Chương 6 CƠN MƯA BẤT TẬN
Mưa tiếp tục tuôn. Mưa lớn, mưa không ngừng, mưa oi nồng đến bốc hơi; một màn mưa rả rích, mưa xối xả, mưa như đài phun dội xuống, liên tục quất vào mắt, chảy thành dòng dưới cổ chân; mưa nhấn chìm mọi cơn mưa khác và mọi ký ức về mưa. Mưa trút hàng cân, hàng tấn, mưa xé toạc khu rừng và xén thân cây như kéo, cạo sạch cỏ, xói thành hầm trong đất và vặt sạch lá trên cây bụi. Mưa biến tay mọi người thành bàn chân khỉ nhăn nheo rúm ró; mưa rơi liên tục như màn kính rắn câng, mưa không bao giờ tạnh.
“Còn xa nữa không, trung úy?”
“Tôi không biết. Một cây số, mười lăm cây, một nghìn cây.”
“Anh không chắc ư?”
“Làm sao tôi chắc được?”
“Tôi không thích cơn mưa này. Nếu chúng ta biết đường đến Vòm Mặt Trời còn bao xa thì tôi sẽ thấy dễ chịu hơn.”
“Đi khoảng một hai tiếng nữa thôi.”
“Anh chắc chứ, trung úy?”
“Tất nhiên rồi.”
“Hay anh chỉ nói dối để chúng tôi yên lòng?”
“Tôi nói dối để các cậu yên lòng đấy. Im đi!”
Hai người đàn ông ngồi bên nhau dưới mưa. Sau lưng họ là hai người khác cũng ướt sũng, mệt mỏi, gục xuống như đất sét chảy nhão.
Trung úy ngước lên. Mặt anh trước kia nâu sạm, giờ bệch bạc vì mưa, và mưa đã gột hết màu sắc trong mắt anh, khiến cặp mắt trở nên trắng dã, cả răng và tóc anh cũng vậy. Cả người anh trắng bệch. Cả bộ quân phục của anh cũng đã bắt đầu bạc phếch đi, hơi ngả xanh vì nấm mốc.
Trung úy cảm thấy mưa tuôn trên má mình. “Đã bao nhiêu triệu năm rồi mưa chưa tạnh trên sao Kim này?”
“Đừng điên thế,” một trong hai người kia nói. “Mưa không bao giờ tạnh trên sao Kim. Trời mưa liên tục. Tôi đã sống ở đây mười năm rồi vậy mà tôi chưa bao giờ thấy một phút hay thậm chí một giây nào trời không mưa như trút.”
“Như sống dưới nước vậy,” trung úy nói, rồi đứng dậy tra súng vào bao. “Thôi, ta nên đi tiếp thôi. Rồi ta sẽ tìm được Vòm Mặt Trời đó.”
“Hoặc ta sẽ không tìm được,” kẻ hoài nghi nói.
“Chỉ còn cách đây chừng một giờ nữa thôi.”
“Giờ thì anh đang dối tôi rồi, trung úy.”
“Không, giờ tôi đang tự dối mình thôi. Đây là một trong những thời điểm ta phải nói dối. Tôi không chịu nổi cảnh này lâu thêm nữa.”
Họ đi dọc đường mòn xuyên rừng, thỉnh thoảng lại nhìn la bàn. Không có phương hướng gì hết, chỉ có phương hướng trên la bàn mà thôi. Bầu trời trên đầu xám xịt, xung quanh là mưa, rừng rậm và một lối mòn, và, xa tít đâu đó sau lưng họ, chiếc phi thuyền họ đã dùng để đến đây và bị rơi. Phi thuyền nơi hai người bạn của họ đang nằm lại, đã chết, nhỏ nước mưa tong tỏng.
Họ đi thành hàng một, không nói gì. Họ đến trước một dòng sông rộng, phẳng lì, nâu đặc, đổ về Biển Độc Nhất mênh mông. Bề mặt sông bị hàng tỉ hạt mưa châm lỗ chỗ.
“Được rồi, Simmons.”
Trung úy gật đầu, Simmons liền lấy từ thắt lưng ra một cái túi nhỏ, túi này, nhờ sức ép từ một hoạt chất được giấu kín, lập tức phồng lên thành một con thuyền lớn. Trung úy ra lệnh chặt cây làm tạm mái chèo, và họ đi xuôi dòng sông, nhanh tay chèo ngang qua mặt sông bằng phẳng dưới làn mưa.
Trung úy cảm thấy mưa rơi lạnh buốt trên má, trên cổ, trên hai cánh tay đang chèo thuyền. Hơi lạnh bắt đầu ngấm vào phổi anh. Anh cảm thấy mưa tuôn trên tai, trên mắt, trên chân mình.
“Đêm qua tôi không ngủ,” anh nói.
“Có ai ngủ được không? Có ai ngủ chút nào không? Khi nào? Chúng ta ngủ được bao nhiêu đêm? Ba mươi đêm, ba mươi ngày! Ai có thể ngủ được khi mưa liên tục gõ trống trên đầu như thế… Tôi sẵn sàng đánh đổi bất kỳ thứ gì để có một cái mũ. Bất kỳ cái gì cũng được, chỉ cần mưa không gõ lên đầu tôi nữa. Tôi bị đau đầu. Đầu tôi nhức lắm; lúc nào cũng đau.”
