- IV -
Đã có bản danh sách trên bàn của sếp...
Lapointe, người được coi là làm việc một cách tỉ mỉ, báo cáo.
Có nhiều bản danh sách đã được đánh máy. Các chuyên gia của phòng căn cước đã phân loại tài sản thành động sản và bất động sản của thầy thuốc. Trước hết là thùng gỗ cũ, báo, xoong chảo, cặp lồng, cuốn Oraisòns Funèbres của Bossuet và các thứ linh tinh khác đã được xếp trong một góc của phòng thí nghiệm.
Bản danh sách thứ hai là quần áo mà Lucas đã mang đến Bệnh viện Thượng đế và bản thứ ba là những thứ lấy trong túi ra.
Không muốn xem bản kê, Maigret lấy trong chiếc túi bằng giấy ra những vật mà Lucas đã nhét vào đấy.
Trước hết là chiếc ống nghe của bác sĩ. Nó đã quá cũ.
- Vật này trong túi bên phải của áo vét-tông- Lucas nói - Tôi đã hỏi bệnh viện, nó không dùng được nữa.
Tại sao thầy thuốc còn giữ nó trong người? Hy vọng là sửa lại được ư? Đây có phải là vật tượng trưng cuối cùng cho nghề nghiệp của ông ta không?
Tiếp đó là con dao nhíp ba lưỡi và một cái mở nút chai, cán bằng sừng đã gãy. Cũng như các đồ vật khác, chắc chắn nó đã được lấy trong thùng rác ra.
Một tẩu thuốc bằng gỗ thạch thảo, ống được buộc bằng một sợi dây thép.
- Túi bên trái - Lucas nói - Nó còn ẩm.
Maigret máy móc ngửi chiếc tẩu.
- Không có thuốc ư? - Ông hỏi.
- Sếp sẽ thấy những đầu mẩu thuốc ở trong túi. Bị ướt nên chúng đã nhão nhoét.
Người ta có thể hình dung người ấy dừng bước trên hè phố, cúi xuống nhặt một đầu mẩu thuốc lá, bóc giấy ra rồi nhét thuốc vào tẩu. Điều Maigret cảm thấy thích thú là thầy thuốc cũng hút tẩu. Cả vợ, cả con gái của ông ta không biết chuyện này.
Những chiếc đinh, chiếc vít. Để làm gì nhỉ? Kẻ lang thang nhặt chúng trong khi đi dạo và đút chúng vào túi mà không nghĩ đến việc dùng chúng sau này, chắc chắn ông ta coi chúng như những lá bùa hộ mệnh.
Chứng cứ là còn ba vật khác rất vô ích với người nằm dưới gầm cầu, lấy báo đắp lên ngực cho khỏi lạnh: ba hòn bi bằng thuỷ tinh, trong đó người ta nhìn thấy những vệt đủ màu xanh, đỏ, tím, vàng. Bọn trẻ con thường soi chúng lên mặt trời để ngắm.
Như vô tình, Maigret cầm lấy ba hòn bi.
- Anh có các dấu vân tay không?
- Những bệnh nhân khác cứ chằm chằm nhìn tôi. Tôi đã đến Phòng căn cước để so.
- Kết quả ra sao?
- Không có gì. Keller không có tiền án, tiền sự nào.
- Ông ta đã tỉnh chưa?
- Chưa. Khi tôi ở đấy thì mắt ông ta lim dim nhưng hình như không nhìn thấy gì. Hơi thở có phần nặng nề. Thỉnh thoảng ông ta cất tiếng rên...
Trước khi về nhà, Maigret ký các giấy tờ. Mặc dù bận rộn nhưng ông thấy mình sảng khoái. Có phải do vô ý ông đã đút ba hòn bi vào túi khi ra về không?
Hôm nay là thứ ba, ngày người ta thường ăn món mì ống và cháy bánh mì. Chẳng có lý do gì mà nhiều năm nay, cứ vào ngày thứ ba, người ta dùng món mì ống có cháy bánh mì kèm theo giăm-bông và đôi khi còn có nấm thái nhỏ nữa.
Bà Maigret vui mừng vì có những tin tức báo cho chồng biết, về phần mình ông không nói ngay những chuyện do cô Jacqueline Rousselet và bà Keller kể lại.
- Tôi đói rồi.
Bà đợi câu hỏi của ông. Ông chỉ hỏi sau khi hai người đã ngồi vào bàn đặt trước một của sổ rộng mở. Không khí trong xanh có vài dải mây đỏ phía cuối chân trời.
- Bà chị có gọi lại không?
- Tôi cho rằng chị ấy đã rất bận rộn. Chắc chắn chị ấy đã gọi dây nói cả buổi chiều nay cho bạn bè.
Bà giở một tờ giấy chi chít những dòng ghi chép và đặt bên đĩa ăn.
- Tôi nhắc lại những điều chị ấy nói chứ?
Tiếng động ở ngoài phố, tiếng máy thu hình của hàng xóm dội vào phòng ăn của họ.
- Ông có cần ghi không?
- Không. Tôi muốn nghe bà nói.
Trong khi bà nói, đã hai ba lần ông thọc tay vào túi để xóc những viên bi.
- Tại sao ông lại cười?
- Không có gì... Tôi vẫn nghe.
- Trước hết, tôi nói về nguồn gốc của khoản tài sản rơi vào tay bà Keller... Đây là một câu chuyện dài... Ông có muốn tôi kể lại chi tiết không?
Ông vừa ăn vừa gật đầu.
- Bà ta là nữ y tá, bốn chục tuổi hãy còn sống độc thân.
- Bà ấy sống ở Mulhouse ư?
- Không. Ở Strasbourg... Đây là người em gái của mẹ bà Keller... Ông vẫn nghe đấy chứ?
- Phải..
- Bà ta làm việc ở bệnh viện... Tại đây mỗi giáo sư có một số phòng bệnh dành riêng cho khách của mình... Một ngày nọ thời trước chiến tranh, bà ta có trách nhiệm chăm sóc cho một người ở vùng Alsace tên là Lemke. Ông ta trở nên giàu có nhờ nghề buôn sắt vụn. Người ta còn nghi ngờ ông cho vay nặng lãi nữa.
- Ông Lemke đã cưới bà này ư?
- Sao ông biết?
Maigret ân hận là đã làm mất hứng thú của vợ.
- Nhìn nét mặt bà thì tôi biết.
- Ông ta đã lấy bà ấy, phải. Xin ông nghe tiếp. Trong chiến tranh ông ta tiếp tục buôn sắt vụn và các thứ khác, ông ta có quan hệ với bọn Đức quốc xã và ngày càng giàu thêm. Tôi có nói dài dòng không? Có làm ông khó chịu không?
- Ngược lại. Sau ngày giải phóng thì sao?
- Du kích đã tìm Lemke để xử bắn nhưng không thấy hắn. Không ai biết họ, hắn và vợ hắn, lẩn trốn ở đâu. Cuối cùng người ta biết vợ chồng hắn đã sang Tây Ban Nha để đi Argentine. Một người của Mulhouse đã gặp Lemke ở ngoài phố Ông còn mì ống không?
- Còn. Bà kể tiếp đi.
- Một hôm họ lên máy bay từ Brézil để đi đâu đó. Máy bay đâm vào núi. Phi hành đoàn và hành khách đều chết cả. Lemke và vợ cũng vậy và gia tài của hắn rơi vào tay bà Keller. Thông thường thì người thân của Lemke được hưởng số tài sản này nhưng các bác sĩ nói người chồng chết trước người vợ tuy chỉ trong một thoáng. Người cô chết, gia tài chuyển sang người cháu. Thế là xong!
Bà hài lòng về chuyện kể của mình.
