anh nhảy xuống.

Giờ anh có thể nhìn thấy nơi bắt đầu của 6 bậc thềm rộng màu trắng phía sau, cùng diềm lá mờ ảo của những cây thù du không hoa bao quanh toàn bộ ngôi nhà. Như anh đã nghi ngờ trong các bức vẽ của Bruno, ngôi nhà quá nhỏ so với 11 cột chống đôi của nó, rõ ràng đã được xây dựng vì khách hàng muốn có từng ấy cột chống và khăng khăng không chịu thỏa hiệp. Anh di chuyển dọc theo mé trong tường cho tới khi tiếng cành cây kêu răng rắc làm anh sợ hãi. Bruno đã bảo anh phải đi chéo bãi cỏ, ra là vì các cành cây khô này.

Khi tiến về phía ngôi nhà, một nhành cây đã móc vào mũ của anh và lôi nó đi. Anh nhét mũ vào trong áo khoác, rồi thò tay vào túi đựng chìa khóa. Anh đã để găng tay vào đây lúc nào vậy nhỉ? Anh hít một hơi rồi băng qua bãi cỏ với tư thế nửa đi nửa chạy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng như mèo. Anh nghĩ thầm rằng mình đã từng làm điều này rất nhiều lần, đây chỉ là một trong số những lần đó. Anh do dự đứng ở mép bãi cỏ, liếc nhìn cái gara quen thuộc ở phía cuối con đường sỏi uốn lượn, rồi bước lên 6 bậc thang. Cửa sau mở toang, nặng nề và trơn tuột. Anh nắm lấy tay nắm ở mặt bên kia. Đến cánh cửa thứ hai thì một ổ khóa Yale * xuất hiện, cảm giác gần giống như hổ thẹn lan tỏa trong lòng trước khi anh đẩy mạnh hơn và khiến ổ khóa ấy đầu hàng. Anh nghe thấy tiếng đồng hồ trên mặt bàn bếp ở phía bên trái. Anh biết đó là một chiếc bàn, dù anh chỉ có thể nhìn thấy một khoảng không đen ngòm đang làm nền cho những đồ vật sáng màu hơn, lò nướng trắng to đùng, bàn dành cho người hầu, những chiếc ghế còn sót lại và một vài cái tủ đựng đồ. Anh đi chéo về phía những bậc thang ở phía sau, đếm các bước chân của mình. Tôi muốn anh đi cầu thang chính nhưng toàn bộ cái cầu thang đó đều kêu cọt kẹt. Anh bước đi chậm rãi, cứng ngắc, căng mắt ra, tránh các thùng đựng rau củ mà anh không thật sự nhìn thấy. Đột nhiên, anh nghĩ rằng hẳn là lúc này trông anh giống một kẻ mộng du bị điên lắm. Dòng suy nghĩ đó làm anh bắt đầu cảm thấy hoảng hốt.

* Một trong những thương hiệu quốc tế lâu đời nhất trên thế giới và là cái tên lừng danh nhất trong ngành công nghiệp sản xuất khóa.

Trong 12 bậc đầu tiên, bỏ qua bậc thứ 7. Rồi 2 đoạn cầu thang ngắn sau khi rẽ... Bỏ bậc số 4, số 3, bước 1 bước rộng ở những bậc trên cùng. Anh sẽ nhớ thôi, nó có vần. Anh tránh bậc thứ 4 trong đoạn cầu thang đầu tiên. Guy nhớ lại một bài luận văn đã từng chỉ ra rằng: Cách một ngôi nhà được xây dựng sẽ tạo ra nếp sống của những người ở đó... Đứa trẻ có nên dừng lại ở cửa sổ ngắm cảnh trước khi trèo thêm 15 bậc để lên phòng chơi của mình không? 3 mét về phía bên trái là cửa phòng của quản gia. Đây là chỗ anh dễ chạm trán ai đó nhất, Bruno từng nhấn mạnh điều này khi đề cập đến việc anh phải đi qua cánh cửa sẫm màu ấy.