“Tôi rất hối hận vì đã đến Trung Quốc,” một người khác nói.
“Lần đầu tiên tôi nghe sao Kim được gọi là Trung Quốc đấy.”
“Chắc chắn rồi, Trung Quốc. Trò Thủy trị liệu của Trung Quốc. Có nhớ trò tra tấn kinh điển đó không? Trói ta vào tường. Cứ nửa tiếng lại nhỏ một giọt nước lên đầu ta. Ta phát điên khi đợi giọt tiếp theo nhỏ xuống. Sao Kim là thế đấy, chỉ trên phạm vi rộng hơn thôi. Chúng ta không sinh ra để chịu nước. Ta không ngủ được, không hít thở được, và phát rồ vì bị ướt. Giá có chuẩn bị cho vụ tàu rơi thì chúng ta đã đem theo đồng phục và mũ chống nước rồi. Chính những hạt mưa liên tục rơi lên đầu đã làm chúng ta kiệt quệ. Mưa quá to. Như là đạn ghém ấy. Tôi không biết mình còn chịu được bao lâu nữa.”
“Các cậu à, tôi chỉ muốn đến Vòm Mặt Trời thôi! Người phát minh ra chúng quả là đại tài.”
Họ đi qua sông, vừa đi vừa nghĩ tới Vòm Mặt Trời, đâu đó trước mặt họ, rực sáng giữa màn mưa rừng rậm. Một ngôi nhà màu vàng, tròn và sáng như mặt trời. Một ngôi nhà cao bốn mét rưỡi, đường kính ba mươi mét, bên trong là hơi ấm, sự tĩnh lặng, thức ăn nóng, và sự giải thoát khỏi cơn mưa. Và giữa Vòm Mặt Trời, tất nhiên, chính là một mặt trời. Một quả cầu lửa nhỏ lơ lửng giữa không gian trên đỉnh tòa nhà, để ta có thể ngắm nó từ nơi ta ngồi hút thuốc hoặc đọc sách hoặc uống ca cao nóng rắc kẹo xốp. Nó sẽ ở đó, vầng mặt trời vàng rực, đúng kích cỡ của mặt trời ở Trái đất, ấm áp và trường tồn, và thế giới đầy mưa của sao Kim sẽ bị quên lãng chừng nào họ còn ăn không ngồi rồi trong ngôi nhà đó.
Trung úy quay lại nhìn ba người đang nghiến răng chèo thuyền. Họ trắng như nấm, trắng như những lời dối trá. Sao Kim đã tẩy hết mọi màu sắc chỉ trong vài tháng. Ngay cả khu rừng cũng là một cơn ác mộng hoạt hình khổng lồ, vì làm sao rừng có thể xanh được khi không có mặt trời, khi mưa liên tục rơi và trời lúc nào cũng lờ mờ tối? Khu rừng trắng bệch, với những tán lá bềnh bệch như màu pho mát, đất thì như được khoét ra từ pho mát Camembert ướt, còn những thân cây thì như những cây nấm khổng lồ - tất cả chỉ có màu đen và trắng. Và cũng có mấy lúc ta thấy được mặt đất đâu? Chẳng phải nó chỉ là một con lạch, một dòng suối, một cái vũng, một cái ao, một cái hồ, một con sông, và cuối cùng là biển hay sao?
“Đến nơi rồi!”
Họ ra khỏi thuyền ở bờ bên kia, lội xuống sông làm nước bắn lên tung tóe. Con thuyền được tháo hơi ra cất vào một bao thuốc lá. Rồi, đứng bên bờ sông dưới làn mưa, họ cố châm vài điếu thuốc, và trong khoảng năm phút, họ run rẩy dùng chiếc bật lửa xoay lộn ngược, rồi, tay khum lại, họ chỉ kịp rít được vài hơi thuốc trước khi điếu thuốc mềm nhũn ra quá sức nhanh và bị một luồng mưa bất thần đổ xuống giật khỏi môi họ.
Họ đi tiếp.
“Đợi một phút,” trung úy nói. “Hình như tôi thấy có gì trước mặt.”
“Vòm Mặt Trời ư?”
“Tôi không chắc. Mưa lại che mất rồi.”
Simmons vùng chạy. “Vòm Mặt Trời!”
“Quay lại đây, Simmons!”
“Vòm Mặt Trời!”
Simmons biến mất trong màn mưa. Những người khác chạy theo anh ta.
Họ thấy anh ta giữa một khoảng trống nhỏ, và họ đứng đó, nhìn anh ta và vật mà anh ta đã khám phá ra.
Phi thuyền của họ.
Nó vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Bằng cách nào đó, họ đã vòng ngược lại và quay về đúng chỗ họ đã bắt đầu. Giữa đống đổ nát của phi thuyền, nấm xanh đã mọc lên từ miệng hai người chết. Trước mắt họ, những cây nấm nở hoa, cánh hoa rụng xuống dưới mưa, và cây nấm cũng tàn lụi.
“Sao lại thế được nhỉ?”
