Chương 7 PHI HÀNH GIA
Bầy đom đóm điện đang lơ lửng quanh mái tóc đen của mẹ để dẫn lối cho mẹ. Mẹ đứng ở ngưỡng cửa phòng ngủ nhìn tôi khi tôi đi qua hành lang yên tĩnh. “Lần này con sẽ giúp mẹ giữ bố ở nhà chứ?” mẹ hỏi.
“Chắc vậy ạ,” tôi đáp.
“Xin con đấy.” Bầy đom đóm hắt những đốm sáng di động nhỏ lên khuôn mặt trắng bệch của mẹ. “Lần này bố không được đi nữa.”
“Thôi được,” tôi nói, sau khi đứng đó một lát. “Nhưng sẽ chẳng có tác dụng đâu; chẳng ích gì đâu.”
Mẹ đi ra, và bầy đom đóm cưỡi trên mạch điện chập chờn bay theo mẹ như một chòm sao lang thang, soi lối cho mẹ trong bóng tối. Tôi nghe thấy tiếng mẹ khe khẽ vẳng lại, “Dù sao mẹ con mình cũng phải thử.”
Những con đom đóm khác theo tôi vào phòng mình. Khi sức nặng của cơ thể tôi ngắt một mạch điện trên giường, bầy đom đóm tắt đi. Đã là nửa đêm, mẹ và tôi cùng đợi trên giường, trong hai căn phòng bị bóng tối chia cắt. Cái giường bắt đầu đu đưa và hát ru tôi. Tôi chạm vào một công tắc; giường liền thôi đu đưa và ngừng hát. Tôi không muốn ngủ. Tôi không muốn ngủ chút nào.
Đêm nay cũng không có gì khác so với cả ngàn đêm khác của mẹ con tôi. Mẹ con tôi sẽ thức giấc giữa đêm và cảm thấy bầu không khí mát mẻ chuyển nóng, cảm thấy hơi lửa trong gió, hoặc thấy những bức tường sáng rực lên trong chốc lát, và chúng tôi sẽ biết phi thuyền của bố đang bay qua nhà chúng tôi - phi thuyền của bố, và những cây sổi lắc lư vì rung chấn. Và tôi sẽ nằm đó, mắt mở to, thở dốc, trong khi mẹ nằm trong phòng mình. Giọng mẹ sẽ vang lên qua hệ thống điện đàm nội bộ:
“Con có cảm thấy không?”
Và tôi sẽ trả lời, “Đúng là bố rồi.”
Đó là phi thuyền của bố bay qua thị trấn của chúng tôi, một thị trấn nhỏ nơi phi thuyền không gian sẽ không bao giờ hạ cánh, và mẹ con tôi sẽ nằm thức suốt hai tiếng đồng hồ tiếp theo, thầm nghĩ, “Giờ bố đã hạ cánh ở Springfield, giờ bố đang ở trên đường băng, giờ bố đang ký giấy tờ, giờ bố đã lên trực thăng, giờ bố đang bay qua sông, qua đồi, giờ bố đang hạ trực thăng xuống sân bay nhỏ ở Làng Xanh… Và khi buổi đêm đã trôi qua được gần nửa thì, trên hai cái giường đã lạnh dần, mẹ và tôi cứ nằm lắng nghe mãi. “Giờ bố đang đi xuống phố Bell. Lúc nào bố cũng đi bộ… không bao giờ bắt taxi… giờ bố băng qua công viên, giờ rẽ qua góc đường Oakhurst, và giờ thì…”
Tôi nhấc đầu lên khỏi gối. Xa tít dưới phố, tiến đến mỗi lúc một gần hơn, nhanh nhẹn, mau mắn, lẹ làng - là tiếng bước chân. Giờ tiếng bước chân rẽ vào nhà chúng tôi, lên hiên trước. Và chúng tôi cùng mỉm cười trong bóng tối se lạnh, mẹ và tôi, khi nghe thấy tiếng cửa trước mở khi nhận ra người nhà, phát ra một tiếng chào đón khe khẽ, rồi đóng lại dưới nhà…
Ba tiếng sau, tôi khe khẽ vặn nắm đấm đồng ở cửa phòng bố mẹ, nín thở, rón rén đi qua bóng tối mênh mông như khoảng cách giữa các hành tinh, tay vươn về phía cái va li nhỏ màu đen ở đuôi giường nơi bố mẹ tôi đang ngủ. Tôi chộp lấy nó và lặng lẽ chạy về phòng mình, thầm nghĩ, Bố sẽ không cho mình biết, bố không muốn mình biết.