Sàn nhà khẽ rên rỉ phản đối, Guy lẹ làng rụt chân lại, chờ đợi và bước tránh chỗ đó ra. Anh nhẹ nhàng cầm lấy tay nắm cửa hành lang. Khi mở cửa ra, tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ ở đầu cầu thang chính vang lên to hơn, anh nhận là là mình đã nghe thấy âm thanh đó được vài giây rồi. Và anh còn nghe thấy một tiếng thở dài.

Một tiếng thở dài ở cầu thang chính!

Tiếng chuông bỗng vang lên. Tay nắm cửa rung rung. Anh nghĩ tay mình đang siết chặt đến nỗi đủ để phá hỏng luôn cái tay nắm cửa ấy. 3. 4. Đóng cửa lại trước khi người quản gia nghe thấy! Có phải chính vì thế này mà Bruno ấn định thời gian là giữa 11 giờ và nửa đêm không? Quỷ tha ma bắt cậu ta! Và giờ anh đang không mang khẩu Luger! Guy đóng sập cửa lại. Người anh đầy mồ hôi, cảm thấy hơi nóng từ cổ áo khoác dâng lên tận mặt, chiếc đồng hồ ngoài kia vẫn tiếp tục điểm. Cho đến tận hồi cuối cùng.

Rồi anh lắng nghe, nhưng lại chẳng thấy gì ngoại trừ những tiếng tích tắc đều đặn. Anh mở cửa ra và đi vào sảnh chính. Cửa phòng cha tôi nằm ngay bên phải. Đường đi nước bước lại xuất hiện dưới chân anh. Và anh cảm thấy chắc chắn mình đã từng tới đây, trong hành lang trống không khi anh nhìn chằm chằm vào cửa phòng của cha Bruno, với tấm thảm xám, các bức tường ốp ván gỗ màu kem cùng bàn đá cẩm thạch ở đầu cầu thang. Hành lang có mùi gì đó và đến cả cái mùi ấy cũng quen thuộc với anh luôn. Hai bên thái dương của anh nhói lên. Đột nhiên, anh chắc chắn rằng ông già ấy đang đứng ngay bên kia cánh cửa, nín thở hệt như anh và đang chờ đợi anh. Guy nín thở lâu tới mức ông ta hẳn đã chết nếu cũng nín thở như vậy. Vớ vẩn! Mở cửa đi!

Anh cầm tay nắm cửa bằng tay trái, tay phải tự động rờ vào khẩu súng trong túi. Anh cảm thấy mình như một cái máy, cực kỳ nguy hiểm và bất khả xâm phạm. Anh đã tới đây rất nhiều lần, đã giết ông ta vô số lần và đây chỉ là một trong những lần đó. Anh nhìn chằm chằm vào khe cửa hé ra rộng chỉ vài phân, cảm thấy có một khoảng không gian vô tận đang mở ra ở phía bên kia. Nhưng anh phải chờ tới khi cảm giác chóng mặt bỏ đi đã. Giả sử anh không thể nhìn thấy ông ta khi vào trong thì sao? Giả sử ông ta sẽ nhìn thấy anh trước? Đèn hiên trước chiếu sáng một chút vào căn phòng, nhưng chiếc giường lại nằm ở góc đối diện. Anh mở cửa rộng hơn, lắng nghe, rồi bước vào một cách hơi hấp tấp. Căn phòng im lìm, chiếc giường là một khối to đùng mơ hồ trong góc, có vệt sáng trên đầu giường. Anh đóng cửa lại vì gió có thể làm cửa chuyển động, sau đó đưa mắt nhìn về phía ấy.

Khẩu súng đã nằm trong tay anh, nhắm vào chiếc giường có vẻ như đang trống không, bất kể anh có nhìn nó chăm chú đến mức nào đi chăng nữa.

Anh liếc nhìn về phía cửa sổ qua vai phải. Nó chỉ hé ra vài phân, nhưng Bruno đã bảo nó sẽ được mở hết cỡ. Vì mưa. Anh cau mày nhìn chiếc giường, có phần phấn khích khi nhận ra đường nét của một cái đầu ở gần tường, nghiêng sang một bên như thể đang nhìn anh với bộ dạng khinh bỉ vui vẻ. Khuôn mặt tối hơn mái tóc tiệp màu gối. Khẩu súng chĩa thẳng vào khuôn mặt ấy cũng như anh đang nhìn nó chằm chằm.