“Chắc gần đây có một cơn bão điện từ. Làm hỏng la bàn. Chắc vậy.”
“Cậu nói đúng.”
“Thế giờ chúng ta làm gì đây?”
“Lại đi tiếp.”
“Chúa ơi, chúng ta chẳng đi thêm được bước nào cả!”
“Hãy cố bình tĩnh đi, Simmons.”
“Bình tĩnh, bình tĩnh! Cơn mưa này làm tôi phát điên lên rồi!”
“Nếu ăn dè thì chúng ta vẫn còn đủ thức ăn cho hai ngày nữa.”
Mưa giội lên da, lên bộ đồng phục ướt đẫm của họ; mưa tuôn xuống từ mũi và tai họ, từ ngón tay và đầu gối họ. Nhìn họ như những đài phun nước bằng đá bị đóng băng giữa rừng rậm, nước trào ra từ mọi lổ chân lông.
Và, khi đứng đó, họ bỗng nghe thấy một tiếng gầm từ đằng xa vẳng lại.
Và con quái vật hiện ra giữa màn mưa.
Con quái vật đứng trên một ngàn cái chân điện màu xanh. Nó đi rất nhanh và đáng sợ. Nơi nào một cái chân đặt xuống là một thân cây đổ gục, cháy bùng bùng. Mùi ozone tỏa khắp bầu không khí ẩm ướt, và khói bốc lên rồi bị mưa giội sạch. Con quái vật rộng tám trăm mét, cao một cây số rưỡi, và nó mò mẫm trên mặt đất như một vật mù lòa khổng lồ. Thỉnh thoảng, có lúc nó không còn cái chân nào. Rồi trong nháy mắt, một ngàn tia điện bỗng phun ra từ bụng nó, như những cái roi màu xanh trắng, quật vào nền rừng.
“Cơn bão điện từ kia rồi,” một người nói. “Đó chính là thứ đã phá hỏng la bàn của chúng ta. Và nó đang tiến về phía này.”
“Mọi người nằm xuống,” trung úy nói.
“Chạy đi!” Simmons kêu lên.
“Đừng ngốc thế. Nằm xuống. Nó chỉ đập vào những điểm cao nhất thôi. Chúng ta có thể bò qua mà không hề hấn gì. Nằm xuống cách phi thuyền khoảng mười lăm mét. Rất có thể nó sẽ dồn hết lực vào phi thuyền và để chúng ta yên. Nằm xuống!”
Mọi người nằm rạp xuống.
“Nó đang đến đây phải không?” một lát sau, họ hỏi nhau.
“Đang đến.”
“Gần hơn chưa?”
“Còn cách khoảng hai trăm thước.”
“Gần hơn chưa?”
“Nó kia rồi!”
Con quái vật tiến đến đứng bên trên họ. Nó thả xuống mười tia chớp xanh giáng vào phi thuyền. Phi thuyền lóe lên như một chiếc cồng bị gõ và phát ra một tiếng kim loại ầm vang. Con quái vật thả xuống thêm mười lăm tia chớp nữa, chúng nhảy nhót vòng quanh trong một vũ điệu câm quái dị, mò mẫm trên nền rừng và mặt đất sũng nước.
“Không, không!” Một người nhảy bật dậy.
“Nằm xuống, đồ ngu!” trung úy quát.
“Không!”
Tia chớp giáng vào phi thuyền hơn chục lần nữa. Trung úy đang gối đầu lên cánh tay liền quay lại và thấy những tia chớp xanh lóe lên. Anh thấy những thân cây bị xé toạc và đổ gục. Anh thấy đám mây mù mịt khủng khiếp xoay tít trên đầu như chiếc đĩa đen ngòm và ném xuống hàng trăm tia lửa điện nữa.
Người vừa nhảy bật dậy giờ đang chạy, như một người giữa một đại sảnh mênh mông đầy những cột. Anh ta chạy và luồn lách giữa các cột, rồi cuối cùng một chục cây cột sập xuống và một âm thanh vang lên, như tiếng một con ruồi rơi vào giữa tấm lưới điện của người diệt côn trùng. Trung úy nhớ mình đã từng biết điều đó từ thời thơ ấu ở trang trại nhà mình. Và mùi một con người vừa bị đốt cháy thành than bốc lên nồng nặc.
Trung úy gục đầu xuống. “Đừng ngẩng lên,” anh bảo những người khác. Anh sợ chính mình cũng sắp bỏ chạy.
Cơn bão trên đầu họ lóe lên một loạt chớp nữa rồi rời đi. Chỉ còn lại cơn mưa đang nhanh chóng gột sạch mùi than cháy trong không khí, và trong chốc lát, ba người còn lại ngồi đợi cho nhịp tim mình chậm dần.
Họ đến bên cái xác, nghĩ rằng có lẽ vẫn còn cứu được anh ta. Họ không tin rằng không còn cách nào giúp anh ta nữa. Đó là phản ứng tự nhiên của con người: họ chỉ chịu chấp nhận cái chết khi họ đã chạm vào nó, lật nó lại, và lên kế hoạch chôn cất hoặc để nó lại đây cho rừng rậm chôn vùi dưới lớp cây cỏ chỉ một giờ nữa sẽ mọc dày.
