Chương 8 NHỮNG QUẢ CẦU LỬA
Lửa bùng cháy trên những bãi cỏ đêm mùa hạ. Ta thấy khuôn mặt của các cô dì chú bác sáng bừng lên. Những quả pháo hoa bay lên trong cặp mắt nâu sáng rỡ của các anh chị em họ ta nơi hàng hiên, và những đười pháo cháy đen nguội lạnh rơi đồm độp xuống những cánh đồng khô cằn ở xa xa.
Cha Khả kính Joseph Daniel Peregrine mở mắt ra. Một giấc mơ kỳ lạ: ông và các anh chị em họ chơi pháo hoa ở ngôi nhà cổ của ông nội ở Ohio từ bao nhiêu năm nay rồi!
Ông nằm lắng nghe bầu không khí trống rỗng mênh mang trong nhà thờ, trong những ngăn nơi các Đức cha khác đang nằm. Trong đêm trước khi phi thuyền Thập Giá cất cánh, họ có nhớ về ngày mồng Bốn tháng Bảy như ông không? Phải. Đêm nay cũng giống như những buổi bình minh của ngày Quốc khánh, khi ta nín thở chờ tiếng nổ đầu tiên và lao ra vỉa hè còn ướt sương, tay cầm đầy những quả pháo kỳ diệu.
Và giờ họ ở đây, các Đức cha Tân giáo, trong buổi bình minh đầy hồi hộp trước khi họ cưỡi phi thuyền đến sao Hỏa, để lại mùi hương trầm giữa thánh đường đen thẳm như nhung của vũ trụ.
“Chúng ta có nên ra đi không?” cha Peregrine thì thầm. “Chẳng phải chúng ta nên hóa giải mọi tội lỗi ngay trên Trái đất này sao? Có phải chúng ta đang trốn chạy cuộc sống của mình không?”
Ông ngồi dậy, cơ thể bệ vệ, béo tốt nhờ dâu tây, sữa, thịt, di chuyển nặng nề.
“Hay đây là sự lười nhác?” ông tự hỏi. “Phải chăng ta đang sợ hãi trước chuyến đi?”
Ông bước vào buồng tắm hoa sen.
“Nhưng ta sẽ đưa ngươi đến sao Hỏa, cơ thể của ta.” Ông tự nói với chính mình. “Để lại các tội lỗi cũ ở đây. Và đến sao Hỏa để tìm các tội lỗi mới ư?” Đó gần như là một ý tưởng thú vị. Những tội lỗi chưa ai từng nghĩ đến.
Bản thân ông đã từng viết một cuốn sách nhỏ: Vấn đề tội lỗi trên các thế giới khác, nhưng không hiểu sao các đạo hữu Tân giáo khác của ông lại cho rằng nó không đủ nghiêm túc.
Mới tối qua, khi cùng nhau hút điếu xì gà cuối cùng, ông và cha Stone còn bàn bạc về chuyện đó.
“Trên sao Hỏa, tội lỗi có thể được coi là đức hạnh. Chúng ta phải dè chừng những hành động đoan chính lại có thể bị coi là tội lỗi sau này!” cha Peregrine mỉm cười nói. “Thật thú vị! Đã nhiều thế kỷ rồi việc làm người truyền giáo mới lại có nhiều phiêu lưu đến vậy!”
“Tôi sẽ nhận ra tội lỗi, ngay cả trên sao Hỏa đi chăng nữa,” cha Stone nói thẳng thừng.
“Ồ, linh mục chúng ta luôn tự hào là những tờ giấy quỳ, đổi màu trước sự hiện diện của tội lỗi,” cha Peregrine bác lại, “nhưng lỡ hóa học trên sao Hỏa lại khiến chúng ta không hề đổi màu thì sao! Nếu trên sao Hỏa có các giác quan mới thì ông phải thừa nhận là rất có thể sẽ có những tội lỗi chưa ai từng biết đến chứ.”
“Nếu không có ý định xấu xa từ trước thì sẽ không có tội lỗi hoặc trừng phạt - Chúa đã khẳng định với chúng ta như vậy,” cha Stone đáp.