Và từ cái va li mở rộng, bộ đồng phục đen của bố bung ra như một tinh vân đen, trên lớp vải đây đó lấp lánh những vì sao xa xăm. Tôi mân mê lớp vải đen giữa hai bàn tay nóng hổi của mình; tôi ngửi thấy mùi kim loại của sao Hỏa, mùi lá trường xuân xanh tươi của sao Kim, mùi lưu huỳnh và lửa của sao Thủy; và tôi ngửi thấy cả mùi của Mặt trăng trắng sữa và những vì sao cứng rắn. Tôi nhét bộ đồng phục vào cái máy ly tâm tôi đã làm trong xưởng kỹ thuật lớp chín của tôi năm đó, rồi bật máy lên. Chẳng mấy chốc một lớp bột mịn đã rơi vào một cái bình cổ cong. Tôi đẩy nó vào dưới kính hiển vi. Và trong khi bố mẹ tôi ngủ say không biết gì, trong khi cả ngôi nhà cũng say ngủ, những lò nướng tự động, robot phục vụ và cọ rửa đã chìm vào giấc ngủ điện tử, tôi nhìn xuống những hạt bụi sáng rực của sao băng, đuôi sao chổi và đất mùn từ sao Thổ xa xôi lấp lánh như chính những hành tinh, kéo tôi qua ống kính hiển vi để bay hàng tỉ dặm vào vũ trụ, với một gia tốc kinh hồn.
Lúc bình minh, mệt nhoài sau chuyến hành trình của mình và sợ bị phát hiện, tôi trả bộ đồng phục đã gói gọn vào va li về phòng bố mẹ.
Rồi tôi ngủ, để bị đánh thức bởi tiếng còi của chiếc xe giặt khô vừa đỗ lại trước sân. Họ lấy bộ đồng phục đen đem đi. Thật may là mình đã không đợi, tôi thầm nghĩ. Vì một tiếng sau bộ đồng phục sẽ được trả về, mọi đích đến và hành trình đều đã bị gột sạch khỏi nó.
Tôi ngủ lại, với một ống nhỏ đựng thứ bụi thần kỳ đó trong túi áo, bên trên chỗ tim đập.
Khi tôi xuống nhà, bố đã ngồi bên bàn ăn sáng, cắn miếng bánh mì nướng. “Ngủ ngon chứ, Doug?” bố hỏi, như thể bố vẫn ở nhà suốt chứ không phải là vừa đi xa ba tháng vậy.
“Vâng ạ,” tôi đáp.
“Con ăn bánh mì nhé?”
Bố ấn vào một cái nút, thế là bàn ăn sáng liền nướng cho tôi bốn miếng bánh vàng rộm.
Tôi còn nhớ chiều hôm đó bố tôi đã hì hục đào xới trong vườn, như một con thú đang tìm vật gì đó. Bố kia, hai cánh tay dài nâu sạm di chuyển rất nhanh, trồng, xới, sửa, cắt, tỉa, mắt luôn dán vào việc đang làm, không bao giờ ngước lên nhìn trời, không bao giờ nhìn tôi hay thậm chí nhìn mẹ, trừ phi chúng tôi quỳ bên cạnh bố để cảm nhận hơi đất thấm qua bộ áo liền quần ở chỗ đầu gối, để thọc tay vào lớp đất đen và không nhìn lên bầu trời sáng chói, điên rồ. Khi đó bố sẽ liếc sang hai bên, nhìn mẹ hoặc nhìn tôi, khẽ nháy mắt với hai mẹ con, rồi lại tiếp tục, lưng cong xuống, mặt cúi gằm, bầu trời nhìn đăm đăm lưng bố.
Đêm đó chúng tôi ngồi trên chiếc đu máy ngoài hiên, nó đu đưa cho chúng tôi, phả gió mát cho chúng tôi, hát cho chúng tôi nghe. Đêm hè trăng sáng, chúng tôi uống nước chanh đựng trong những chiếc cốc cầm mát lạnh cả tay, còn bố đọc báo điện tử cài vào chiếc mũ đặc biệt đội trên đầu, chiếu từng trang báo nhỏ xíu trước ống kính phóng đại nếu ta chớp mắt ba lần liên tiếp. Bố hút thuốc và kể cho tôi nghe thời bố còn bé, từ năm 1997. Một lát sau bố nói, như bố vẫn luôn nói, “Sao con không đi chơi đá lon, Doug?”