Cái xác chỉ còn là một mớ thép xoắn vặn, bọc trong lớp da cháy khét. Nhìn nó như một hình nộm sáp bị ném vào lò thiêu rồi lôi ra khi sáp đã chảy xuống quanh lớp xương cháy thành than. Duy chỉ hàm răng còn giữ nguyên màu trắng, sáng lên như chiếc vòng tay trắng toát kỳ dị tròng nửa chừng vào một nắm tay đen sì siết chặt.
“Lẽ ra anh ta không nên nhảy lên,” họ nói gần như đồng thanh.
Ngay lúc họ đang đứng bên cái xác, nó bắt đầu biến mất, vì cây cỏ đã bao trùm lấy nó, những dây leo, dây trường xuân và cây bò lan, cả hoa cho người chết nữa.
Ở đằng xa, cơn bão đã rời đi trên những tia chớp xanh và biến mất.
Họ đi qua một con sông, qua một lạch nước, một dòng suối, và hơn chục con sông, lạch và suối khác. Trước mắt họ, các con sông hiện ra, những con sông mới chảy xiết, trong khi những con sông cũ đổi chiều - những con sông màu thủy ngân, những con sông màu sữa và bạc.
Họ đến bên bờ biển.
Biển Độc Nhất. Sao Kim chỉ có một lục địa. Vùng đất này dài năm ngàn cây số, rộng một ngàn rưỡi cây số, và bao quanh hòn đảo đó là Biển Độc Nhất, bao trùm cả hành tinh đầy mưa. Biển Độc Nhất, nằm bên bờ biển mờ nhạt, không chút động tĩnh…
“Đường này.” Trung úy hất đầu về phía Nam.
“Chắc chắn có hai Vòm Mặt Trời phía đó.”
“Sao họ không tiện thể xây thêm cả trăm cái nhỉ?”
“Bây giờ đã có một trăm hai mươi cái rồi, phải không?”
“Tính đến tháng trước là một trăm hai mươi sáu cái. Năm ngoái họ đã cố xin Quốc hội trên Trái đất thông qua một đạo luật để xây thêm vài chục cái nữa, nhưng không được, các cậu biết thế nào rồi đấy. Họ thà để vài người phát điên vì mưa còn hơn.”
Họ đi về phía Nam.
Trung úy và Simmons và người thứ ba, Pickard, đi trong mưa, trong màn mưa rơi lúc nhiều lúc ít, lúc nhiều lúc ít; trong màn mưa liên tục đổ xuống như gõ trống, không ngừng giội lên nền đất, lên mặt biển, lên những người đang bước đi.
Simmons nhìn thấy trước. “Nó kia rồi!”
“Cái gì kia rồi?”
“Vòm Mặt Trời!”
Trung úy chớp mắt gạt nước mưa và đưa tay che bớt những luồng mưa đau nhói.
Đằng xa, cạnh rìa khu rừng, bên bờ biển, là một quầng sáng vàng. Đúng là Vòm Mặt Trời.
Mọi người nhìn nhau mỉm cười.
“Có vẻ anh nói đúng rồi đấy, trung úy.”
“Ăn may thôi.”
“Các cậu này, chỉ nhìn thấy nó thôi tôi cũng đã hăng hái hơn rồi. Đi nào! Người đến cuối cùng sẽ là thằng khốn!” Simmons bắt đầu rảo bước. Những người khác tự động chạy theo anh ta, thở hồng hộc vì mệt nhưng vẫn theo kịp.
“Một bình cà phê thật to cho tôi,” Simmons vừa hổn hển nói vừa mỉm cười. “Và một chảo bánh quế, nhân danh Chúa! Và cứ nằm đó tận hưởng ánh nắng. Người phát minh ra Vòm Mặt Trời đáng được nhận huân chương!”
Họ chạy nhanh hơn. Quầng sáng vàng càng rực rỡ hơn.
“Chắc rất nhiều người đã hóa điên trước khi họ nghĩ ra phương thuốc. Ai cũng tưởng nó đã quá rõ ràng rồi! Họ phải nghĩ ra ngay chứ.” Simmons vừa chạy vừa hô theo nhịp. “Mưa, mưa! Nhiều năm trước. Tôi gặp. Một người bạn. Trong rừng. Đi lang thang. Trong mưa. Nói liên tục, ‘Không đủ hiểu biết, để vào, tránh mưa. Không đủ hiểu biết, để vào, tránh mưa. Không đủ hiểu biết…’ Nói không ngừng. Cứ như thế. Tên điên khốn khổ.”
“Giữ hơi đi!”
Họ chạy.
Họ đều cười to. Họ vừa cười vừa chạy đến bên cửa Vòm Mặt Trời.
Simmons giật cửa ra. “Này!” anh ta reo lên. “Đem cà phê và bánh ra đây!”
Không có ai trả lời.
Họ bước qua cửa.