- Nói tóm lại, có một bà y tá lấy một ông buôn sắt vụn tại một bệnh viện ở Strasbourg và một chiếc máy bay đâm vào núi ở Nam Mỹ nên bác sĩ Keller trở thành một kẻ lang thang. Nếu vợ ông ta không trở nên giàu có một cách đột ngột như vậy thì chắc chắn họ còn sống với nhau ở phố Sauvage. Ông biết điều tôi định nói chứ? Ông có tin là họ vẫn sống ở Mulhouse không?
- Rất có thể...
- Tôi cũng có những tin tức về bà này nhưng đây chỉ là những chuyện ngồi lê đôi mách và chị tôi không chịu trách nhiệm về chúng...
- Bà cứ nói đi...
- Đây là một người nhỏ nhắn, năng động, ưa giao du rộng rãi và thích làm quen với những nhân vật quan trọng. Khi chồng bỏ đi thì mụ rất thích thú, mở tiệc đãi khách nhiều ngày trong nhiều tuần lễ liền. Mụ trở thành nữ mưu sĩ của ông thị trưởng Badet goá vợ. Những miệng lưỡi xấu xa nói mụ là tình nhân của viên quan chức này. Mụ còn nhiều tình nhân khác trong đó có một ông tướng trong quân đội mà tôi quên mất tên...
- Tôi đã gặp bà ta rồi...
Bà Maigret có thất vọng không? Chắc hẳn là không.
- Trông mụ ta như thế nào?
- Như bà đã mô tả... Một người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, rất chú ý tự chăm sóc bản thân, rất cẩn thận, hơi nóng nảy và rất quí những con vẹt...
- Tại sao lại có những con vẹt trong chuyện này?
- Vì bà ta nuôi rất nhiều vẹt trong phòng khách của mình.
- Mụ ta đang sống ở Paris ư?
- Ở đảo Saint-Louis, cách cầu Marie, nơi cư trú của ông chồng, ba trăm mét. Ông chồng cũng hút tẩu.
Ông lấy trong túi ra ba hòn bi và đặt chúng lên mặt bàn.
- Cái gì vậy?
- Ba hòn bi của thầy thuốc.
Bà Maigret nhìn chồng một cách chăm chú.
- Ông thích ông ấy đúng không?
- Tôi cho rằng mình đã hiểu ông ta.
- Ông hiểu tại sao một người như ông ấy lại trở thành một kẻ lang thang ư?
- Có thể. Ông ta đã sống ở châu Phi, một người da trắng độc nhất sống trong rừng rậm, xa những con đường lớn. Ông ta thất vọng ngay từ lúc ấy.
- Tại sao?
Có khó giải thích điều này cho bà Maigret, người quen sống trong trật tự và sạch sẽ không?
- Cái mà tôi muốn biết - Ông nói tiếp bằng giọng nhẹ nhàng - là tại sao người ta trở thành thủ phạm?
Bà cau mày.
- Ông muốn nói gì? Chính người ta đã đánh và ném ông ấy xuống sông đấy thôi?
- Ông ta là nạn nhân, đúng thế...
- Vậy thì tại sao ông nói...
- Những nhà tội phạm học, đặc biệt là ở Mỹ, có một lý thuyết về vấn đề này...
- Lý thuyết đó ra sao?
- Trong mười vụ giết người thì có một vụ nạn nhân có một phần trách nhiệm...
- Tôi không hiểu...
Ông nhìn những hòn bi như chúng đang thôi miên ông.
- Lấy ví dụ có một người phụ nữ và một người đàn ông hay ghen đang cãi nhau... Người đàn ông chê trách vợ coi khinh mình...
- Cái đó có thể xảy ra...
- Giả thiết trong tay người đàn ông lúc ấy có một con dao và người ấy nói - Coi chừng... Để xảy ra một lần nữa thì tôi sẽ giết cô...
- Cái đó cũng có thể xảy ra...
- Giả thiết là người phụ nữ nói lại: - Mày không dám đâu... Mày không có khả năng ấy đâu...
- Tôi hiểu.
- Trong nhiều vụ án ghen tuông thường có những chuyện như vậy... Vừa rồi bà nói Lemke giàu có một phần là do đầu cơ tích trữ, đẩy đồng nghiệp vào hoàn cảnh thất vọng, phần khác là làm tay sai cho bọn Đức quốc xã... Bà có ngạc nhiên khi thấy hắn bị ai đó giết chết không?
- Ông bác sĩ ư?
- Và còn không ít người khác nữa. Ông ta sống dưới gầm cầu, uống rượu vang đỏ bằng chai, đi trên phố với tấm biển quảng cáo trên lưng...
- Ông nói tiếp đi!
- Một kẻ nào đó ban đêm đã xuống gầm cầu đánh vào đầu ông ta rồi kéo xác để ném xuống sông Seine và được người ta vớt lên một cách ngẫu nhiên. Kẻ đó có lý do để hành động như vậy... Nói cách khác, thầy thuốc đã cho hắn một lý do để loại bỏ mình.
- Ông ấy vẫn bất tỉnh ư?
- Phải.
- Ông hy vọng khi ông ấy nói được thì ông sẽ biết một điều gì đó ư?
Maigret nhún vai và bắt đầu nhồi thuốc vào tẩu. Một lát sau, bà tắt đèn, ông ngồi quay mặt ra cửa sổ để mở.
***
Sáng hôm sau khi ông tới văn phòng thì trời sáng sủa, mát mẻ như hôm trước. Trên cành bắt đầu có những lá cây mềm mại và xanh mướt.
Viên cảnh sát trưởng vừa ngồi xuống ghế thì Lapointe bước vào.
- Tôi có hai khách hàng cho sếp...
Ông hài lòng với người cấp dưới như hài lòng với bà Maigret hôm qua.
- Họ đang ở đâu?
- Ở phòng chờ.
- Là những ai vậy?
- Là người chủ chiếc xe Peugeot bốn trăm lẻ ba màu đỏ và một người bạn cùng ngồi trên xe đêm hôm trước. Có rất ít xe bốn lẻ ba màu đỏ ở Paris và chỉ có ba chiếc có biển số có hai con số chín. Một chiếc đang đưa đi sửa từ tám hôm nay, một chiếc hiện đang ở Cannes với chủ nó...
- Anh đã thẩm vấn những người ấy chưa?
- Tôi mới chỉ hỏi hai ba câu... Tôi muốn tự sếp làm việc này... Tôi có thể đưa họ tới gặp sếp được không?
Có vẻ gì bí mật trong thái độ của Lapointe như anh muốn dành sự ngạc nhiên cho Maigret.
- Được...
Ông ngồi trước bàn với những hòn bi nhiều màu một lá bùa hộ mệnh và đợi.
- Ông Jean Guillot... - Thanh tra Lapointe báo tin.
Đó là một người khoảng bốn chục tuổi, tầm thước trung bình, ăn vận sang trọng.
- Ông Lucien Hardoin, nhà thiết kế công nghiệp...
Anh ta cao lớn, trẻ hơn bạn, và sau này Maigret biết anh ta là người nói lắp.
- Xin mời các ông ngồi... Tôi nghe nói các ông là chủ chiếc Peugeot màu đỏ...
Jean Guillot là người đầu tiên giơ tay với vẻ tự hào.
- Đó là xe của tôi- Anh ta nói. Tôi mua hồi đầu mùa đông.
- Ông sống ở đâu, ông Guillot?
- Phố Turrene, không xa đại lộ Temple là mấy.
- Ông làm nghề gì?
- Nhân viên bảo hiểm.
Anh ta tỏ ra không sợ hãi gì khi bị một viên cảnh sát trưởng thẩm vấn tại sở Cảnh sát. Anh ta còn tò mò nhìn xung quanh như để sau này có chuyện kể lại cho bạn bè.
- Còn ông, ông Hardoin?
- Tôi... cùng ở chung... một... một... khu nhà ấy.
- Ở tầng trên tầng có căn hộ của tôi - Guillot nói thêm.
- Ông có vợ chứ?