Tôi không nói gì, nhưng mẹ nói, “Con vẫn chơi đấy, vào những hôm anh không có nhà.”
Bố nhìn tôi, rồi lần đầu tiên trong ngày hôm đó, nhìn lên trời. Mẹ luôn theo dõi bố khi bố nhìn lên những vì sao. Ngày và đêm đầu tiên sau khi trở về, bố không nhìn trời mấy. Tôi nghĩ đến chuyện bố làm lụng như điên ngoài vườn, mặt gần như dán xuống đất. Nhưng đến đêm thứ hai thì bố nhìn lên trời sao thêm một chút. Ban ngày mẹ không sợ bầu trời lắm, nhưng mẹ chỉ muốn tắt những vì sao đi, và đôi khi tôi gần như có thể thấy mẹ với tay tìm một cái công tắc trong tâm trí mình, nhưng không bao giờ tìm thấy. Và đến đêm thứ ba thì bố sẽ ở ngoài hiên rất lâu sau khi chúng tôi đã chuẩn bị đi ngủ, rồi tôi nghe mẹ gọi bố vào, gần giống như thỉnh thoảng mẹ vẫn gọi tôi từ ngoài phố về. Và rồi tôi nghe thấy bố thở dài, xoay chiếc khóa mắt điện trên cửa vào. Và sáng hôm sau, lúc ăn sáng, tôi sẽ nhìn xuống thấy chiếc va li đen nhỏ bên chân bố lúc bố phết bơ lên bánh mì, trong khi mẹ vẫn còn ngủ.
“Thôi, hẹn gặp lại con, Doug,” bố nói, và bố con tôi bắt tay.
“Trong khoảng ba tháng nữa ạ?”
“Ừ.”
Rồi bố sẽ đi bộ xuống phố, không đi trực thăng, xe bọ hay xe buýt, chỉ đi bộ, với đồng phục đựng trong chiếc va li nhỏ kẹp dưới nách; bố không muốn ai nghĩ bố tự đắc về việc mình là Phi Hành Gia.
Khoảng một tiếng sau mẹ sẽ ra ăn sáng, chỉ một miếng bánh mì khô.
Nhưng giờ đang là đêm đầu tiên, đêm tốt lành, và bố hầu như không nhìn lên trời.
“Mình đi xem hội chợ ti vi đi,” tôi nói.
“Được,” bố nói.
Mẹ mỉm cười với tôi.
Thế là cả nhà cưỡi trực thăng đi vào phố, và dẫn bố đi xem hàng ngàn quầy trưng bày, để giữ cho mặt và đầu bố ở dưới mặt đất cùng với chúng tôi, không nhìn đi đâu cả. Và khi chúng tôi cười trước những thứ buồn cười và tỏ ra nghiêm túc trước những thứ nghiêm túc, tôi thầm nghĩ, Bố mình du hành đến tận sao Thổ, sao Hải Vương, sao Diêm Vương, nhưng bố chẳng bao giờ đem quà về cho mình. Những đứa khác có bố là phi hành gia, được bố đem về cho những mẩu quặng từ Callisto và những mảnh thiên thạch đen hoặc cát xanh. Còn mình thì phải tự gom góp bộ sưu tập của mình, đổi với những đứa khác, những mẩu đá sao Hỏa và cát sao Thủy chất đầy trong phòng mình, mà bố chẳng bao giờ nói gì.
Thỉnh thoảng tôi nhớ bố có đem quà về cho mẹ. Một lần bố có trồng một bụi hoa hướng dương sao Hỏa trong sân nhà chúng tôi, nhưng sau khi bố đi được một tháng và bụi hoa cao lên, một ngày kia mẹ chạy ra cắt cụt hết tất cả.
Khi chúng tôi dừng lại trước một quầy trưng bày ba chiều, không suy nghĩ gì, tôi hỏi bố một câu mà tôi luôn hỏi:
“Ngoài vũ trụ thế nào ạ?”
Mẹ ném cho tôi một cái nhìn sợ hãi. Nhưng đã quá muộn.
Bố đứng đó gần nửa phút, cố tìm câu trả lời, rồi bố nhún vai.