Vòm Mặt Trời trống không và tối tăm. Không có vầng mặt trời vàng nhân tạo nào thì thầm giữa khối khí trên trần nhà xanh thẳm. Không có thức ăn đang đợi sẵn. Bên trong lạnh như hầm mộ. Và qua hàng ngàn lỗ thủng mới trên trần nhà, mưa đang tuôn xuống, thấm ướt cả tấm thảm dày, những đồ đạc hiện đại nặng nề, bắn cả lên những chiếc bàn kính. Rừng mọc lên trong phòng như rêu, trên các giá sách và đi văng. Mưa giội qua các lỗ thủng bắn lên mặt ba người đàn ông.
Pickard cất tiếng cười khe khẽ.
“Im đi, Pickard!”
“Thánh thần ơi, nhìn xem ở đây có gì cho chúng ta này - không thức ăn, không mặt trời, chẳng gì cả. Bọn người sao Kim, chúng đã gây ra chuyện này! Tất nhiên rồi!”
Simmons gật đầu, mưa tuôn xối xả trên mặt. Nước chảy qua mái tóc bạc và cặp lông mày trắng của anh ta. “Thỉnh thoảng người sao Kim lại từ biển ngoi lên tấn công một Vòm Mặt Trời. Chúng biết nếu chúng phá hoại các Vòm Mặt Trời, chúng có thể hủy hoại chúng ta.”
“Nhưng chẳng phải các Vòm Mặt Trời đều có súng ống bảo vệ sao?”
“Có chứ.” Simmons tránh sang một chỗ còn khá khô. “Nhưng đã năm năm rồi bọn sao Kim chưa giở trò gì. Các hệ thống phòng thủ bị sao nhãng. Chúng đã lợi dụng đúng lúc Vòm này sơ hở.”
“Thế xác mọi người đâu cả rồi?”
“Bọn sao Kim đem họ xuống đáy biển rồi. Tôi nghe nói chúng có cách rất hay để dìm chết một người. Làm theo cách của chúng thì sẽ mất khoảng tám tiếng để dìm chết người. Hay tuyệt.”
“Tôi dám cá ở đây cũng chẳng còn tí thức ăn nào.” Pickard cười.
Trung úy cau mày nhìn anh ta, hất đầu về phía anh ta để Simmons cũng nhìn thấy. Simmons lắc đầu và đi vào một gian bên cạnh căn phòng lớn hình ô van. Gian bếp đầy những ổ bánh mì sũng nước và thịt đã mọc một lớp lông xanh nhạt. Mưa trút xuống qua hàng trăm cái lỗ trên mái bếp.
“Tuyệt thật.” Trung úy ngước lên nhìn những cái lỗ. “Tôi không nghĩ là chúng ta có thể nút những cái lỗ đó lại và sưởi ấm trong này.”
“Mà không có thức ăn sao, sếp?” Simmons khịt mũi. “Tôi thấy cái máy tạo mặt trời đã bị đập nát rồi. Tốt nhất ta đi đến Vòm Mặt Trời tiếp theo thôi. Nó cách đây bao xa nhỉ?”
“Không xa lắm. Theo tôi nhớ thì họ xây hai cái ở đây khá gần nhau. Có lẽ nếu ta đợi ở đây, một đội cứu hộ từ Vòm kia sẽ có thể…”
“Có lẽ họ đã đến và đi từ vài ngày trước rồi. Khoảng sáu tháng nữa họ sẽ cử một đội sửa chữa đến đây, khi họ nhận được tiền của Quốc hội. Tôi không nghĩ là ta nên đợi.”
“Được rồi, vậy ta sẽ ăn phần thức ăn còn lại và đi đến Vòm tiếp theo.”
Pickard nói, “Giá mà mưa đừng giội xuống đầu tôi nữa dù chỉ vài phút thôi. Giá mà tôi có thể nhớ được cảm giác không bị làm phiền là như thế nào.” Anh ta đưa tay lên ôm đầu thật chặt. “Tôi nhớ hồi đi học, một thằng chuyên bắt nạt thường ngồi sau lưng tôi và véo tôi, véo tôi liên tục, cứ năm phút một, suốt cả ngày. Nó làm thế suốt bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng. Tay tôi tấy lên, lúc nào cũng thâm tím. Và tôi cứ nghĩ mình sẽ hóa điên vì bị véo. Một ngày kia, có lẽ tôi đã hóa điên thật vì bị đau, thế là tôi quay lại lấy một cái ke kim loại dùng trong lớp vẽ kỹ thuật và suýt nữa đã giết thằng khốn đó. Tôi suýt nữa đã cắt đứt lìa đầu nó. Tôi suýt nữa đã móc mắt nó trước khi họ lôi tôi ra khỏi phòng, và tôi cứ hét lên, ‘Sao nó không để em yên? Sao nó không để em yên?’ Trời ơi!” Tay anh ta siết lấy hộp sọ, run rẩy bóp chặt, mắt nhắm nghiền. “Nhưng giờ tôi biết làm gì đây? Tôi biết đánh ai, bảo ai để cho tôi yên, đừng làm phiền tôi nữa, cơn mưa chết tiệt này, như những cái véo, lúc nào cũng ở trên da, ta chỉ nghe thấy có thế, cảm thấy có thế!”
“Bốn giờ chiều nay ta sẽ đến Vòm Mặt Trời kia thôi.”