- Tôi... sống... độc thân...
- Còn tôi, tôi đã có vợ và hai con, một trai, một gái - Guillot còn nói thêm mà không đợi hỏi.
Lapointe đứng ở gần cửa mỉm cười. Người ta có thể nói hai người đàn ông kia, mỗi người ngồi trên một chiếc ghế, mỗi người đều có một chiếc mũ trên đầu gối, đang trong một tiết mục hát song ca.
- Các ông là bạn của nhau ư?
Họ trả lời cùng một lúc nên người ta không nghe thấy tiếng nói lắp của Hardoin:
- Là bạn tốt...
- Các ông có biết Francois Keller không?
Hai người ngạc nhiên nhìn nhau như đây là lần dầu tiên họ nghe thấy cái tên ấy. Nhà thiết kế công nghiệp hỏi lại:
- Đó... đó... là ai vậy?
- Trước kia ông ta là bác sĩ ở Mulhouse.
- Tôi chưa bao giờ đến Mulhouse cả - Guillot khẳng định. Ông ta nói ông ta biết tôi ư?
- Đêm thứ hai vừa rồi các ông làm gì?
- Như đã nói với viên thanh tra của ông, tôi cho rằng luật pháp không cấm việc này.
- Hãy kể thật chi tiết những việc mà các ông đã làm...
- Khi hết giờ làm việc vào lúc tám giờ tối tôi trở về nhà. Vợ tôi kéo tôi ra một góc để trẻ con không nghe thấy và đã bảo tôi rằng Nestor...
- Nestor là ai?
- Là con chó của chúng tôi... Một con chó to, giống Đan Mạch. Nó đã được mười hai tuổi và rất hiền với bọn trẻ, có thể nói nó đã chứng kiến sự ra đời của các con tôi...Khi chúng còn nằm trong nôi thì con chó nằm ngay dưới nôi khiến tôi cũng không dám tới gần...
- Vợ ông đã nói gì với ông?
Anh ta bình tĩnh nói:
- Tôi không biết ông có nuôi chó Đan Mạch không. Nói chung là chúng sống không dài như những giống chó khác, tôi không hiểu tại sao... Cuối đời, chúng như những người già tàn tật. Nhiều tuần lễ gần đây nó như bị liệt. Tôi định mang nó đến bác sĩ thú y để tiêm. Vợ tôi không muốn như vậy. Tối thứ hai, trở về nhà, con chó đang hấp hối và, để bọn trẻ không nhìn thấy cảnh này, vợ tôi tìm đến người bạn Hardoin của chúng tôi nhờ anh mang nó về nhà mình.
Maigret nhìn Lapointe và viên thanh tra nháy mắt.
- Ngay lập tức tôi lên nhà Hardoin để xem con chó thế nào. Con Nestor khốn khổ đang thở hắt ra. Tôi gọi điện thoại cho bác sĩ thú y thì được trả lời ông ta đi xem hát đến giữa đêm mới về. Chúng tôi ngồi nhìn con chó chết dần hơn hai tiếng đồng hồ. Tôi ngồi bệt xuống đất, nó tựa đầu lên đầu gối tôi. Nó co giật từng cơn...
Hardoin gật đầu xác nhận và cố gắng nói thêm.
- Nó... nó...
- Nó chết vào lúc mười giờ ba mươi - Người nhân viên bảo hiểm nói thêm. Tôi xuống nhà để báo tin cho vợ tôi. Tôi ngồi lại trông các con tôi ngủ để vợ tôi lên nhìn con Nestor lần cuối. Tôi ăn một vài miếng, vì từ lúc về nhà tôi chưa kịp ăn uống gì. Xin thú nhận là tôi có uống hai cốc cô-nhắc để lấy lại tinh thần. Khi vợ tôi trở về, tôi mang chai rượu lên cho Hardoin vì anh ấy cũng đang ngao ngán như tôi.
Một tấn thảm kịch báo hiệu một tấn thảm kịch khác.
Lúc này chúng tôi hỏi nhau giải quyết cái xác con chó thế nào. Tôi nghe nói có một nghĩa địa chó, nhưng tôi nghĩ chôn nó ở đấy thì mất nhiều tiền, mặt khác tôi không thể bỏ một ngày làm việc của cơ quan để làm việc này. Còn vợ tôi, cô ấy cũng không có thời gian.
- Nói ngắn gọn thôi! - Maigret nhắc.
- Ngắn gọn...
Và Guillot sững lại vì mất dòng suy nghĩ của mình.
- Chúng tôi... chúng tôi...
- Chúng tôi không muốn ném nó vào một nơi khuất nẻo... Ông có biết con Nestor cao lớn đến chừng nào không? Nằm trong phòng ăn của Hardoin, trông nó như một con người. Nói tóm lại.
Anh ta có vẻ hài lòng khi nhắc lại câu này.
- Nói tóm lại, chúng tôi quyết định ném nó xuống sông Seine. Tôi về nhà tìm một cái bao tải đựng khoai tây. Bao quá nhỏ nên chân sau của con chó thò ra ngoài. Khó nhọc lắm chúng tôi mới mang con chó xuống, cho nó vào trong cốp xe được.
- Lúc ấy là mấy giờ?
- Mười một giờ mười.
- Tại sao ông biết là mười một giờ mười?
- Vì bà gác cổng chưa đi ngủ. Thấy chúng tôi đi qua bà ấy hỏi đã có chuyện gì xảy ra. Tôi giải thích cho bà rõ. Và khi mở cổng, tôi máy móc nhìn lên đồng hồ đang chỉ mười một giờ mười.
- Các ông nói là sẽ ném nó xuống sông Seine ư? Nhưng tại sao các ông lại đến cảng Celestins?
- Đó là đường gần nhất.
- Chỉ cần một vài phút là có thể tới đó. Trên đường đi, các ông có dừng lại ở chỗ nào không?
- Không. Chúng tôi đi theo con đường ngắn nhất. Chỉ mất có năm phút. Nhưng tôi đã ngập ngừng khi cho ô tô xuống dốc. Vì không trông thấy ai nên chúng tôi sẽ không bị bắt gặp.
- Lúc ấy chưa đến mười một giờ rưỡi chứ?
- Chắc chắn là chưa. Ông sẽ thấy. Chúng tôi khiêng chiếc bao tải và chúng tôi ném nó xuống nước.
- Vẫn không nhìn thấy ai chứ?
- Đúng thế.
- Có một chiếc sà lan ở gần đó chứ?
- Có... Chúng tôi đã nhìn thấy ánh sáng trong chiếc sà lan ấy...
- Nhưng không nhìn thấy người thuỷ thủ ư?
- Không.
- Các ông không đi đến cầu Marie ư?
- Chúng tôi không có lý do gì để đi xa hơn. Chúng tôi ném con Nestor gần nơi ô tô đậu.
Hardoin luôn gật đầu xác nhận, nhiều lúc muốn nói thành lời nhưng sau lại thôi.
- Sau đó thì sao?
- Chúng tôi bỏ đi. Một khi tới đó.
- Ông muốn nói cảng Celestines ư?
- Vâng... Tôi biết trước mình ăn sẽ không biết ngon và tôi nhớ rằng trong chai không còn rượu cô-nhắc nữa. Đêm ấy thật là nặng nề. Nestor là con vật thân thiết trong gia đình tôi. Tới phố Turenne, tôi đề nghị Hardoin đi uống một cốc và chúng tôi vào một quán cà phê ở góc phố Francois-Bourgeois, gần Quảng trường Vosges...
- Các ông lại uống cô-nhắc ư?
- Vâng. Ở đấy tôi lại nhìn đồng hồ treo tường. Ông chủ quán bảo tôi nó nhanh năm phút. Lúc ấy là mười hai giờ kém hai mươi.