“Đó là điều tuyệt vời nhất trong những điều tuyệt vời của cả một đời người.” Rồi bố chợt nhớ ra. “À mà thực ra cũng chẳng có gì. Toàn những thứ lặp đi lặp lại. Con sẽ không thích đâu.” Bố nhìn tôi vẻ bồn chồn.
“Nhưng bố luôn quay trở lại.”
“Thói quen thôi.”
“Lần tới bố sẽ đi đâu?”
“Bố chưa quyết định. Bố sẽ suy nghĩ thêm.”
Bố luôn suy nghĩ thêm. Vào thời đó, phi hành gia lái phi thuyền còn hiếm và bố có thể tùy ý lựa chọn làm việc ở chỗ nào bố thích. Vào đêm thứ ba bố ở nhà, ta có thể thấy bố đang tìm tòi và chọn lựa giữa các vì sao.
“Thôi,” mẹ nói, “về nhà nào.”
Khi chúng tôi về đến nhà, trời vẫn còn sớm. Tôi muốn bố mặc đồng phục vào. Lẽ ra tôi không nên yêu cầu bố điều đó - nó luôn khiến mẹ phiền lòng - nhưng tôi không đừng được. Tôi lèo nhèo đòi mãi, mặc cho bố liên tục từ chối. Tôi chưa bao giờ thấy bố mặc đồng phục cả, và cuối cùng bố nói, “Thôi được rồi.”
Hai mẹ con đợi trong phòng khách trong khi bố lên tầng qua ống khí. Mẹ đờ đẫn nhìn tôi, tựa hồ mẹ không thể tin nổi chính thằng con trai lại có thể làm như vậy với mình. Tôi nhìn đi chỗ khác. “Con xin lỗi,” tôi nói.
“Con chẳng giúp được gì cả,” mẹ nói. “Chẳng giúp được chút gì.”
Một lát sau, ống khí phát ra một tiếng rít nhè nhẹ.
“Bố đây,” bố khẽ nói.
Chúng tôi nhìn bố trong bộ đồng phục.
Bộ đồng phục đen bóng, có khuy bạc và đường viền bạc kéo dài đến tận gót đôi ủng đen, nhìn như thể ai đó đã cắt ống tay, ống chân và thân áo từ một tinh vân tối sẫm, với những ngôi sao nhỏ long lanh giữa đó. Bộ đồng phục vừa khít như găng tay khít vào một bàn tay dài thanh mảnh, và nó có mùi mát lạnh của không khí, kim loại và vũ trụ. Nó có mùi của lửa và thời gian.
Bố đứng giữa phòng, mỉm cười ngượng ngùng.
“Anh quay người lại đi,” mẹ nói.
Mắt mẹ xa xăm nhìn bố.
Khi bố xa nhà, mẹ không bao giờ nhắc đến bố. Mẹ không bao giờ nói về bất kỳ điều gì ngoại trừ thời tiết hoặc tình trạng của cái cổ tôi và chuyện nó cần được kỳ cọ đến mức nào, hoặc về chuyện đêm mẹ không ngủ được. Một lần mẹ nói ánh sáng vào buổi đêm quá mạnh.
“Nhưng tuần này có trăng đâu,” tôi nói.
“Có ánh sao đấy,” mẹ trả lời.
Tôi ra cửa hàng mua cho mẹ tấm mành cửa xanh đậm hơn, dày hơn. Đêm đêm khi nằm trên giường, tôi có thể nghe tiếng mẹ kéo tấm rèm xuống che kín cửa sổ. Nó phát ra tiếng loạt soạt kéo dài.
Một lần tôi đã cố cắt bãi cỏ trước nhà.
“Không.” Mẹ đứng ở ngưỡng cửa. “Cất máy cắt cỏ đi.”
Vậy là bãi cỏ để nguyên cả ba tháng mà không được cắt. Bố sẽ cắt cỏ khi bố về nhà.
Mẹ cũng không cho tôi làm bất kỳ việc gì khác, ví dụ như sửa cái máy làm bữa sáng hoặc máy đọc sách. Mẹ để dành mọi việc, như để dành cho Giáng sinh vậy. Và rồi tôi sẽ thấy bố loay hoay sửa chữa, vừa làm vừa mỉm cười, và mẹ đứng nhìn bố, mỉm cười hạnh phúc.