“Trên Trái đất thì đúng. Nhưng biết đâu một tội lỗi trên sao Hỏa có thể truyền ý định xấu xa của nó cho tiềm thức của ta bằng năng lực ngoại cảm, để tâm trí có ý thức của con người tự do hành động như thể không hề có tội lỗi! Nếu vậy thì sao?”
“Các tội lỗi mới có thể là gì đây?”
Cha Peregrine nặng nề gập người tới trước. “Một mình Adam không thể mắc tội. Khi có thêm Eve, ta mới có sự cám dỗ. Khi thêm một người đàn ông thứ hai thì sẽ có thể xảy ra tội ngoại tình. Khi thêm vào tình dục hoặc con người, ta sẽ thêm vào tội lỗi. Nếu người không có tay, họ sẽ không thể bóp cổ người khác. Ta sẽ không có tội giết người đó. Khi có tay tức là sẽ có khả năng phạm một tội lỗi mới. Amip không thể mắc tội vì chúng sinh sản bằng cách nhân đôi. Chúng không thèm muốn vợ người khác hoặc giết lẫn nhau. Nếu cho amip có tính dục, cho chúng tay chân, thì ta sẽ có tội giết người và ngoại tình. Thêm tay chân hoặc thêm một người, hoặc lấy bớt đi, thì ta sẽ thêm vào hoặc bớt đi tội ác tiềm tàng. Trên sao Hỏa, biết đâu lại có năm giác quan mới, các cơ quan mới, các chi vô hình mà chúng ta không thể tưởng tượng được - liệu có thể có năm tội lỗi mới không?”
Cha Stone há hốc miệng. “Tôi nghĩ ông thích thú với những chuyện thế này!”
“Tôi giữ cho đầu óc mình tỉnh táo, Đức cha ạ; chỉ cho tỉnh táo thôi.”
“Đầu óc ông luôn tung hứng các thứ, phải không? Gương này, đuốc này, bát đĩa này.”
“Phải. Vì đôi khi Nhà thờ giống như một hoạt cảnh ở rạp xiếc, khi màn được vén lên và các diễn viên, được hóa trang bằng bột và phấn thành những bức tượng trắng toát, đứng im phăng phắc để thể hiện Cái Đẹp trừu tượng. Rất tuyệt vòi. Nhưng tôi hy vọng rằng sẽ luôn có chỗ cho tôi luồn lách giữa các bức tượng, ông có nghĩ thế không, cha Stone?”
Cha Stone đã đi ra. “Tôi nghĩ chúng ta nên đi ngủ thôi. Chỉ vài tiếng nữa, chúng ta sẽ được thấy các tội lỗi mới của ông đấy, cha Peregrine ạ.”
Phi thuyền đã sẵn sàng để cất cánh.
Các Đức cha xong buổi cầu nguyện bước ra, tiến vào bầu không khí sáng sớm se lạnh, toàn các linh mục ưu tú nhất từ New York, Chicago hoặc Los Angeles - Giáo hội chỉ cử đi những người giỏi nhất - băng qua thành phố để đến cánh đồng băng giá đó. Vừa đi cha Peregrine vừa nhớ lại những lời của Giám mục:
“Cha Peregrine, ông sẽ chỉ huy các nhà truyền giáo, cùng với cha Stone làm phụ tá. Ta phải thừa nhận rằng ta rất đáng trách khi lý do để ta chọn ông cho trọng trách này lại hơi khó hiểu, nhưng cuốn sách nhỏ của ông về tội lỗi trên các hành tinh khác không phải là không được chú ý đâu. Ông là người linh động. Và sao Hỏa cũng giống như một cái tủ chưa được dọn dẹp mà chúng ta đã bỏ bẵng nhiều thiên niên kỷ. Tội lỗi đã dồn lại đó như những món đồ cũ. Sao Hỏa già gấp đôi Trái đất, vì thế đã có gấp đôi số đêm thứ Bảy, gấp đôi những cuộc ăn chơi trác táng với những phụ nữ trần trụi như hải cẩu trắng. Khi chúng ta mở cái tủ ấy ra, mọi thứ sẽ đổ nhào lên chúng ta. Chúng ta cần một người nhanh nhẹn, linh hoạt, một người có trí óc biết luồn lách. Người quá giáo điều có thể sẽ suy sụp. Tôi có cảm giác ông sẽ kiên cường hơn. Nhiệm vụ này là của ông.”