Anh ta nhắc lại bằng một giọng chán nản:
- Xin thề với ông là tôi không biết cái đó bị cấm... Nếu ông ở vào địa vị tôi thì sao? Nhất là đối với bọn trẻ con, nếu không muốn chúng nhìn thấy cảnh ấy. Chúng vẫn chưa biết con chó đã chết... Chúng tôi sẽ nói là Nestor bị lạc và chúng tôi đang đi tìm, may ra thì thấy...
Không cố ý. Maigret lấy những hòn bi trong túi ra cầm trên tay.
- Các ông nói đúng sự thật đấy chứ?
- Tại sao chúng tôi phải nói dối ông? Nếu phải nộp một khoản tiền phạt, chúng tôi xin sẵn sàng...
- Đến mấy giờ thì các ông về đến nhà?
Hai người có vẻ bối rối nhìn nhau. Hardoin định nói nhưng rồi chính Guillot trả lời.
- Rất muộn... Khoảng một giờ sáng...
- Quán cà phê ở phố Turenne mở cửa đến mấy giờ?
Maigret biết rõ quán này đóng cửa vào mười hai giờ đêm.
- Không, chúng tôi còn đi uống với nhau cốc cuối cùng ở Quảng trường Cộng Hoà...
- Cả hai đều say ư?
- Ông biết rồi đấy. Người ta uống vì quá xúc động. Một cốc... Rồi một cốc nữa...
- Các ông không quay lại sông Seine nữa chứ?
Guillot có vẻ ngạc nhiên, nhìn người bạn như muốn nói thay anh ta.
- Không! Quay lại đấy làm gì?
Maigret quay sang Lapointe:
- Dẫn họ sang phòng bên và ghi lại những lời khai. Xin cảm ơn các ông. Tôi không cần nói thêm, mọi lời nói của các ông đều được kiểm tra lại.
- Tôi xin thề là tôi nói đúng sự thật.
- Tôi... tôi... cũng vậy...
Còn lại một mình trong văn phòng, Mnigret ra đứng trước cửa sổ, cầm những hòn bi trên tay. Ông mơ màng nhìn nước sông Seine đang chảy dưới những rặng cây. Tàu bè ngược xuôi, những áo dài trắng của phụ nữ thấp thoáng trên cầu Saint-Michel.
Cuối cùng thì ông ngồi vào bàn giấy và gọi điện cho Bệnh viện Thượng đế.
- Cho tôi gặp bà y tá trưởng của khoa giải phẫu...
Đã biết Maigret là ai và đã được những lời căn dặn của giáo sư, giọng bà này ngọt xớt:
- Tôi vừa định gọi điện thoại cho ông, thưa ông cảnh sát trưởng. Giáo sư Magnin vừa khám bệnh cho người ấy. Giáo sư thấy bệnh nhân khá hơn đêm trước và không muốn ông ta bị quấy rầy. Thật là kỳ diệu.
- Ông ấy đã tỉnh lại ư?
- Không hoàn toàn như vậy, nhưng ông ta đã chăm chú nhìn xung quanh. Rất khó biết ông ta có biết mình đã bị nạn và đang nằm ở đâu không.
- Ông ấy vẫn phải băng bó ư?
- Trên mặt thì không...
- Bà có cho rằng ông ấy sẽ tỉnh lại chứ?
- Cái đó có thể xảy ra vào lúc này, lúc khác. Ông có muốn tôi báo tin khi ông ta nói được không?
- Không... Tôi sẽ tới...
- Ngay bây giờ ư?
Bây giờ. Phải. Ông nóng lòng làm quen với con người đầu còn quấn băng. Đi qua văn phòng thanh tra, nơi Lapointe đang đánh máy bản lời khai của nhân viên bảo hiểm và người bạn nói lắp của anh ta.
- Tôi đến Bệnh viện Thượng đế,.. Chưa biết lúc nào trở về...
Chỉ cách đây có hai bước chân. Miệng ngậm tẩu, tay chắp sau lưng, óc suy nghĩ miên man, Maigret lững thững đi.
Khi tới bệnh viện, ông thấy Léa béo phị trong chiếc áo màu hồng từ phòng thường trực đi ra với vẻ thất vọng. Mụ vội vàng chạy đến gặp ông.
- Ông biết không, ông cảnh sát trưởng, người ta không những không cho tôi gặp ông ấy mà còn không cho tôi biết tin tức nữa. Chỉ còn việc không gọi một cảnh sát tống tôi đi khỏi đây thôi. Ông có tin tức gì về ông ấy không?
- Người ta vừa báo tin ông ta đã khá hơn.
- Có hy vọng là ông ấy sẽ bình phục không?
- Có thể.
- Ông ấy có đau đớn lắm không?
- Tôi cho rằng ông ta không nhận ra cái đó... Chắc hẳn người ta đã tiêm cho ông ta.
- Hôm qua có những người vận thường phục đến lấy đồ đạc của thầy thuốc đi. Có phải đấy là những người của ông không?
Ông gật đầu và nói thêm:
- Không nên lo ngại... Mọi việc sẽ ổn thôi...
- Ông có biết tại sao người ta làm như vậy không?
- Còn chị?
- Đã sống ở bến cảng mười lăm năm, đây là lần đầu tiên tôi thấy người ta muốn giết một kẻ lang thang. Trước hết, chúng tôi là người vô hại, ông phải biết rõ hơn những người khác chứ...
Câu nói ấy làm ông hài lòng và mụ nói tiếp:
- Vô hại... Cũng không bao giờ họ cãi đánh nhau nữa... Mỗi người tôn trọng sự tự do của người khác... Nếu không như vậy thì tại sao họ lại ngủ dưới gầm cầu?
Ông nhìn mụ chăm chú hơn, mắt mụ đỏ lên, da mặt sáng hơn hôm trước.
- Chị đã uống rượu ư?
- Chỉ để xua đuổi sự buồn rầu thôi.
- Bạn bè của chị nói thế nào?
- Họ không nói gì cả... Khi đã nhìn thấy tất cả thì họ không bàn tán lung tung nữa...
Khi Maigret sắp bước qua cửa, mụ ta hỏi ông: - Khi ra về, ông cho tôi biết tin về thầy thuốc chứ?
- Tôi sẽ ở trong ấy lâu đấy...
- Không sao. Ở đây cũng như ở chỗ khác thôi. Mụ có phần vui vẻ, cười với nụ cười con trẻ.
- Ông có thuốc lá không?
Maigret đưa ra chiếc tẩu.
- Xin ông một nhúm thuốc vậy, thay vì hút, tôi nhai.
Ông vào thang máy cùng một người nằm trên cáng và hai nữ y tá. Lên đến lầu ba, ông thấy bà y tá trưởng từ trong một căn phòng đi ra.
- Ông đã biết chỗ rồi đấy. Lát nữa tôi sẽ gặp ông. Người ta vừa bấm chuông gọi tôi đến phòng cấp cứu.
Những cặp mắt của bệnh nhân theo dõi Maigret như hôm trước. Có vẻ như người ta đã biết ông là ai. Tay cầm mũ, ông đến thẳng giường của bác sĩ Keller và thấy trên mặt người này chỉ còn vài mảnh băng dính.
Hôm qua người ta đã cạo mặt cho ông ta nên trông ông rất giống người trong ảnh. Trên mặt có những vết nhăn sâu, nước da tai tái, môi mỏng và thâm. Cái làm cho Maigret ngạc nhiên là cái nhìn của Keller.
Vì ông không nghi ngờ gì: Thầy thuốc đang nhìn ông và đây không phải là cái nhìn của một người mất mọi nhận thức.
Cứ đứng yên thì rất khó chịu. Mặt khác, ông chưa biết nói gì. Có một chiếc ghế bên giường và Maigret ngồi xuống, miệng lẩm bẩm:
- Ông khá hơn rồi chứ?
Đúng là lời nói của ông không rơi vào khoảng trống mà nó đã được nghe và hiểu. Nhưng cặp mắt ấy vẫn chằm chằm nhìn ông.