Không, mẹ không bao giờ nhắc đến bố khi bố xa nhà. Còn về phần bố, bố cũng không bao giờ tìm cách liên lạc về nhà từ khoảng cách hàng triệu cây số. Một lần bố nói, “Nếu bố gọi về, bố sẽ muốn ở bên hai mẹ con. Bố sẽ không vui.”
Một lần bố bảo tôi, “Thỉnh thoảng mẹ con đối xử với bố như thể bố không có đây - như thể bố là người vô hình ấy.”
Tôi đã từng chứng kiến việc đó. Mẹ sẽ nhìn đâu đó xa hơn bố, nhìn qua vai bố, nhìn vào cằm hoặc tay bố, nhưng không bao giờ nhìn vào mắt bố. Nếu mẹ có nhìn vào mắt bố thì mắt mẹ sẽ bị phủ một lớp màng, như mắt một con vật sắp ngủ. Mẹ trả lời những câu bố hỏi và mỉm cười, nhưng luôn muộn hơn nửa giây.
“Đối với mẹ, bố không có đây,” bố nói.
Nhưng có những ngày mẹ lại tỉnh táo và bố sẽ ở bên mẹ, bố mẹ sẽ nắm tay nhau đi dạo quanh phố hoặc lái xe đi chơi, tóc mẹ sẽ bay tung như tóc một cô gái, rồi mẹ sẽ tắt hết mọi thiết bị điện tử trong bếp đi để làm cho bố những chiếc bánh ngọt và bánh quy tuyệt hảo, và mẹ nhìn thẳng vào bố, với một nụ cười thực sự. Nhưng đến cuối những ngày như thế mẹ sẽ luôn khóc. Và bố sẽ đứng nhìn quanh phòng vẻ bất lực, như muốn tìm một câu trả lời mà không bao giờ tìm thấy.
Bố chầm chậm quay người cho hai mẹ con ngắm.
“Anh quay lần nữa đi,” mẹ nói.
Sáng hôm sau bố lao vào nhà, tay cầm đầy vé. Vé phi thuyền hồng đi California, vé phi thuyền xanh đi Mexico.
“Đi nào!” bố nói. “Chúng ta sẽ mua quần áo mặc một lần, mặc bẩn thì đốt. Xem này, chúng ta sẽ đi phi thuyền lúc trưa đến Los Angeles, trực thăng lúc hai giờ đến Santa Barbara, máy bay lúc chín giờ đến Ensenada, rồi ngủ lại qua đêm!”
Vậy là chúng tôi đến California và đi ngược xuôi bờ biển Thái Bình Dương suốt một ngày rưỡi, để cuối cùng dừng chân trên bãi biển Malibu nướng xúc xích. Bố không ngừng lắng nghe, hát hoặc ngắm nghía mọi thứ ở quanh mình, nắm chặt lấy chúng như thể thế giới là một cỗ máy ly tâm đang xoay nhanh đến nỗi bố có thể bị ném đi khỏi chúng tôi bất kỳ lúc nào.
Vào buổi chiều cuối cùng ở Malibu, mẹ ở lại khách sạn. Bố nằm trên bãi cát bên cạnh tôi dưới vầng mặt trời nóng rực một lúc lâu. “A,” bố thở một hơi dài, “có thế chứ.” Mắt bố khép hờ; bố nằm ngửa ra, tận hưởng ánh mặt trời. “Bố nhớ cái này.”
Tất nhiên, ý bố là “khi ở trên phi thuyền”. Nhưng bố không bao giờ nói “phi thuyền” hay nhắc đến phi thuyền hay những thứ ta không thể có trên phi thuyền. Trên phi thuyền ta không thể có làn gió biển, hay bầu trời xanh, hay mặt trời vàng, hay thức ăn mẹ nấu. Ta không thể nói chuyện với đứa con trai mười bốn tuổi của mình trên phi thuyền.
“Con nói đi,” cuối cùng bố bảo.
Và tôi biết giờ bố con tôi có thể nói chuyện, như chúng tôi vẫn thường nói chuyện, suốt ba giờ đồng hồ. Suốt buổi chiều ấy chúng tôi rì rầm chuyện gẫu qua lại dưới vầng mặt trời uể oải, về điểm ở trường của tôi, về chuyện tôi nhảy cao được ngần nào hay bơi nhanh ra sao.