Giám mục và các Đức cha quỳ xuống.
Họ đọc lời chúc phúc và chiếc phi thuyền được vẩy chút nước thánh. Rồi Giám mục đứng dậy nói với họ:
“Ta biết các cha sẽ đồng hành cùng Chúa để chuẩn bị cho người sao Hỏa đón nhận Chân lý của Người. Ta chúc các cha một hành trình thật thâm sâu.”
Họ xếp hàng đi qua Giám mục, hai mươi người cả thảy, áo chùng loạt soạt, mỗi người đặt tay mình vào bàn tay hiền từ của Giám mục trước khi bước vào buồng phóng đã được khử sạch.
“Tôi tự hỏi liệu sao Hỏa có phải là địa ngục không?” cha Peregrine nói vào lúc cuối. “Nó chỉ đợi chúng ta đến là liền phun trào lưu huỳnh và lửa.”
“Xin Chúa phù hộ cho chúng con,” cha Stone nói.
Phi thuyền cất cánh.
***
Ra khỏi vũ trụ cũng giống như ra khỏi thánh đường đẹp nhất họ từng được thấy. Chạm vào sao Hỏa cũng giống như chạm vào vỉa hè bình thường bên ngoài nhà thờ năm phút sau khi được thật sự trải nghiệm tình yêu ta dành cho Chúa.
Các Đức cha rón rén bước ra khỏi phi thuyền đang phụt khói và quỳ xuống trên nền cát sao Hỏa trong lúc cha Peregrine cầu nguyện tạ ơn.
“Lạy Chúa, chúng con cảm ơn Người vì hành trình qua những gian phòng của Người. Và, lạy Chúa, chúng con đã đến một vùng đất mới, nên chúng con sẽ cần những cặp mắt mới. Chúng con sẽ nghe thấy những âm thanh mới nên sẽ cần những cặp tai mới. Và sẽ có những tội lỗi mới, vì vậy chúng tôi xin Người ban cho những trái tim tốt hơn, vững vàng hơn, trong sạch hơn. Amen.”
Họ đứng lên.
Và đây sao Hỏa trải rộng ra như biển, nơi họ hì hục bơi như những nhà sinh vật học dưới đáy biển, tìm kiếm sự sống. Đây lãnh địa của những tội lỗi ẩn giấu. Chao, giữa môi trường mới này họ sẽ phải giữ thăng bằng một cách thận trọng biết bao, phải làm sao mình nhẹ tựa lông hồng, sợ rằng chỉ bước đi không thôi, hay hít thở, hay chỉ ăn chay không thôi cũng đã là tội lỗi rồi!
Và thị trưởng của Thành Phố Đầu Tiên ra đón họ với hai cánh tay dang rộng. “Tôi có thể làm gì cho cha, thưa cha Peregrine?”
“Chúng tôi muốn biết về người sao Hỏa. Vì chỉ khi đó chúng tôi mới có thể tạo lập nhà thờ sao cho đúng đắn. Họ cao ba mét ư? Chúng ta sẽ phải xây cửa lớn. Da họ màu xanh, đỏ hay lục ư? Chúng ta phải biết để dùng đúng màu da cho các hình người trên cửa sổ kính màu. Họ có nặng nề không? Chúng ta sẽ đóng ghế thật chắc chắn cho họ.”
“Thua cha, tôi nghĩ cha không cần lo lắng về người sao Hỏa đâu,” thị trưởng nói. “Chỉ có hai loài thôi. Một loài chết từ lâu rồi. Một số đang lẩn trốn. Còn loài thứ hai thì… ờ, họ không giống người.”
“Thế ư?” Tim cha Peregrine đập nhanh hơn.
“Họ là những quả cầu ánh sáng, thua cha, họ sống trên rặng đồi đằng kia. Ai mà biết được họ là người hay thú? Nhưng tôi nghe nói họ có trí thông minh.” Thị trưởng nhún vai. “Tất nhiên, họ không phải là nguời, nên tôi không nghĩ là cha sẽ quan tâm…”
“Ngược lại,” cha Peregrine vội nói. “Ông nói là họ có trí thông minh sao?”