- Ông có nghe thấy tôi nói không, bác sĩ Keller?
Đây là khởi đầu của một cuộc chiến đấu dài và thất vọng.
Maigret ít khi nói với vợ một vụ án đang trong quá trình điều tra. Ông cũng ít thảo luận với những người cộng tác thân cận mà ông thường cho họ những chỉ dẫn. Đây là cách làm việc của ông, cố gắng tìm hiểu, từng tí một đi sâu vào cuộc sống của những con người mà hôm trước ông vẫn chưa biết họ là ai.
- Ông nghĩ gì, ông Maigret?
Một vị chánh án thường hỏi ông như vậy trước hoặc sau mỗi phiên xét xử.
Ở toà án, ông thường nhắc lại một câu không thay đổi:
- Tôi không nghĩ gì cả, thưa ông chánh án.
Và một người nào đó đã nói:
- Ông ấy đang suy nghĩ...
Đó là câu nói rất chính xác đối với ông, khiến ông im lặng.
Lần này là một ngoại lệ đối với bà Maigret vì bà có chị gái ở Mulhouse. Bà đã giúp ông một tay. Khi ngồi vào bàn, ông báo tin:
- Sáng nay tôi đã làm quen với Keller...
Vợ ông rất ngạc nhiên. Không phải vì ông là người đầu tiên lên tiếng trong bữa ăn mà ông nói với thái độ vui vẻ. Đây không phải là một danh từ chính xác. Ông không phải là người ưa vui nhộn. Ông cũng không có vẻ bồng bột mà trong mắt, trong giọng nói của ông có phần vui vẻ.
Một lần nữa báo chí không thúc bách ông, ông biện lý đã để ông yên. Một kẻ lang thang đã bị tấn công dưới gầm cầu Marie và bị ném xuống sông Seine đang chảy xiết. Nhưng người ấy đã được giáo sư Magnin cứu sống một cách kỳ diệu.
Tóm lại, đây là một tội ác không có nạn nhân, cũng có thể nói không có kẻ giết người. Và không một ai lo lắng cho thầy thuốc trừ mụ Léa và hai ba kẻ lang thang khác.
Và Maigret đã dồn thời gian vào tấm thảm kịch hấp dẫn với cả nước Pháp này. Hình như ông đặt ra một vấn đề cá nhân và với cái cách ông báo tin về cuộc gặp Keller, người ta có thể cho rằng ông đang nói với người khác chứ không phải là vợ ông.
- Ông ấy đã tỉnh lại chưa?
Bà Maigret hỏi tránh để lộ ra sự quan tâm của mình.
- Đã và chưa. Ông ta không nói một câu nào cả. Ông ta chỉ nhìn tôi, nhưng tôi tin rằng ông ta không bỏ sót một lời nào của tôi. Bà y tá trưởng không đồng ý với tôi. Ông ta còn bị tác động của thuốc ngủ và đang ở trong trạng thái của một võ sĩ quyền Anh đứng lên sau một cú bị đo ván.
Ông vừa ăn, vừa nhìn ra cửa sổ nghe tiếng chim hót.
- Ông có cảm giác rằng ông ấy biết kẻ tấn công mình không?
Maigret thở dài rồi mỉm cười, một nụ cười tự chế giễu mình.
- Tôi không biết... Tôi rất khó trong việc diễn đạt cảm giác của mình.
Ít khi ông cảm thấy mất phương hướng như sáng nay ở Bệnh viện Thượng đế cùng lúc nhận ra đây là vấn đề rất hấp dẫn.
Những điều kiện cho cuộc gặp không mấy thích hợp. Trong phòng bệnh có một tá bệnh nhân nằm trên giường, một số đứng tựa cửa sổ, tiếng chuông réo liên hồi và một cô y tá đi từ giường này sang giường khác.
Mọi người tò mò nhìn ông cảnh sát trưởng ngồi bên Keller đang chú ý lắng nghe.
Thỉnh thoảng bà y tá trưởng lại gần nhìn hai người với vẻ lo ngại và không đồng ý.
- Ông không nên ở đây lâu. Tránh làm cho ông ta mệt mỏi.
Maigret cúi xuống nói nhỏ với người bệnh:
- Ông có nghe thấy tôi nói không, ông Keller... Ông có nhớ chuyện gì đã xảy ra với ông đêm hôm thứ hai vừa rồi trong lúc ông đang ngủ ở gầm cầu Marie không?
Người bị thương không động đậy, nhưng viên cảnh sát trưởng chỉ chú ý đến đôi mắt của ông ta.
Đó là cặp mắt màu xám nhạt đã nhìn nhiều và hình như đã bị hư hại.
- Ông bị người ta đánh trong khi ông đang ngủ ư?
Cái nhìn của thầy thuốc không rời khỏi ông và đã có một điều lạ lùng: không phải là Maigret đang điều tra Keller, mà chính người này đang điều tra người đang nói chuyện với mình.
Cái cảm giác đó rất khó chịu khiến viên cảnh sát trưởng phải tự giới thiệu:
- Tôi là Maigret... Tôi lãnh đạo đội cảnh sát hình sự của sở... Tôi đang tìm hiểu là đã có chuyện gì xảy ra với ông... Tôi đã gặp vợ ông, con gái ông, những thuỷ thủ đã vớt ông từ sông Seine lên...
Thầy thuốc không động lòng khi người ta nói đến vợ và con gái mình, nhưng người ta thấy một vẻ giễu cợt trong cặp đồng tử của ông ta.
- Ông không thể nói được ư?
Ông ta cố gắng trả lời bằng cái gật đầu rất nhẹ, nhưng không hề chớp mắt.
Phải, Maigret tin rằng mình không nhầm lẫn. Không phải là Keller không hiểu, ông ta đã không bỏ qua một câu hỏi nào của người cảnh sát.
- Việc tôi hỏi chuyện ông trong một phòng có nhiều bệnh nhân thế này có làm ông khó chịu không?
Để làm yên tâm kẻ lang thang, ông giải thích:
- Tôi muốn ông có một phòng riêng... Cái đó đặt ra cho bệnh viện nhiều vấn đề phức tạp. Chúng tôi cũng không thể lấy tiền của cơ quan để thanh toán cho ông được...
Tuy nhiên cái đó rất dễ dàng nếu Keller là kẻ giết người, hoặc đơn giản hơn là một kẻ bị tình nghi. Đối với nạn nhân thì chưa có chính sách nào cả.
- Tôi buộc phải gọi vợ ông đến, rất cần thiết để bà ta nhận diện ông... Gặp lại vợ, ông có phiền lòng không?
Môi ông ta hơi động đậy nhưng không thoát ra một lời nào kể cả cái nhăn mặt hay một nụ cười.
- Tôi gọi bà ta đến vào sáng nay được không?
Người bệnh không phản đối, và nhân cơ hội này Maigret nghỉ một lát. Trời đã trở nên nóng nực. Trong phòng ngột ngạt hơi người và mùi thuốc.
- Tôi có thể gọi điện thoại được không?
Ông hỏi bà y tá trưởng.
- Ông còn muốn làm khổ ông ấy nữa ư?
- Vợ ông ta cần nhận diện chồng... Cái đó chỉ mất một vài phút đồng hồ thôi...
Tất cả những cái đó ông đều đem kể lại với bà Maigret khi ông đứng bên cửa sổ.
- Lúc ấy bà ta đang ở nhà và hứa sẽ tới ngay lập tức. Tôi dặn bộ phận thường trực để người ta cho bà vào. Sau đó, đang đi dạo ở hành lang thì giáo sư Magnin tới gặp tôi...
Cả hai người đứng trước cửa sổ quay ra vườn để trò chuyện.
- Ông có cho rằng ông ta đã tỉnh táo hoàn toàn chưa?
Maigret hỏi.