Mỗi khi tôi nói, bố đều gật đầu, mỉm cười, khẽ vỗ vỗ lên ngực tôi vẻ khen ngợi. Chúng tôi nói chuyện mãi. Chúng tôi không nói về phi thuyền hay vũ trụ, mà nói về Mexico, nơi cả nhà đã từng đến trên một chiếc xe cũ rích, về những con bướm chúng tôi bắt được trong rừng nhiệt đới vào giữa trưa ở Mexico nóng ấm xanh tươi, nhìn thấy hàng trăm con bướm bị hút vào bộ tản nhiệt trên xe rồi chết ở đó, cặp cánh xanh biếc và đỏ thắm của chúng vẫy mạnh, giãy giụa, đẹp nhưng cũng thật là buồn. Chúng tôi nói về những chuyện đó thay vì chuyện tôi thực sự muốn nói. Và bố lắng nghe tôi. Bố luôn lắng nghe tôi, tựa hồ bố muốn để những âm thanh nghe được tràn vào đầy cơ thể mình. Bố nghe tiếng gió, tiếng biển rì rào, và giọng nói của tôi, với sự chăm chú toàn tâm toàn ý, một sự tập trung dường như loại bỏ hết các thể xác mà chỉ giữ lại âm thanh. Bố nhắm mắt lại để nghe. Tôi thấy bố nghe tiếng máy cắt cỏ khi bố cắt cỏ bằng tay thay vì dùng bộ điều khiển từ xa, và tôi thấy bố ngửi mùi cỏ mới cắt được phun ra từ sau máy như một vòi phun xanh.
“Doug này,” bố nói, vào lúc khoảng năm giờ chiều, khi chúng tôi đang thu dọn khăn tắm và quay về trên bãi biển gần ngọn sóng vỗ. “Bố muốn con hứa với bố một điều.”
“Gì ạ?”
“Đừng bao giờ làm Phi Hành Gia.”
Tôi sững người.
“Bố nói nghiêm túc đấy,” bố tiếp tục. “Vì khi con ra ngoài không gian con sẽ muốn quay lại đây, còn khi con quay lại đây con lại chỉ muốn ra ngoài không gian. Đừng bắt đầu chuyện đó. Đừng để nó trói buộc con.”
“Nhưng…”
“Con không biết nó là cái gì đâu. Mỗi khi bố ra ngoài đó bố đều nghĩ, Nếu mình quay về Trái đất mình sẽ ở lại; mình sẽ không bao giờ ra đi nữa. Nhưng bố vẫn ra đi, và bố đoán bố sẽ luôn ra đi.”
“Con đã nghĩ về chuyện làm Phi Hành Gia từ lâu lắm rồi,” tôi nói.
Bố không nghe tôi nói. “Bố đã cố ở lại. Thứ Bảy tuần trước, khi bố mới về nhà, bố đã cố hết sức để ở lại.”
Tôi nhớ cảnh bố đổ mồ hôi trong vườn, rồi chuyến du lịch, tận hưởng và lắng nghe này, và tôi biết bố làm vậy để tự thuyết phục mình rằng biển cả, thành phố, đất đai, gia đình mình mới là những thứ đáng kể và tốt đẹp. Nhưng tôi biết đêm nay bố sẽ ở đâu: nhìn lên những viên ngọc trên chiếc đai của chòm Orion từ hiên nhà chúng tôi.
“Hãy hứa con sẽ không như bố,” bố nói.
Tôi ngần ngừ hồi lâu. “Được ạ,” tôi nói.
Bố bắt tay tôi. “Ngoan lắm,” bố nói.
Bữa tối hôm đó rất ngon. Mẹ cứ lăng xăng quanh bếp với những nắm bột và quế, nồi niêu chạm nhau leng keng, và giờ một con gà tây kếch xù nằm bốc hơi trên bàn, với đầy đủ gia vị, xốt việt quất, đậu và bánh nhân bí ngô.
“Giữa tháng Tám sao?” bố ngạc nhiên hỏi.
“Anh sẽ không ở nhà vào dịp lễ Tạ ơn mà.”
“Đúng thế.”