“Vòm Mặt Trời ư? Nhìn cái này xem! Lỡ tất cả các Vòm Mặt Trời trên sao Kim đều đã bị phá hủy thì sao? Khi đó thì sao? Lỡ mọi trần nhà đều thủng lỗ chỗ và mưa cứ tiếp tục đổ xuống thì sao!”
“Chúng ta phải liều thôi.”
“Tôi đã chán việc liều lĩnh lắm rồi. Tôi chỉ muốn một mái nhà và chút yên tĩnh. Tôi muốn được ở một mình.”
“Chỉ còn tám tiếng nữa thôi, cậu cố lên.”
“Đừng lo, tôi sẽ cố mà.” Và Pickard tiếp tục cười mà không nhìn họ.
“Ăn thôi,” Simmons nói, để mắt nhìn anh ta.
Họ đi dọc bờ biển, lại hướng về phía Nam. Bốn tiếng sau, họ phải vòng về phía đất liền để tránh một con sông rộng hơn một cây số chảy xiết đến nỗi không thể đi thuyền qua được. Họ đi sâu vào đất liền hơn chín cây số, đến một nơi dòng sông đột ngột trào ra từ lòng đất như một vết thương chí tử. Họ đi dưới mưa trên nền đất cứng và quay trở lại biển.
“Tôi phải ngủ,” cuối cùng Pickard nói. Anh ta gục xuống. “Đã bốn tuần rồi tôi chưa ngủ. Tôi cố, nhưng không ngủ nổi. Ngủ ở đây thôi.”
Trời đang tối dần. Đêm sao Kim đang hạ xuống, xung quanh tối như mực đến nỗi di chuyển sẽ rất nguy hiểm. Simmons và trung úy cũng khuỵu gối xuống, và trung úy nói, “Được rồi, để xem ta có thể làm gì. Trước kia ta cũng đã thử rồi, nhưng tôi không biết nữa. Có vẻ trong thời tiết này thì không thể ngủ được.”
Họ nằm duỗi dài ra, gối đầu lên cao để nước không tràn vào miệng, và họ nhắm mắt lại.
Người trung úy giật giật.
Anh không ngủ.
Có những thứ đang bò trên da anh. Những thứ đang mọc thành lớp trên người anh. Từng giọt mưa nhỏ xuống, chạm vào những giọt mưa khác, và chúng trở thành những dòng nước trên người anh, và khi những dòng nước này chảy xuống da thịt anh, những thứ cây cỏ của khu rừng bắt rễ trên quần áo anh. Anh cảm thấy dây trường xuân đang bám vào người anh như một bộ quần áo thứ hai; anh cảm thấy những bông hoa nhỏ đơm nụ, nở ra rồi tàn, trong lúc mưa vẫn gõ đều đều lên người, lên đầu anh. Trong màn đêm dạ quang đó - vì các loại cây đều tỏa sáng trong bóng tối - anh có thể thấy hình thù của hai người kia, như hai khúc cây đổ đã được phủ lên một lớp hoa cỏ như nhung. Mưa tạt vào mặt anh. Anh đưa tay lên che mặt. Mưa tạt vào cổ anh. Anh lật mình nằm sấp trên bùn, trên lớp cây dai dẻo, và mưa tạt lên lưng, lên chân anh.
Đột nhiên anh nhảy bật dậy cuống cuồng gạt nước trên người mình. Hàng ngàn bàn tay đang chạm vào anh và anh không muốn bị chạm vào nữa. Anh loạng choạng và đập vào thứ gì đó, và anh biết đó là Simmons đang đứng dậy trong mưa, vừa hắt hơi ra nước vừa ho sặc sụa. Rồi Pickard cũng đứng dậy, kêu thét và vùng chạy.
“Pickard, đợi đã!”
“Thôi đi, thôi đi!” Pickard gào lên. Anh ta rút súng ra bắn sáu phát lên bầu trời đêm. Khi những phát súng lóe lên, họ có thể thấy hàng loạt những hạt mua lơ lửng như nằm giữa một viên hổ phách khổng lồ bất động trong thoáng chốc, như thể bị choáng bởi phát súng, mười lăm tỉ hạt mưa, mười lăm tỉ giọt nước mắt, mười lăm tỉ viên ngọc đặt trên một cái khay phủ nhung trắng. Rồi, khi ánh sáng tắt, những hạt mưa đang đợi để được chụp ảnh, đang tạm dừng cú lao xuống đất của chúng, liền rơi xối xả lên người họ, đau nhói, như một đám mây côn trùng lạnh buốt, nhức nhối.
“Thôi đi! Thôi đi!”
“Pickard!”
Nhưng giờ Pickard chỉ đứng, một mình. Khi trung úy bật một cái đèn cầm tay nhỏ lên chiếu vào khuôn mặt ướt đẫm của Pickard, tròng mắt anh ta đã giãn ra, miệng hé mở, mặt ngửa lên, để nước mưa rơi xuống lưỡi anh ta, đổ ngập cặp mắt trợn tròn của anh ta, sủi bọt tràn vào lỗ mũi anh ta.
“Pickard!”
Anh ta không trả lời. Anh ta cứ đứng đó hồi lâu, trong khi những bong bóng mưa vỡ ra trên mái tóc bạc phếch của anh ta và những sợi xích bằng nước mưa nhỏ xuống từ cổ tay và cổ anh ta.