Một phát đạn nên bắn vào ngực. Khẩu súng ngoan ngoãn chĩa vào ngực. Guy nhích chân đến gần giường hơn và lại liếc nhìn ra cửa sổ sau lưng. Không có tiếng thở. Có lẽ chẳng ai có thể nghĩ ông ta còn sống. Anh tự nhủ mình phải nghĩ thế, nghĩ rằng đó chỉ là một mục tiêu. Và vì anh không quen biết mục tiêu đó, nên cũng chỉ giống như giết người trong chiến tranh mà thôi. Luôn chứ?

“Ha ha ha ha!” Tiếng cười vang lên từ cửa sổ.

Guy run rẩy và khẩu súng cũng run rẩy theo.

Tiếng cười vang lên từ xa, giọng của một cô gái, xa xôi nhưng rõ ràng, đâm thẳng vào tai anh giống như tiếng súng. Guy liếm môi. Tiếng cười lanh lảnh đã quét sạch toàn bộ mọi cảm xúc về cảnh tượng trước mặt anh chỉ trong 1 giây mà chẳng để lại gì. Thế nhưng rồi sự trống rỗng ấy lại được lấp đầy một cách chậm rãi cùng với tư thế chuẩn bị giết người của anh. Nó diễn ra trong 1 nhịp tim. Mạng sống. Một cô gái trẻ đang đi bộ trên đường. Cùng với một người đàn ông, có lẽ thế. Và người đàn ông đang ngủ trên giường, còn sống. Không, đừng nghĩ gì! Mày làm vậy vì Anne, nhớ chưa? Vì Anne và vì chính mày. Cũng như giết người trong chiến tranh vậy thôi, như... Và rồi anh kéo cò. Nó chỉ kêu tách một tiếng. Anh kéo cò lần nữa và nó lại kêu tách. Đúng là một trò bịp bợm! Tất cả đều là giả dối và thậm chí còn không tồn tại! Kể cả việc anh đang đứng ở đây! Anh lại kéo cò súng.

Căn phòng vỡ toác ra cùng với một tiếng gầm. Các ngón tay của anh hốt hoảng siết lại. Tiếng gầm lại vang lên, như thể vỏ Trái Đất nổ tung.

“Ôi!” bóng người trên giường nói. Khuôn mặt xám xịt nhích tới trước, lộ ra bóng dáng đầu và vai.

Guy đã ra ngoài mái hiên, đang rơi xuống. Cảm giác ấy thức tỉnh anh giống như cú ngã cuối cùng trong một cơn ác mộng vậy. Kỳ diệu thay, một thanh ngang của tấm vải bạt đã trượt vào trong lòng bàn tay anh. Anh lại rơi xuống, chống cả tay lẫn đầu gối xuống đất. Nhảy ra khỏi hiên, anh chạy dọc ngôi nhà, rồi lao ngang qua bãi cỏ, đi thẳng tới chỗ để thùng sữa. Nhận thức rất rõ về mặt đất đang bám dính lấy chân, cánh tay anh chuyển động vô vọng để cố gắng đẩy nhanh tốc độ trên mặt cỏ. Anh thầm nghĩ, ra là cảm giác này đây, nó là thế này đây - tràn trề năng lượng, giống như tiếng cười anh nghe thấy ban nãy. Sự thật là cảm giác này tựa như trong một cơn ác mộng, khi người ta cảm thấy tê liệt vì phải chống lại những điều không thể vậy.

“Này!” một giọng nói vọng tới.

Người quản gia đuổi theo anh, hệt như anh đoán trước. Anh cảm thấy ông ta đang chạy ngay sau lưng mình. Ác mộng!

“Này! Này anh kia!”

Guy xoay người lại dưới tán cây cherry và đứng đó với nắm đấm đưa ra sau. Quản gia không bám sát gót anh. Ông ta còn cách một đoạn, nhưng đã nhìn thấy anh. Bóng người chạy như điên trong bộ đồ ngủ trắng lảo đảo như khói bốc lên, rồi rẽ về phía anh đang đứng. Guy đứng đó, tê liệt, chờ đợi.