Bố hít hà. Bố mở vung từng cái liễn lên và để mùi hương tỏa ra trên khuôn mặt cháy nắng. Mỗi lần hít vào bố lại “A” lên một tiếng. Bố nhìn quanh phòng và nhìn tay mình. Bố nhìn những bức ảnh trên tường, nhìn những cái ghế, cái bàn, nhìn tôi và mẹ. Bố hắng giọng. Tôi thấy bố đã quyết định. “Lilly này…”
“Vâng?” Mẹ nhìn bố qua bàn ăn, cái bàn mẹ đã bày biện như một cái bẫy tuyệt diệu bằng bạc, một cái hố thần kỳ đầy nước xốt để bẫy và giữ người chồng của mình như một con thú thời xưa bị kẹt trong một vũng nhựa đường, cho bố nhìn ra ngoài qua những chấn song nhà tù bằng chạc xương đòn, mãi mãi được an toàn. Mắt mẹ long lanh.
“Lilly,” bố nói.
Nói đi, tôi điên cuồng nghĩ thầm. Nói đi, nhanh lên; nói là lần này bố sẽ về hẳn nhà và sẽ không bao giờ đi nữa; nói đi!
Đúng lúc đó một chiếc trực thăng bay qua làm căn phòng hơi chuyển động và cửa kính khẽ rung lên lanh canh. Bố nhìn ra cửa sổ.
Những vì sao xanh của buổi tối đã hiện ra, và sao Hỏa đỏ rực đang mọc ở đằng Đông.
Bố nhìn sao Hỏa suốt một phút đồng hồ. Rồi bố đờ đẫn chìa tay về phía tôi. “Cho bố xin ít đậu,” bố nói.
“Xin phép hai bố con,” mẹ nói. “Em đi lấy ít bánh mì.”
Mẹ lao vào bếp.
“Nhưng trên bàn có bánh mì rồi mà,” tôi nói.
Bố bắt đầu ăn mà không nhìn tôi.
Đêm đó tôi không ngủ được. Tôi xuống nhà lúc một giờ sáng và thấy ánh trăng như một lớp băng phủ trên các nóc nhà, sương lấp lánh như một cánh đồng tuyết trên bãi cỏ nhà chúng tôi. Tôi đứng ở ngưỡng cửa trong bộ đồ ngủ, cảm nhận hơi gió ban đêm ấm áp, rồi tôi biết bố đang ngồi trên chiếc đu máy ngoài hiên, khe khẽ đu đưa. Tôi có thể thấy mặt bố ngửa lên ngắm những ngôi sao xoay tròn trên bầu trời. Mắt bố như hai viên pha lê xám, mặt trăng phản chiếu trong từng con mắt.
Tôi đi ra ngồi xuống bên cạnh bố.
Hai bố con đu đưa trên chiếc ghế đu hồi lâu.
Cuối cùng tôi nói, “Có bao nhiêu cách để chết trong vũ trụ ạ?”
“Cả triệu cách.”
“Bố kể tên vài cách đi.”
“Bị thiên thạch đâm vào. Phi thuyền hết không khí. Hoặc bị cuốn theo sao chổi. Chấn thương sọ não. Chết ngạt. Một vụ nổ. Lực ly tâm. Quá nhiều gia tốc. Quá ít gia tốc. Hơi nóng, hơi lạnh, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, các hành tinh, các tiểu hành tinh, chất phóng xạ…”
“Và ta có được chôn không ạ?”
“Họ sẽ không bao giờ tìm thấy ta.”
“Ta sẽ đi đâu?”
“Đi xa cả tỉ cây số. Người ta gọi chúng là những nấm mồ di động. Ta sẽ trở thành một thiên thạch hoặc một tiểu hành tinh, mãi mãi bay qua không gian.”
Tôi không nói gì.
“Có một điều,” lát sau bố nói, “trong vũ trụ nó xảy ra rất nhanh. Cái chết ấy. Chỉ chớp mắt một cái là xong. Ta không hấp hối. Nhiều khi ta còn không biết chuyện gì đang xảy ra nữa cơ. Ta chết đi, thế là hết.”
Chúng tôi đi ngủ.
Đến sáng hôm sau.
Đứng ở ngưỡng cửa, bố lắng nghe con chim hoàng yến màu vàng hót trong cái chuồng vàng.
“Bố đã quyết định rồi,” bố nói. “Lần tới khi bố quay về, bố sẽ về hẳn.”
“Bố!” tôi nói.
“Bảo với mẹ con thế khi mẹ thức dậy nhé,” bố dặn.
“Bố nói thật!”
Bố nghiêm trang gật đầu. “Hẹn gặp con trong khoảng ba tháng nữa.”