“Pickard! Chúng tôi lên đường đây. Chúng tôi sẽ đi tiếp. Đi theo chúng tôi.”
Mưa nhỏ xuống từ tai Pickard.
“Cậu có nghe thấy tôi không, Pickard!”
Chẳng khác nào hét xuống một cái giếng.
“Pickard!”
“Để cậu ta yên đi,” Simmons nói.
“Chúng ta không thể đi tiếp mà không có cậu ta.”
“Chúng ta sẽ làm gì đây, cõng cậu ta theo chắc?” Simmons quát. “Cậu ta chẳng có ích gì với chúng ta hay với chính mình nữa rồi. Anh biết cậu ta sẽ làm gì không? Cậu ta sẽ đứng đó và chết đuối.”
“Gì cơ?”
“Giờ anh phải biết rồi chứ. Anh không biết chuyện đó à? Cậu ta sẽ đứng đó, ngửa đầu lên để cho mưa tràn vào mũi và miệng. Cậu ta sẽ hít nước vào.”
“Hồi ấy họ đã tìm thấy tướng Mendt như thế. Ngồi trên một tảng đá, đầu ngửa ra sau, hít mưa vào. Phổi ông ta đầy nước.”
Trung úy lại chiếu đèn vào bộ mặt đờ đẫn kia. Lỗ mũi Pickard phát ra một tiếng rít ươn ướt khe khẽ.
“Pickard!” trung úy tát vào mặt anh ta.
“Cậu ta còn không cảm thấy anh nữa kia,” Simmons nói. “Vài ngày dưới cơn mưa này là ta chẳng còn mặt mũi tay chân gì nữa.”
Trung úy kinh hoàng nhìn xuống tay mình. Anh không còn cảm thấy tay mình nữa.
“Nhưng chúng ta không thể để mặc Pickard lại đây được.”
“Tôi sẽ cho anh thấy chúng ta có thể làm gì.” Simmons nổ súng.
Pickard gục xuống nền đất sũng nước.
Simmons nói, “Đừng nhúc nhích, trung úy. Súng của tôi cũng sẵn sàng cho anh rồi. Nghĩ lại đi; cậu ta sẽ đứng hoặc ngồi đó và chết đuối thôi. Như thế này nhanh hơn.”
Trung úy chớp mắt nhìn cái xác. “Nhưng cậu đã giết cậu ta.”
“Phải, vì nếu không cậu ta sẽ thành gánh nặng và giết cả chúng ta nữa. Anh đã thấy mặt cậu ta rồi đấy. Điên rồi.”
Một lát sau, trung úy gật đầu. “Thôi được.”
Họ đi vào màn mưa.
Trời tối đen, đèn cầm tay của họ hắt ra một tia sáng chỉ chọc thủng màn mưa được vài thước. Sau nửa giờ, họ phải dừng chân ngồi nghỉ qua đêm, bụng quặn đau vì đói, đợi bình minh đến; khi bình minh ló rạng trời vẫn xám xịt và tiếp tục đổ mưa, và họ lại đi tiếp.
“Chúng ta tính nhầm rồi,” Simmons nói.
“Không. Còn một giờ nữa thôi.”
“Nói to lên. Tôi chẳng nghe anh nói gì cả.” Simmons dừng chân mỉm cười. “Chúa ơi,” anh ta vừa nói vừa sờ lên tai. “Tai tôi. Điếc đặc rồi. Cái cơn mưa không dứt này cuối cùng đã khiến tôi tê liệt đến tận xương tủy.”
“Cậu không nghe thấy gì hết sao?” trung úy hỏi.
“Gì cơ?” Mắt Simmons ngơ ngác.
“Không có gì. Đi nào.”
“Tôi nghĩ tôi sẽ đợi ở đây thôi. Anh đi tiếp đi.”
“Cậu không thể làm vậy.”
“Tôi không nghe thấy anh nói gì hết. Anh đi đi. Tôi mệt rồi. Tôi nghĩ Vòm Mặt Trời không nằm ở hướng này đâu. Và, cho dù có đúng thế đi chăng nữa thì có lẽ mái của nó cũng thủng lỗ chỗ như cái vừa rồi. Chắc tôi sẽ cứ ngồi đây thôi.”
“Đứng dậy đi!”
“Tạm biệt, trung úy.”
“Cậu không thể bỏ cuộc bây giờ được.”
“Tôi có một khẩu súng đây, có nghĩa là tôi sẽ ở lại. Tôi chẳng quan tâm gì nữa. Tôi chưa điên, nhưng cũng sắp rồi. Tôi không muốn chết theo cách ấy. Ngay khi anh đi khuất, tôi sẽ tự bắn mình.”
“Simmons!”
“Anh vừa gọi tên tôi. Nhìn miệng anh là tôi đoán được.”
“Simmons.”
“Nghe này, chỉ là vấn đề thời gian thôi. Hoặc tôi chết bây giờ, hoặc vài tiếng nữa. Cứ đợi đến khi anh tới được Vòm tiếp theo, nếu anh tới được đó, và thấy mưa đang trút xuống qua mái nhà. Như thế chẳng tuyệt sao?”