“Này!”

Nắm đấm của Guy tấn công cái cằm khi nó tiến lại gần. Bóng ma trắng ngã xuống.

Guy nhảy lên tường.

Bóng đêm dâng lên ngày một cao hơn. Anh tránh một cái cây nhỏ, nhảy qua một chỗ có vẻ là một con mương và tiếp tục chạy. Rồi bỗng nhiên cơ thể anh nằm sấp trên mặt đất, cảm giác đau đớn từ bụng tỏa ra khắp mọi hướng, làm anh cắm rễ một chỗ. Cơ thể anh run rẩy dữ dội. Anh nghĩ mình phải thu ngay năng lượng lại và dùng nó để bỏ chạy, đây không phải là chỗ Bruno khuyên nên chạy trốn, nhưng anh không thể cử động. Anh chỉ cần đi theo con đường đất nhỏ (ở đó không có ánh sáng) về phía đông tới Newhope ở phía nam của ngôi nhà, đi tiếp qua 2 con phố lớn trên đường Columbia, rồi tiếp tục chạy về phía nam (bên phải)... Ở đó sẽ có làn xe buýt dẫn tới một nhà ga khác. Viết mấy chỉ dẫn chết tiệt trên giấy thì quá dễ dàng cho Bruno. Quỷ tha ma bắt cậu ta đi! Anh biết mình đang ở đâu, ở mé tây của ngôi nhà vốn không hề được nhắc đến trong kế hoạch! Anh nhìn ra sau lưng. Đường nào để tới phía bắc đây? có vấn đề gì với đèn đường vậy? Có lẽ anh sẽ không thể tìm được con đường nhỏ trong bóng đêm. Anh không biết ngôi nhà nằm sau lưng hay bên trái của mình. Một cơn đau kỳ lạ lan ra khắp bắp tay phải của anh, cơn đau gắt đến mức anh nghĩ nó có thể sáng lên trong bóng tối mất.

Anh cảm thấy bản thân như thể đã vỡ tung ra cùng với tiếng súng nổ. Anh có thể sẽ không bao giờ gom đủ năng lượng để cử động được nữa, nhưng anh cũng chẳng quan tâm lắm. Guy nhớ mình từng bị va chạm trong một trận bóng đá hồi trung học, anh cũng đã nằm sấp mặt xuống như thế này, đau đến mức không nói nên lời. Anh nhớ món súp, món súp siêu ngon và bình nước nóng mà mẹ đã mang đến tận giường cho anh, bàn tay bà chỉnh lại cái chăn dưới cằm anh. Lúc này đây, bàn tay đang run rẩy của anh đã bị trầy xước bởi một tảng đá nhô lên mặt đất. Anh cắn môi và nghĩ ngợi lung tung, như người ta hay làm lúc nửa tỉnh nửa mê vào một sáng sớm mệt mỏi. Anh biết mình phải đứng dậy ngay lập tức, bất kể đau đớn đến mấy, vì anh vẫn chưa được an toàn. Anh vẫn còn ở rất gần ngôi nhà. Thế rồi tay chân anh loạng choạng chống dậy, như thể tình trạng bất động đã nạp đủ năng lượng cho anh và đột ngột giải phóng tất cả cùng lúc vậy. Anh lại tiếp tục chạy trốn trên cánh đồng.

Một âm thanh kỳ lạ khiến anh dừng bước - một tiếng rên rỉ có vần điệu trầm thấp dường như vang vọng từ tứ phía.