“Người ta có kể chuyện này. Một người thăm dò bị gãy chân trên rặng đồi đó và lẽ ra đã chết ở đó rồi. Những quả cầu ánh sáng xanh đó đã tiến đến gần anh ta. Khi tỉnh dậy, anh ta thấy mình đang nằm gần đường cao tốc mà không biết mình đã xuống đó bằng cách nào.”
“Chắc anh ta say,” cha Stone nói.
“Chuyện là thế,” thị trưởng nói. “Cha Peregrine, phần lớn người sao Hỏa đã chết và chỉ còn lại những quả cầu xanh này, nên thực lòng tôi nghĩ các cha ở Thành Phố Đầu Tiên thì sẽ tốt hơn. Sao Hỏa đang mở rộng dần. Giờ nó là vùng biên, giống như miền Viễn Tây và Alaska trên Trái đất thời xưa ấy. Người ta đang đổ về đây. Có chừng hai ngàn thợ máy, thợ mỏ và công nhân người Ireland đen ở Thành Phố Đầu Tiên cần được cứu rỗi, bởi vì có quá nhiều phụ nữ hư hỏng đi theo họ, và quá nhiều rượu sao Hỏa cất từ mười thế kỷ trước…”
Cha Peregrine đang dõi mắt về phía rặng đồi xanh mờ.
Cha Stone hắng giọng. “Ông thấy thế nào?”
Cha Peregrine không để ý. “Những quả cầu lửa xanh ư?”
“Vâng, thưa cha.”
“À,” cha Peregrine thở dài.
“Quả cầu xanh.” Cha Stone lắc đầu. “Chẳng khác nào rạp xiếc!”
Cha Peregrine cảm thấy cổ tay mình đang giần giật. Ông thấy thành phố nhỏ vùng biên, đầy những tội lỗi sống sượng, mới nảy sinh, và ông thấy rặng đồi, già cỗi với những tội lỗi cổ xưa nhất nhưng có lẽ vẫn là mới mẻ (đối với ông).
“Thị trưởng này, các công nhân người Ireland đen của ngài có thể chịu lửa địa ngục thêm một ngày nữa được không?”
“Tôi sẽ quay cho họ đều lửa và phết mỡ giúp cha, thưa cha.”
Cha Peregrine hất đầu về phía rặng đồi. “Vậy thì chúng ta sẽ đi đến đó.”
Mọi người cất tiếng rì rầm.
“Sẽ rất đơn giản nếu chúng ta đi vào thành phố,” cha Peregrine giải thích. “Tôi lại nghĩ rằng nếu Chúa xuất hiện ở đây và mọi người nói, ‘Đây là đường đã có sẵn’ thì Người sẽ đáp lại, ‘Hãy chỉ cho ta đồng cỏ dại. Ta sẽ tạo ra một con đường.’”
“Nhưng…”
“Cha Stone à, hãy nghĩ xem lương tâm chúng ta sẽ trĩu nặng ra sao nếu chúng ta bỏ qua những kẻ tội lỗi mà không chìa tay ra cứu vớt họ.”
“Nhưng chúng chỉ là những quả cầu lửa!”
“Tôi nghĩ rằng khi con người mới xuất hiện, các loài thú cũng thấy chúng ta kỳ cục lắm. Thế nhưng dù xấu xí, con người vẫn có linh hồn. Cho tới khi tìm thấy bằng chứng cho thấy điều gì khác, chúng ta hãy cứ cho rằng những quả cầu lửa này cũng có linh hồn.”
“Thôi được,” thị trưởng đồng tình, “nhưng các cha sẽ quay về thành phố.”
“Để rồi xem. Trước tiên, hãy ăn sáng đã. Rồi tôi và ông, cha Stone, sẽ một mình đi lên đồi. Tôi không muốn đem máy móc hay đám đông ra dọa những người sao Hỏa hình cầu lửa đó. Chúng ta ăn sáng thôi chứ?”
Các Đức cha ăn sáng trong im lặng.
Đến đêm, cha Peregrine và cha Stone đã leo lên đồi cao. Họ dừng lại ngồi trên một tảng đá để tận hưởng một khoảnh khắc thư giãn và chờ đợi. Những người sao Hỏa vẫn chưa xuất hiện, và cả hai đều thấy hơi thất vọng.