Trung úy đợi, rồi bỏ đi lõm bõm dưới mưa. Anh quay lại một lần và cất tiếng gọi, nhưng Simmons cứ ngồi đó, tay cầm súng, đợi anh đi khuất. Anh ta lắc đầu và vẫy tay bảo trung úy đi tiếp.
Trung úy còn không nghe thấy tiếng súng.
Anh bắt đầu vừa đi vừa ăn những bông hoa dọc đường. Anh nuốt chúng xuống được một phút, chúng không độc; nhưng chúng cũng chẳng bổ béo gì, và khoảng một phút sau, anh lại nôn thốc nôn tháo ra hết.
Một lần anh đã hái mấy chiếc lá để thử làm một cái mũ, nhưng trước kia anh đã thử rồi; mưa làm lá rữa ra tuột khỏi đầu anh. Sau khi bị hái xuống, các thứ cây cỏ ở đây thối rữa rất nhanh và biến thành một đống lầy nhầy xam xám trên ngón tay anh.
“Năm phút nữa thôi,” anh tự nhủ. “Chỉ năm phút nữa, rồi mình sẽ đi xuống biển và cứ đi tiếp. Chúng ta không sinh ra để chịu cảnh này; chưa từng có và sẽ không có người Trái đất nào sống sót được qua cảnh này. Thần kinh của ta, thần kinh của ta.”
Anh loạng choạng lội qua một biển bùn và lá cây và đến một ngọn đồi nhỏ.
Ở đằng xa là một vệt vàng nhàn nhạt giữa màn mưa lạnh lẽo.
Vòm Mặt Trời tiếp theo.
Qua những tán cây, một tòa nhà tròn, dài, còn cách một quãng xa. Anh lảo đảo đứng nhìn nó một hồi lâu.
Anh bắt đầu chạy, nhưng rồi lại chậm bước, vì anh thấy sợ. Anh không cất tiếng gọi. Lỡ đó vẫn là cái cũ thì sao? Lõ đó là Vòm Mặt Trời đã chết, bên trong không có mặt trời thì sao? anh thầm nghĩ.
Anh trượt chân và ngã. Cứ nằm đây thôi, anh tự nhủ; không phải là Vòm Mặt Trời đó đâu. Cứ nằm đây. Chẳng ích gì nữa. Uống cho no nước đi.
Nhưng anh xoay xở để đứng lên và lội qua vài con lạch nữa. Ánh sáng vàng trở nên rực rỡ hơn, và anh lại bắt đầu chạy, chân anh giẫm qua gương và kính, tay anh đập vào kim cương và đá quý.
Anh đứng trước cánh cửa màu vàng. Trên cửa là dòng chữ VÒM MẶT TRỜI. Anh đưa bàn tay dại đờ lên chạm vào đó. Rồi anh vặn nắm đấm và loạng choạng bước vào.
Anh đứng nhìn quanh một lát. Sau lưng anh, mưa té vào cửa. Trước mặt anh, trên một cái bàn thấp là một cái bình bạc đầy ca cao nóng đang bốc hơi, và một cốc ca cao có rắc kẹo xốp. Bên cạnh đó, trên một khay khác, là những miếng bánh mì dày kẹp thịt gà béo ngậy với cà chua mới cắt và hành lá. Trên một cái giá ngay trước mắt anh là một chiếc khăn bông Thổ Nhĩ Kỳ to, dày, màu xanh lục, và một cái thùng để ném quần áo ướt vào, còn bên phải anh là một gian buồng nhỏ có tia nhiệt để ta có thể sấy khô tức thì. Trên một cái ghế là một bộ quân phục mới đang đợi để bất kỳ ai - chính anh, hoặc bất kỳ người lạc đường nào - mặc vào. Xa hơn một chút là cà phê trong những bình bằng đồng tỏa hơi nghi ngút, một máy quay đĩa đang phát ra tiếng nhạc khe khẽ, những cuốn sách bìa bọc da đỏ và nâu. Gần giá sách là một cái chõng, một cái chõng sâu êm ái để ta có thể ngả lưng, trần trụi, tận hưởng tia nắng của vật khổng lồ sáng rực đang nằm cao tít bên trên căn phòng dài ấy.
Anh đưa tay lên che mắt. Anh thấy nhiều người khác đang tiến về phía mình, nhưng không nói gì với họ. Anh chờ đợi, rồi mở mắt ra, nhìn. Nước từ bộ quân phục của anh đọng thành vũng dưới chân và anh cảm thấy nước đang khô dần trên mặt, trên ngực, và chân tay mình.
Anh đang nhìn mặt trời.
Nó nằm lơ lửng giữa phòng, một vầng mặt trời to, vàng, ấm áp. Nó không phát ra một âm thanh nào, và trong phòng cũng im lặng như tờ. Cửa đã đóng lại và cơn mưa chỉ còn là một ký ức trên cơ thể còn râm ran của anh. Mặt trời nằm cao tít trên nền trời xanh của căn phòng, ấm áp, nóng rực, vàng óng, tuyệt đẹp.
Anh đi tới trước, vừa đi vừa lột bỏ quần áo.