Tất nhiên rồi, đó là tiếng còi xe cảnh sát. Thế mà như một thằng ngu, ban đầu anh còn tưởng đó là máy bay! Anh chạy tiếp, biết rằng mình chỉ đang chạy một cách mù quáng để tránh xa tiếng còi đang vang lên ầm ĩ ngay bên vai trái. Anh cũng biết mình nên rẽ trái để tìm đường mòn. Hẳn là anh đã chạy rất xa khỏi bức tường trát vữa dài dằng dặc. Anh bắt đầu rẽ trái để băng qua đường chính, chắc chắn là ở hướng đó rồi, thế nhưng tiếng còi xe cảnh sát đang tiến lại gần trên con đường. Hoặc anh phải đợi... Anh không thể đợi. Anh tiếp tục chạy song song với những chiếc xe. Rồi có thứ gì đó vướng vào chân anh, chửi thề, anh lại ngã. Anh nằm trong vũng bùn, cánh tay giang ra, tay phải đặt trên gò đất cao hơn. Cảm giác bực bội khiến anh điên tiết đến mức khóc một cách dằn dỗi. Tay trái của anh có cảm giác kỳ kỳ. Từ cánh tay đến tận cổ tay nằm trong vũng nước. Nó sẽ làm ướt đồng hồ của mình mất, anh nghĩ thầm. Nhưng càng có ý định rút tay ra thì dường như anh lại càng không thể làm vậy. Anh cảm thấy có 2 luồng lực, một bên di chuyển cánh tay của anh, còn một bên thì nhất quyết không chịu, chúng cân bằng hoàn hảo với nhau đến mức tay anh còn chẳng bị kéo căng. Khó tin thay, bây giờ anh thậm chí còn có thể ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ đến việc cảnh sát sẽ bao vây mình, nên anh lại đứng dậy, rồi tiếp tục bỏ chạy.

Gần phía bên phải, một tiếng còi vang lên hân hoan như thể đã tìm được anh.

Những đốm sáng chiếu xuống ngay trước mắt, anh quay người bỏ chạy ra xa. Một ô cửa sổ. Suýt nữa thì anh chạy vào một ngôi nhà. Cả thế giới đã tỉnh giấc! Và anh phải băng qua đường!

Một chiếc xe cảnh sát đi trên đường, cách anh chỉ chục mét, đèn pha chiếu qua các bụi cây. Một tiếng còi khác vang lên bên trái, hẳn là từ ngôi nhà, nhưng rồi tất cả cũng chìm dần vào im lặng. Ngồi xổm xuống, Guy băng qua đường khi xe cảnh sát chưa đi xa mấy, rồi lẻn vào vùng bóng tối đặc hơn. Bất kể con đường mòn đang ở đâu, anh cũng có thể tránh xa ngôi nhà hơn theo hướng này. Có những khoảng rừng tối om ở phía nam, rất dễ trốn trong trường hợp anh phải chạy khỏi đường mòn... Đừng cố vứt khẩu Luger đi bất kể có chuyện gì xảy ra trên đường từ nhà tôi tới ga tàu. Tay anh đút vào trong túi và cảm nhận khẩu súng nhỏ mát lạnh qua chỗ rách ở găng tay. Anh không nhớ mình đã cất khẩu súng vào túi như thế nào. Nó có thể đang nằm trên tấm thảm xanh lắm chứ! Mà nếu anh đã làm rơi nó thì sao? Đúng là thời điểm thích hợp để nghĩ về nó!

Có thứ gì đó túm và giữ chặt tay anh. Anh tự động vung nắm đấm lên, nhưng rồi lại phát hiện ra đó chỉ là các bụi cây, cành cây và những nhánh cây thạch nam. Anh liên tục vung tay để lao qua chúng, vì tiếng còi xe vẫn đuổi theo sau lưng anh và đây cũng là hướng đi duy nhất. Anh tập trung vào kẻ thù trước mặt, hai bên và thậm chí cả sau lưng. Chúng tóm lấy anh bằng hàng nghìn bàn tay bé nhỏ sắc nhọn, tiếng răng rắc bắt đầu át cả tiếng còi xe. Anh vui sướng khi được dùng sức mạnh để chống lại chúng, đồng thời tận hưởng cuộc chiến trực diện này.

Anh tỉnh dậy ở bìa rừng, mặt úp xuống trên một ngọn đồi thoai thoải. Anh đã ngủ một giấc hay mới chỉ ngã xuống cách đây vài giây? Bầu trời trước mắt anh xám xịt, bình minh chỉ vừa mới ló dạng. Khi cố gắng đứng dậy, tầm nhìn choáng váng giúp anh nhận ra là mình đã bất tỉnh. Các ngón tay của anh đưa thẳng lên phần tóc rối bù ướt đẫm đang chĩa ra. Có thể đầu anh đã bị vỡ rồi, anh nghĩ một cách hãi hùng, rồi đờ đẫn đứng đó trong giây lát, chờ chết.