“Tôi tự hỏi…” cha Peregrine lau mặt. “Ông nghĩ xem nếu chúng ta gọi ‘Có ai không?’ thì họ có trả lời không?”
“Cha Peregrine này, ông không thể nghiêm túc được sao?”
“Chỉ khi nào Chúa nghiêm túc thì tôi mới nghiêm túc. Kìa, ông đừng tỏ ra choáng váng đến vậy. Chúa không hề nghiêm túc. Thực ra, khó mà biết được Người là như thế nào, ngoại trừ tình yêu thương của Người. Mà tình yêu thương phải có liên quan đến tính hài hước, phải không? Vì ta không thể yêu một người trừ phi ta có thể chịu đựng anh ta, đúng không? Và ta không thể chịu đựng một người nếu ta không thể cười người đó. Chẳng phải thế sao? Và chúng ta chắc chắn phải là những sinh vật bé nhỏ nực cười quẩn quanh trong cái bát xốt này, và Chúa hẳn phải càng yêu chúng ta hơn vì chúng ta lôi cuốn tính hài hước của Người.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ Chúa lại hài hước cả,” cha Stone nói.
“Đấng sáng tạo ra thú mỏ vịt, lạc đà, đà điểu và con người mà lại không hài hước ư? Thôi nào!” cha Peregrine cười lớn.
Nhưng đúng lúc đó, giữa rặng đồi tranh tối tranh sáng, như những ngọn đèn xanh được thắp lên để dẫn lối cho họ, người sao Hỏa xuất hiện.
Cha Stone thấy chúng trước. “Nhìn kìa!”
Cha Peregrine quay lại và tiếng cười tắt ngấm trong miệng ông.
Những quả cầu lửa xanh tròn xoe lơ lửng giữa những vì sao lấp lánh, run rẩy ở đằng xa.
“Quỷ dữ!” Cha Stone đứng bật dậy. Nhưng cha Peregrine chặn ông lại. “Đợi đã!”
“Lẽ ra chúng ta nên quay về thành phố!”
“Không, khoan đã, nhìn kìa!” cha Peregrine van vỉ.
“Tôi sợ lắm!”
“Đừng sợ. Đây là hành động của Chúa!”
“Của quỷ dữ!”
“Thôi, yên nào!” cha Peregrine dỗ dành và họ khom mình xuống, ánh sáng xanh nhẹ tỏa trên khuôn mặt ngước lên của họ trong khi những quả cầu lửa lại gần.
Và cha Peregrine lại run rẩy nhớ về đêm Quốc khánh. Ông cảm thấy như một đứa trẻ trong những tối mồng Bốn tháng Bảy đó, dưới bầu trời rực lửa, nổ tung thành những ngôi sao và những âm thanh chát chúa, những tiếng nổ làm cửa kính mọi nhà rung lên như băng mỏng trên hàng ngàn mặt hồ. Các cô dì chú bác và anh chị em họ trào nước mắt, như với một vị thầy thuốc thiên đàng nào đó. Những màu sắc của bầu trời đêm hè. Và những chiếc Đèn Trời, được một người ông chiều cháu đốt lên, giữ vững giữa hai bàn tay to mà nhẹ nhàng của ông. Ôi, ký ức về những ngọn Đèn Trời tuyệt đẹp ấy, với lớp giấy mỏng tỏa sáng ấm áp, dịu dàng phồng lên như cánh côn trùng, nằm trong hộp như những con ong bắp cày xếp cánh, và cuối cùng, sau một ngày ồn ào và dữ dội, cuối cùng chúng cũng được nhấc ra khỏi hộp, thận trọng gỡ ra, hiện lên thành ba màu quốc kỳ xanh, đỏ, trắng - Đèn Trời! Ông thấy khuôn mặt mờ ảo của những người họ hàng đã mất từ lâu, mồ nay xanh cỏ, khi ông nội thắp cây nến nhỏ xíu và để luồng không khí nóng thổi phồng quả bóng giấy lung linh trong tay mình, một ảo ảnh sáng rực mà cả hai ông cháu cùng cầm lấy, không muốn thả; vì một khi đèn được thả, sẽ lại là một năm nữa đã trôi qua, một ngày mồng Bốn nữa, một chút nữa của Cái Đẹp đã biến mất. Và rồi, cao tít trên trời, giữa những chòm sao của đêm hè ấm áp, Đèn Trời cứ tiếp tục bay, những cặp mắt đỏ-trắng-xanh dõi theo, không nói một lời, từ các hiên nhà. Bay về miền quê Illinois sâu thẳm, bay qua những dòng sông buổi đêm và những dinh thự say ngủ, Đèn Trời sẽ yếu dần rồi tắt hẳn.