- Có thể. Tôi vừa khám cho ông ấy, ông ấy cho tôi cái cảm giác là ông biết tất cả những gì diễn ra xung quanh. Nhưng về mặt y học mà nói thì tôi chưa thể khẳng định được điều này. Những người như vậy không thể trả lời được mọi câu hỏi của chúng ta... Hầu hết thời gian, người ấy phải mò mẫm. Tôi đã yêu cầu một bác sĩ khoa thần kinh chiều nay tới khám cho ông ấy...
- Tôi cho rằng khó có một phòng riêng cho ông ta, đúng không?
- Không chỉ khó mà là không thể. Các phòng đều chật ních bệnh nhân. Nhiều khoa phải kê giường bệnh ra ngoài hành lang... Chỉ có thể cho ông ấy vào một bệnh viện tư nhân...
- Nếu vợ ông ta yêu cầu thì sao?
- Ông cho rằng làm như vậy ông ấy sẽ hài lòng ư?
Rất có thể. Nếu Keller đã chọn cuộc sống dưới gầm cầu thì tại sao lại chịu để người ta tìm ra mình và sống nhờ vào vợ?
Bà Keller vừa ra khỏi thang máy đang nhìn xung quanh. Maigret tới đón bà ta.
- Ông ấy thế nào rồi?
Bà ta không lo lắng, không cảm động. Người ta cho rằng đây không phải là chỗ của bà và bà muốn nhanh chóng trở về nhà ở đảo Saint-Louis với đàn vẹt của mình.
- Ông ta đã nằm yên rồi...
- Ông ấy có nhận ra mọi người không?
- Tôi cho là như vậy...
-Tôi có cần nói chuyện với ông ấy không?
Maigret dẫn bà ta vào phòng bệnh và mọi bênh nhân nhìn bà ta bước trên sàn gỗ đánh si. Về phần mình, bà đưa mắt tìm chồng rồi tự động đến bên giường số năm, cách hai ba mét thì dừng lại như đang không biết đối xử ra sao nữa.
Keller đã trông thấy vợ và đang nhìn bà ta nhưng vẫn không hề nhúc nhích.
- Bà có nhận ra ông ta không?
- Đúng là ông ấy, phải... Ông ấy đã thay đổi, nhưng đúng là ông ấy...
Lại yên lặng, một sự yên lặng khó chịu đối với mọi người. Tuy không mấy can đảm nhưng bà ta đã quyết định tiến lên. Tay đeo găng đập đập vào miệng túi xách tay, bà ta nói:
- Tôi đây, Francois... Không ngờ rằng tôi lại gặp ông trong hoàn cảnh như thế này... Hình như ông bình phục rất nhanh... Tôi muốn giúp ông...
Ông ta đang nghĩ gì khi nhìn vợ như vậy? Đã mười bảy hoặc mười tám năm nay ông ta sống trong một môi trường khác hẳn. Hình như ông đã nổi lên khỏi mặt nước để tìm lại trước mặt mình một quá khứ mà ông đã lẩn trốn.
Người ta không đọc thấy vẻ cay đắng trên nét mặt Keller. Ông ta nhìn người đang đứng trước mắt ngày xưa vốn là vợ mình rồi nhẹ nhàng đưa mắt để tin chắc Maigret hãy còn đứng đấy.
Bây giờ thì ông cảnh sát trưởng nói với bà Maigret:
- Tôi thề rằng ông ta đã yêu cầu tôi kết thúc nhanh cuộc chạm trán này...
- Ông nói như ông quen ông ấy từ lâu rồi...
Có đúng không? Trước đó Maigret không hề gặp Keller, nhưng trong đời mình ông đã gặp bao nhiêu người giống ông ta không có điều kiện nói rõ đời tư của mình trong văn phòng cảnh sát trưởng? Có thể đây là trường hợp đặc biệt, tuy vấn đề con người thì không như vậy.
- Bà ta không nài nỉ để ở lại - Ông nói tiếp - Trước khi bỏ đi bà ta mở túi xách tay để lấy tiền. May mắn là bà ta đã kịp dừng lại... Trong hành lang bà ta hỏi tôi:
- Ông cho rằng ông ấy không thiếu gì chứ?
Khi tôi trả lời là “không' thì bà ta nói thêm:
-Tôi muốn gửi ông giám đốc bệnh viện một số tiền có được không? Ông ấy sẽ dễ chịu hơn khi nằm trong một phòng riêng.
- Ở đây các phòng đều có rất nhiều người bệnh rồi...
Bà ta tỏ vẻ băn khoăn.
- Bây giờ tôi phải làm gì?
- Lúc này thì chưa... Tôi sẽ cử một thanh tra tới để bà ký vào tờ giấy xác nhận đây chính là chồng bà...
- Để làm gì, vì đây chính là ông ấy rồi...
Nói xong bà ta bỏ đi...
Ông bà Maigret đang ngồi trước tách cà phê. Maigret châm một tẩu thuốc.
- Sau đó ông quay lại phòng bệnh ư?
- Phải... Trước cặp mắt chê trách của bà y tá trưởng ông đã trở thành kẻ thù của bà này.
- Ông ta vẫn không nói ư?
- Không... Tôi nói một mình, nói rất nhỏ trong khi một y tá đang săn sóc người bệnh ở giường bên...
- Ông đã nói những gì?
Đối với bà Maigret việc chuyện trò trước hai tách cà phê thật là hãn hữu. Thông thường bà chỉ cần biết chồng bà đang điều tra vụ nào. Ông thường gọi điện thoại về báo tin không ăn ở nhà và hầu hết nhờ vào báo chí bà biết rõ hơn công việc của ông.
- Tôi không nhớ hết những điều tôi đã nói với ông ta. Ông trả lời với vẻ bối rối. Tôi muốn ông ta tin tôi... Tôi nói với ông ta về mụ Léa đang đợi tin tức bên ngoài, việc chúng tôi đã cất đồ đạc của ông vào một nơi chắc chắn và ông ta sẽ nhận lại khi xuất viện.. Cái đó làm ông ta có vẻ hài lòng.
- Tôi cũng nói với ông ta rằng ông sẽ không gặp bà vợ nữa nếu ông không muốn, rằng bà ấy muốn trả tiền để có một phòng riêng cho ông nhưng bệnh viện không thể đáp ứng...
- Tôi kể về nhà nghỉ ở nông thôn của chúng ta... rồi hỏi:
- Tôi cho rằng ông muốn điều trị bệnh tại đây hơn là nằm ở bệnh viện tư nhân, đúng không?
- Ông ta vẫn không trả lời ư?
- Tôi biết làm như vậy là ngu ngốc nhưng tôi tin rằng chúng tôi đã hiểu nhau... Tôi gợi lại câu chuyện ông ta bị tấn công.
- Lúc ấy ông đang ngủ ư?
Như là trò chơi mèo đuổi chuột... Tôi biết ông ta đã quyết định không trả lời... Một người muốn sống lâu dài dưới gầm cầu thì phải biết im lặng...
- Vậy tại sao ông ta lại im lặng?
- Tôi không biết.
- Để tránh việc tố cáo một người nào đó ư?
- Có thể là như vậy.
- Người đó là ai.
Maigret đứng dậy và nhún vai.
- Nếu biết thì tôi đã là một bậc thánh rồi... Tôi muốn trả lời bà như giáo sư Magnin: Tôi cũng vậy, tôi không làm những việc thần kỳ.
- Tóm lại, ông không biết thêm được điều gì đúng không?
- Đúng thế.
Điều này là không chính xác. Ông đã biết thêm nhiều điều về thầy thuốc. Giữa họ đã có những quan hệ chốc lát, bí mật.
- Đến một lúc...
Ông ngập ngừng trong khi nói tiếp sợ bị bà chê trách là trẻ con. Mặc kệ, ông cần nói.