Bên dưới, ánh đèn thưa thớt của một thị trấn nhỏ sáng lên như những vì sao trong buổi hoàng hôn. Guy lôi khăn tay ra một cách máy móc, cuốn chặt nó quanh ngón tay cái, nơi đang có một vết cắt rỉ đầy máu đen. Anh đi về phía một thân cây rồi tựa vào đó. Mắt anh quan sát thị trấn và con đường bên dưới. Chẳng hề có lấy một chuyển động. Đây có phải là anh không? Đứng dựa vào thân cây với ký ức về vụ nổ súng, tiếng còi và cuộc vật lộn với khu rừng? Anh muốn nước. Trên con đường đất bao quanh thị trấn, khi nhìn thấy một trạm xăng, anh liền rẽ xuống đó.

Có một cái máy bơm kiểu cũ được đặt ngay cạnh trạm xăng. Guy cúi đầu xuống dưới làn nước. Gương mặt anh đau nhói như một cái mặt nạ đầy vết cắt. Tâm trí anh dần trở nên tỉnh táo hơn. Lúc này hẳn anh chỉ còn cách Great Neck khoảng hơn 3 kilomet nữa thôi. Anh cởi chiếc găng tay bên phải chỉ còn một ngón ra và đút nó vào túi. Những ngón còn lại đâu rồi? Anh đã vứt nó lại trong rừng khi băng bó vết thương trên ngón cái sao? Cảm giác hốt hoảng ùa đến lại khiến anh dễ chịu và quen thuộc. Anh sẽ phải quay lại tìm nó. Anh tìm trong túi áo khoác, cởi áo ra, rồi lục lại túi quần. Chiếc mũ rơi xuống chân. Anh đã quên hẳn cái mũ, nhỡ anh đã đánh rơi nó ở đâu đó thì sao? Rồi anh tìm ra găng tay ở trong ống tay áo bên trái, chỉ còn vài sợi chỉ dính vào chỗ vải ở cổ tay, chiếc găng đã rách bươm. Anh đút nó vào túi với vẻ nhẹ nhõm mơ hồ, có phần vui sướng. Anh lật ống quần đã rách xuống, quyết định di chuyển về phía nam, lên một chuyến xe buýt bất kỳ, rồi đi cho tới khi nhìn thấy ga tàu.

Ngay khi định ra mục tiêu, cảm giác đau đớn trong anh lại ập đến. Làm sao anh có thể đi hết con đường kia với cái đầu gối như thế này? Vậy nhưng anh vẫn đi tiếp, ngẩng cao đầu để giục giã mình tiến lên. Đây là khoảng thời gian mơ hồ giao thoa giữa ngày và đêm, vẫn tối tăm, dù quầng sáng đa sắc đã bắt đầu xuất hiện xung quanh. Có vẻ như đêm tôi đang lấn át ánh sáng vì màu đen vẫn đang chiếm nhiều hơn. Giá trời vẫn tối đen thế này cho tới khi anh về nhà và khóa cửa lại!

Nhưng rồi ánh sáng ban ngày đột ngột xóa tan màn đêm và chiếu rọi khắp đường chân trời. Một dải sáng bạc chạy dọc đỉnh đồi, ngọn đồi dường như đã tỉnh giấc, chuyển sang màu tím hoa cà, xanh dương và nâu vàng. Một ngôi nhà nhỏ màu vàng nằm dưới một tán cây trên đồi. Cánh đồng đen ngòm phía bên phải đã chuyển mình thành những đám cỏ cao vút màu vàng xanh, nhẹ nhàng lay động như đại dương. Khi anh đứng nhìn, một chú chim bay ra khỏi bãi cỏ, hót vang, rồi nhanh nhẹn đánh lên một thông điệp hoa mỹ, lộn xộn bằng đôi cánh nhọn hoắt của nó trên bầu trời. Guy dừng lại quan sát cho tới khi nó biến mất.