Cha Peregrine cảm thấy lệ trào lên mắt. Trên đầu ông, những người sao Hỏa, không chỉ một mà dường như cả ngàn chiếc Đèn Trời đang thì thầm. Bất kỳ lúc nào ông cũng ngỡ mình sẽ thấy ông nội đầy phước lành đã mất từ lâu của mình ngồi bên cạnh, ngước lên nhìn Cái Đẹp.
Nhưng đó chỉ là cha Stone mà thôi.
“Đi thôi, Đức cha!”
“Tôi phải nói chuyện với họ.” Cha Peregrine lao tới trước, không biết phải nói gì, vì ông đã bao giờ nói gì với những chiếc Đèn Trời trong quá khứ đâu, chẳng qua chỉ nói trong tâm trí mà thôi: các người thật đẹp, các người đẹp quá, nhưng giờ như thế là không đủ. Ông chỉ biết giơ hai cánh tay nặng trĩu lên cất tiếng gọi, như ông thường muốn cất tiếng gọi những chiếc Đèn Trời kỳ diệu thuở xưa, “Xin chào!”
Nhưng những quả cầu lửa chỉ cháy rực lên như hình phản chiếu trong một tấm gương tối. Chúng có vẻ bất động, ở thể khí, kỳ ảo, vĩnh hằng.
“Chúng tôi đến đây cùng Chúa,” cha Peregrine nói vọng lên trời.
“Ngốc quá, ngốc quá, ngốc quá.” Cha Stone cắn mu bàn tay. “Nhân danh Chúa, cha Peregrine, thôi đi!”
Nhưng giờ những quả cầu phát quang đã bay trở về phía rặng đồi. Trong chớp mắt chúng đã biến mất.
Cha Peregrine lại cất tiếng gọi, và âm vang tiếng gọi cuối cùng của ông làm cả rặng đồi rung lên. Khi quay lại, ông thấy một trận lở tuyết làm bụi bắn tung lên, dừng lại, rồi, kéo theo một cơn mưa đá, lao thẳng từ trên núi xuống chỗ họ.
“Nhìn xem ông đã làm gì kìa!” cha Stone hét lên.
Cha Peregrine gần như bị mê hoặc, rồi phát hoảng. Ông quay người lại, dù biết họ chỉ có thể chạy vài bước trước khi đống đá nghiền nát họ. Ông chỉ kịp thì thào, Ôi Chúa ơi! thì đống đá đã rơi xuống!
“Đức cha!”
Họ bị chia cắt như trấu bị tách khỏi hạt lúa. Bỗng có một ánh sáng xanh long lanh, những ngôi sao bỗng dịch chuyển, một tiếng rầm, và họ thấy mình đứng trên một gờ đá cách đó sáu mươi mét, nhìn nơi mà lẽ ra xác họ đã bị chôn vùi dưới hàng tấn đá.
Ánh sáng xanh tắt ngấm.
Hai Đức cha ôm chặt lấy nhau. “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
“Những quả cầu lửa xanh đã nhấc chúng ta lên!”
“Chúng ta đã chạy kịp, có thế thôi!”
“Không, những quả cầu đã cứu chúng ta!”
“Không thể có chuyện đó!”
“Đúng mà.”
Bầu trời trống trơn. Họ có cảm giác như một quả chuông lớn vừa mới ngừng reo. Dư chấn của tiếng chuông rung vẫn còn trong răng và tủy xương họ.
“Đi khỏi đây thôi. Ông sẽ giết chúng ta mất.”
“Tôi đã không sợ chết từ nhiều năm nay rồi, cha Stone ạ.”
“Chúng ta chẳng chứng tỏ được gì cả. Những ánh sáng xanh đó đã bỏ chạy ngay khi ta lên tiếng. Thật toi công.”