- Đến một lúc, tôi lấy những hòn bi trong túi ra... Đúng ra tôi chỉ làm việc này một cách ngẫu nhiên thôi... Rồi tôi đặt chúng vào tay ông... Tôi có vẻ kỳ cục... Thế là ông ta không nhìn tôi nữa... Ông ta biết cái gì trong tay mình... Tôi biết tại sao người nữ y tá có mặt tại đấy nói rằng trong mắt của ông ta ánh lên một tia vui vẻ và tinh nghịch...
- Nhưng ông ta vẫn tiếp tục im lặng chứ?
- Đây là một việc khác hẳn... Ông ta không giúp tôi... Ông ta quyết định không giúp tôi, không nói gì cả và ông ta muốn tự tôi tìm ra sự thật...
Sự thách đố đó có kích thích ông không? Ít khi bà Maigret thấy chồng vui vẻ, say mê trong một cuộc điều tra như vậy.
- Trở ra tôi gặp mụ Léa đang chờ tôi ở vỉa hè, miệng nhai thuốc lá và tôi cho mụ ta tất cả số thuốc còn lại trong túi thuốc...
- Ông cho rằng mụ ta cũng không biết gì hơn chứ?
- Nếu biết thì mụ ta đã nói rồi... Giữa họ có một sự gắn bó hơn cả đối với người thân trong gia đình... Tôi tin rằng lúc này họ đang hỏi nhau để tiến hành một cuộc điều tra nhỏ song song với cuộc điều tra của tôi...
- Thực ra mụ Léa đã cho tôi biết một điều thú vị, đó là Keller chỉ ngủ ở gầm cầu Marie và ở khu phố ấy trong hai năm trở lại đây thôi...
- Thế trước kia ông ta sống ở đâu?
- Cũng bên bờ sông Seine thôi nhưng ở dưới gầm cầu Bercy trên cảng Rapée...
- Những kẻ lang thang thường thay đổi chỗ ở như vậy, đúng không?
- Không phải. Cái đó cũng quan trọng như chúng ta di chuyển chỗ ở... Mỗi người trong bọn họ thu xếp một góc cho mình và ở đó càng lâu càng tốt...
Ông kết thúc cuộc nói chuyện bằng cách tự thưởng cho mình một cốc rượu táo. Sau đó ông lấy mũ và hôn bà Maigret.
- Chiều nay gặp lại.
- Ông tin rằng mình sẽ trở về dùng bữa chiều ở nhà ư?
Ông không biết gì hơn bà. Nói đúng ra ông chưa biết những việc mình sẽ phải làm là gì.
***
Torrence để cả buổi sáng để kiểm tra lại những lời khai của người nhân viên bảo hiểm và người bạn nói lắp của anh ta. Anh đã đến gặp bà Goulet, người gác cổng ở phố Turenne, người chủ quán rượu ở góc phố Frans-Bourgeois.
Người ta phải xác minh câu chuyện con Nestor là có thật hay là bịa ra. Và nếu nó có thật thì cái đó chứng tỏ hai người này không tấn công thầy thuốc.
Nhưng ai là người muốn giết thầy thuốc và vì lý do gì thì cho đến lúc này viên cảnh sát trưởng vẫn chưa rõ.
Người ấy có thể là bà Keller không? Nhưng vì lý do gì và do ai thực hiện?
Một lần có một ông già không có chút tài sản nào bị giết chết một cách rất bí mật, Maigret đã nói với ông chánh án:
- Người ta không giết những người khốn khổ...
Người ta cũng không giết những kẻ lang thang. Nhưng rõ ràng là người ta muốn loại bỏ Keller.
Khi đứng ở bến xe buýt, nghe thấy tiếng thì thào của hai người đang yêu nhau, thì một ý nghĩ nẩy ra trong óc ông. Đó là khái niệm "con người khốn khổ" làm ông phải suy nghĩ.
Khi trở về văn phòng, Maigret gọi điện thoại cho bà Keller. Bà ta không ở nhà. Người hầu nói là bà đã vào thành phố dùng bữa với một người bạn, nhưng cô ta không biết tên khách sạn.
Ông bèn gọi cho Jacqueline Rousselet.
- Hình như ông đã gặp mẹ tôi... Bà đã gọi điện thoại cho tôi sau khi ông tới thăm vào chiều hôm qua. Trước đây một tiếng đồng hồ bà cũng gọi lại... Như vậy đúng là cha tôi rồi, phải không?
- Căn cước của ông ta không có điều gì phải nghi ngờ nữa...
- Ông có biết tại sao người ta muốn giết cha tôi không? Có phải đây là kết quả của một vụ cãi đánh nhau không?
- Cha bà có hay gây gổ không?
- Đó là con người rất hiền lành. Trong thời gian sống với ông tôi thấy ông không hề cãi đánh nhau với ai cả...
- Bà có biết những việc làm của bà thân sinh ra bà không?
- Những việc làm loại nào?
- Khi kết hôn, bà ta không có chút của cải nào và không đợi một ngày nọ... Cha bà cũng vậy... Trong điều kiện ấy thì người ta không nghĩ đến phải có một hợp đồng... Trong trường hợp ngược lại thì người ta theo chế độ cộng đồng tài sản, tức là cha bà có quyền hưởng một nửa tài sản hiện nay của mẹ bà...
- Đây không thuộc trường hợp ấy...
Cô ta trả lời không ngập ngừng.
- Bà tin chắc chứ?
- Mẹ tôi sẽ xác nhận với ông... Khi lấy chồng, tôi đến gặp ông chưởng khế... Cha mẹ tôi lấy nhau theo chế độ tài sản riêng rẽ...
- Ông chưởng khế ấy là ai?
- Luật sư Prijean ở phố Bassamo...
- Xin cảm ơn bà.
- Ông có muốn tôi tới bệnh viện không?
- Còn bà thì thế nào?
- Tôi không tin chắc việc đến thăm của tôi sẽ làm cha tôi hài lòng... Cha tôi đã không nói gì với mẹ tôi cả... Ông làm ra vẻ không quen biết...
- Có thể. Như thế có khi lại tốt hơn. Lúc này nên tránh cái đó...
Ông gọi cho luật sư Prijean. Ông phải thương lượng rất lâu và phải đe dọa là ông chánh án sẽ ký một giấy mời ông ta đến để thẩm vấn thì ông ta mới thôi nêu nguyên tắc bí mật nghề nghiệp với viên cảnh sát trưởng.
- Tôi chỉ hỏi ông, có đúng là vợ chồng nhà Keller ở Muklhouse lấy nhau theo chế độ riêng rẽ về tài sản không và ông có tờ hợp đồng ấy trong tay không...
Cái đó kết thúc gọn lỏn trong một tiếng "đúng" và ống nói đã bị gác.
Như vậy Francois Keller đúng là một con người khốn khổ, không có một chút quyền nào về số gia tài của người buôn sắt cũ và ông ta đã thất bại trước người vợ.
***
Nhân viên tổng đài ngạc nhiên khi ông cảnh sát trưởng yêu cầu:
- Cho tôi số máy âu thuyền Suresnes...
- Âu thuyền ư?
Âu thuyền, đúng. Ở đấy họ có máy điện thoại không?
- Có, thưa sếp...
Ông đã có người phụ trách âu thuyền ở đầu dây. Ông xưng tên rồi nói:
- Tôi cho rằng anh ghi chép đầy đủ giờ giấc đến và đi của tàu bè giữa hai âu thuyền trên đoạn sông mình phụ trách, đúng không? Tôi muốn biết chiếc sà lan chạy máy đã qua âu thuyền của anh lúc chiều hôm qua... Nó có cái tên flamang De Zutarrte Zuaan.
- Tôi biết, vâng... Hai anh em trai, một người vợ nhỏ bé tóc vàng và một đứa bé... Họ đã qua đây vào ban đêm...
- Anh có biết hiện nay chiếc sà lan đó đang ở đâu không?