Và thế là bố đi xuống phố, đem theo bộ đồng phục giấu kín trong va li, vừa đi vừa huýt sáo và ngắm nghía những hàng cây cao vút xanh tươi, hái những quả xoan trên bụi xoan mà bố vừa đi qua rồi ném về phía trước trong khi bước vào ánh bình minh rực sáng…
Sáng hôm đó, sau khi bố đã đi được vài tiếng, tôi hỏi mẹ mấy điều. “Bố nói thỉnh thoảng cứ như mẹ không nhìn thấy hay nghe thấy bố ấy,” tôi nói.
Và mẹ nhẹ nhàng giải thích tất cả cho tôi nghe.
“Khi bố đi vào vũ trụ cách đây mười năm, mẹ đã tự nhủ, ‘Bố đã chết.’ Hay cũng gần như thế. Vậy hãy nghĩ là bố đã chết. Và khi bố quay về, mỗi năm ba hay bốn lần, thì đó không phải là bố, đó chỉ là một ký ức nho nhỏ dễ chịu hoặc một giấc mơ mà thôi. Và nếu một ký ức hoặc giấc mơ chấm dứt, nó sẽ không đau đớn lắm. Vì vậy phần lớn thời gian mẹ coi như bố đã chết rồi…”
“Nhưng có những lúc…”
“Có những lúc mẹ không thể đừng được. Mẹ nướng bánh và đối xử với bố như bố còn sống, và sau đó thì thật là đau đớn. Không, sẽ tốt hơn nếu nghĩ bố đã không về từ mười năm nay và mẹ sẽ không bao giờ gặp lại bố nữa. Như vậy đỡ đau đớn hơn.”
“Chẳng phải bố đã nói lần sau bố sẽ về hẳn đấy thôi.”
Mẹ chầm chậm lắc đầu. “Không, bố chết rồi. Mẹ chắc chắn như thế.”
“Nếu vậy thì bố sẽ sống lại,” tôi nói.
“Mười năm trước mẹ đã nghĩ, Nếu bố chết trên sao Kim thì sao?” mẹ nói. “Thì mẹ con mình sẽ không bao giờ có thể nhìn sao Kim nữa. Nếu bố chết trên sao Hỏa thì sao? Mẹ con mình sẽ không bao giờ có thể nhìn sao Hỏa đỏ rực trên bầu trời mà không muốn vào nhà khóa cửa lại. Hoặc nếu bố chết trên sao Thổ hay sao Mộc hay sao Hải Vương thì sao? Vào những đêm các hành tinh đó nằm cao trên bầu trời, chúng ta sẽ chẳng muốn dính dáng gì đến những vì sao nữa.”
“Chắc vậy ạ,” tôi nói.
Hôm sau tin được gửi tới.
Người đưa tin đưa cho tôi và tôi đọc ngay trên hiên. Mặt trời đang lặn. Mẹ đứng ở cửa lưới sau lưng tôi, nhìn tôi gập tờ giấy lại đút vào túi.
“Mẹ,” tôi nói.
“Đừng nói với mẹ điều mẹ đã biết rồi,” mẹ nói.
Mẹ không khóc.
Vậy đấy, không phải sao Hỏa, cũng không phải sao Kim, cũng không phải sao Thổ hay sao Mộc đã giết bố.
Chúng tôi sẽ không phải nghĩ về bố mỗi lần sao Thổ hay sao Mộc hay sao Hỏa tỏa sáng trên bầu trời đêm.
Chuyện này khác hẳn.
Phi thuyền của bố đã rơi vào mặt trời.
Và mặt trời khổng lồ, cháy rực, tàn nhẫn, luôn ngự giữa bầu trời, và ta không thể tránh khỏi nó.
Vậy là suốt một thời gian dài sau khi bố tôi chết, mẹ tôi ngủ suốt ngày và không chịu ra ngoài. Chúng tôi ăn sáng lúc nửa đêm, ăn trưa lúc ba giờ sáng, và ăn tối lúc sáu giờ sáng tờ mờ, lạnh lẽo. Chúng tôi đến các rạp phim mở cửa suốt đêm và đi ngủ lúc mặt trời mọc.
Và suốt một thời gian dài, những ngày duy nhất chúng tôi ra ngoài đi dạo là những ngày trời mua và mặt trời không tỏa sáng.