- Xin đợi một lát... Đầu máy đi-ơ-zel rất tốt và họ lợi dụng nước xuôi dòng...
Người ta nghe thấy tiếng anh ta làm các con tính qua tên các thành phố làng mạc.
- Hoặc tôi nhầm lẫn hoặc nó đã đi được hơn trăm ki-lô-mét và đã tới vùng Juziers... Cũng có thể nó đã đến Poissy... Cái đó tuỳ thuộc vào các âu thuyền ở Bougival và ở Carriere...
Một lát sau ông cảnh sát trưởng vào văn phòng thanh tra.
- Ở đây có anh nào biết rõ sông Seine không?
Một tiếng hỏi lại:
-Trên thượng lưu hay dưới hạ lưu?
- Hạ lưu... Vùng Poissy, có thể là xa hơn...
- Tôi... Tôi từng có một con tàu nhỏ và hàng năm vào dịp nghỉ hè tôi đã đi tới Havre... Tôi biết rõ vùng Poissy vì tôi đã cho tàu đậu ở đó...
Đây là Neveu, một thanh tra cảnh sát, con một gia đình tiểu chủ mà Maigret không biết anh ta ưa môn thể thao này.
- Anh ra ngoài sân lấy một chiếc xe... Anh chở tôi đi...
Viên cảnh sát trưởng phải nán lại vì Torrence bước vào báo cáo kết quả điều tra của mình. Anh xác nhận:
- Đúng là con chó đã chết đêm thứ hai. Bà Guillot còn khóc khi thuật lại câu chuyện... Hai người đàn ông đã cho chó vào cốp xe để ném nó xuống sông Seine... Sau đó trước lúc nửa đêm họ vào một quán cà phê ở phố Turrenne... Họ đến trước lúc quán đóng cửa...
- Lúc ấy là mấy giờ?
- Sau mười một rưỡi đêm... Hai người chơi bài đã ra về và chủ quán sắp sửa đóng cửa.. Bà Guiliot cùng xác nhận chồng bà ta về muộn, không biết lúc ấy là mấy giờ vì bà đã đi ngủ còn anh ta thì đang say khướt...
Maigret đã đến ngồi bên Neuveu và chiếc xe chạy về phía cửa ô Asnieres...
- Người ta không thể đi dọc sông Seine vì có âu thuyền ở Poissy...
Viên thanh tra giải thích.
- Vì Poissy là một âu thuyền lớn...
Người ta bắt đầu thấy những chiếc xe không mui và một số người lái quàng vai người bạn gái ngồi bên. Phía xa có những người đang trồng hoa trong vườn. Một vài phụ nữ mặc áo màu xanh sáng đang cho gà ăn.
Mắt lim dim, Maigret ngắm cảnh đồng quê và mỗi lần sông Seine lướt qua Neuveu nói tên làng mà xe đang đi qua.
Họ nhìn thấy nhiều tàu bè xuôi ngược trên sông. Chỗ này, một phụ nữ đang giặt quần áo, chỗ kia một người bẻ lái tàu, một đứa trẻ ba bốn tuổi ngồi dưới chân.
Xe dừng lại ở Meulun có nhiều chiếc sà lan đậu lại.
- Sếp nói tên chiếc sà lan đó là gì?
- De Zwarrte Zwaan có nghĩa là thiên nga đen...
Viên thanh tra xuống xe tìm các thuỷ thủ để hỏi chuyện. Từ xa Maigret thấy anh ta đang giơ tay ra hiệu.
- Họ đã qua đây nửa tiếng đồng hồ - Neuveu báo tin và cho xe chạy tiếp. Tốc độ mười ki-lô-mét một giờ thì bây giờ họ đang ở Juziers.
Khi tới Montalet thì họ đã thấy chiếc sà lan nước Bỉ ấy đang xuôi dòng.
Chạy thêm hai ba trăm mét nữa thì Maigret cho xe dừng lại và đến bên bờ sông. Không sợ là kỳ cục, ông hoa chân múa tay ra hiệu cho chiếc sà lan ấy dừng lại.
Người phụ trách lái sà lan là Hubert, người em trai. Anh ta nhận ra viên cảnh sát trưởng và vào buồng máy hãm bớt máy lại. Một lát sau, Jef Van Houtte gầy gò xuất hiện trên boong tàu, trước tiên là cái đầu, rồi đến mình, sau cùng là toàn thân dong dỏng cao của anh ta.
- Tôi cần nói chuyện với các anh... - Maigret nói to, tay đưa lên miệng làm loa.
Jef Van Houtte ra hiệu là mình chẳng nghe thấy gì cả vì có tiếng máy và Maigret ra hiệu cho anh ta tắt máy đi.
Đang ở giữa cánh đồng. Cách đó chừng một ki-lô-mét người ta nhìn thấy những mái nhà màu đỏ và xám, những bức tường trắng và một trạm bơm xăng cùng tấm biển một quán ăn.
Hubert cho sà lan chạy giật lùi. Người đàn bà trẻ xuất hiện trên boong tàu. Người ta đoán rằng người vợ đang hỏi chuyện người chồng.
Từ xa, người ta thấy hai người thuỷ thủ như đang cãi nhau, Jef Van Houtte chỉ tay vào làng ý nói cho sà lan tới đó còn Hubert thì muốn cho sà lan vào bờ.
Không thể làm khác được, Jef Van Houtte phải ném dây neo thuyền lên bờ và thanh tra cảnh sát Neuveu bắt lấy như một thuỷ thủ lão luyện. Một vài phút sau chiếc sà lan nằm yên trên dòng nước.
- Các ông còn muốn gì nữa?- Jef Van Houtte tức giận kêu lên.
Sà lan còn cách bờ nhiều mét. Anh ta có vẻ không muốn bắc cầu.
- Các ông cho đây là cách bắt một con tàu dừng lại ư? Xảy ra tai nạn thì ai chịu trách nhiệm?
- Tôi cần nói chuyện với anh... - Maigret nói.
- Ông đã nói nhiều chuyện với tôi ở Paris rồi... Tôi chẳng còn chuyện gì để nói với ông cả...
- Trong trường hợp như vậy thì tôi buộc phải mời anh về sở Cảnh sát...
- Thế nào? Tôi phải chở số đá bảng này chạy ngược về Paris ư?
Hubert ra hiệu cho người anh bình tĩnh lại. Chính anh ta là người bắc cầu cho sà lan.
Maigret xuống sà lan và có phần bối rối vì chính ông cũng chưa biết mình sẽ nói chuyện gì với họ.
- Các ông giữ chúng tôi có lâu không?
- Tôi chưa biết.
- Vì chúng tôi không thể nghỉ đêm ở đây, chúng tôi phải đến Mantes trước khi trời tối...
- Vậy thì các anh cứ đi đi...
- Các ông sẽ tới đó gặp chúng tôi ư?
- Nghe thấy không, Neuveu? Anh cứ cho xe chạy tới Mantes. Tôi đi theo sà lan.
- Hubert, chú thấy thế nào?
- Chẳng có cách nào khác, anh Jef Van Houtte... Không nên bực mình với cảnh sát...
Người ta thấy mớ tóc vàng của người phụ nữ trên boong tàu và tiếng khóc của trẻ con trong khoang. Như hôm trước, từ trong bếp tỏa ra mùi thức ăn đang xào nấu.
Tấm ván gỗ dùng làm cầu được kéo lên. Trước khi lên xe, Neuveu cởi dây buộc tàu ném ra xa làm nước bắn tung toé.
- Những câu hỏi của ông là gì, tôi xin nghe ông đây...
Người ta lại nghe thấy tiếng máy đi-ơ-zen nô và tiếng sóng nước va đập vào thân sà lan.
Maigret đứng trên boong tàu, miệng ngậm tẩu thuốc, đang tự hỏi mình sẽ nói gì đây?