“Không.” Cha Peregrine tràn đầy một cảm giác ngỡ ngàng bướng bỉnh. “Họ đã cứu ta bằng cách nào đó. Điều đó chứng tỏ họ có linh hồn.”
“Nó chỉ chứng tỏ là có thể chúng đã cứu chúng ta. Mọi chuyện lúc đó đều rối tung. Có khi chúng ta đã tự chạy thoát.”
“Họ không phải động vật, cha Stone ạ. Động vật không cứu mạng con người, nhất là người lạ. Ở chúng có lòng nhân từ và trắc ẩn. Có lẽ ngày mai chúng ta có thể chứng tỏ thêm.”
“Chứng tỏ gì chứ? Bằng cách nào?” Giờ cha Stone đã mệt nhoài; những đòn giáng vào tâm trí và cơ thể ông giờ đã hiện rõ trên khuôn mặt cứng nhắc của ông. “Bay theo chúng bằng trực thăng và đọc Kinh Thánh cho chúng ư? Chúng không phải con người. Chúng không có mắt, tai hay cơ thể như chúng ta.”
“Nhưng tôi cảm thấy ở họ có gì đó,” cha Peregrine nói. “Tôi biết chúng ta sắp có một khám phá vĩ đại. Họ đã cứu mạng chúng ta. Họ biết suy nghĩ. Họ phải chọn: để chúng ta sống hoặc chết. Điều đó chứng tỏ họ có ý chí tự do!”
Cha Stone bắt đầu nhóm lửa, chăm chăm nhìn những que củi trong tay, ho sặc sụa giữa đám khói xám. “Tôi thì sẽ mở một tu viện cho ngỗng non, một trường dòng cho giống lợn linh thiêng, và tôi sẽ xây nhà nguyện mini trong một cái kính hiển vi để trùng đế giày cũng có thể dự lễ nhà thờ và lần tràng hạt bằng tiên mao của chúng.”
“Thôi nào, cha Stone.”
“Tôi xin lỗi.” Cha Stone chớp chớp cặp mắt đỏ quạch nhìn qua đống lửa. “Nhưng chuyện này chẳng khác gì ban phước cho con cá sấu trước khi nó nuốt chửng ta. Ông đang khiến cả sứ mệnh truyền giáo này gặp nguy hiểm đấy. Chúng ta phải ở Thành Phố Đầu Tiên, rửa sạch rượu trong họng đám công nhân và gột sạch mùi nước hoa trên tay họ!”
“Ông không nhận ra nhân tính ở những sinh vật không giống người sao?”
“Tôi thà nhận ra sự mất nhân tính ở con người còn hơn.”
“Nhưng nếu tôi chứng tỏ được rằng những sinh vật này có thể mắc tội, biết thế nào là tội lỗi, biết đến một cuộc sống có sự phải trái, có ý chí tự do và trí thông minh, thì sao cha Stone?”
“Ông sẽ mất nhiều công thuyết phục đấy.”
Đêm mỗi lúc một lạnh. Vừa ăn bánh quy và dâu rừng, họ vừa nhìn đống lửa để tìm những ý nghĩ hoang dại nhất của mình, rồi chẳng bao lâu sau họ quấn mình nằm ngủ dưới những vì sao lanh canh. Và trước khi xoay mình lần cuối rồi ngủ, cha Stone, mấy phút qua mải nghĩ xem có cách nào chọc tức cha Peregrine không, liền nhìn đống than hồng mà nói, “Trên sao Hỏa không có Adam và Eve. Không có nguyên tội. Có lẽ người sao Hỏa sống trong hồng ân của Chúa. Nếu vậy ta có thể quay về thành phố bắt tay làm việc với người Trái đất được rồi.”
Cha Peregrine tự nhắc mình phải cầu nguyện cho cha Stone, vì ông ấy đã rất tức giận yà giờ đang tỏ ra hằn học, Chúa phù hộ ông ấy. “Đúng vậy, cha Stone ạ, nhưng người sao Hỏa đã giết một số người định cư của chúng ta. Như thế là có tội. Chắc hẳn phải có Nguyên Tội, và có Adam và Eve sao Hỏa. Chúng ta sẽ tìm ra họ. Tiếc thay, dù hình dạng họ ra sao, người vẫn là người, và vẫn có xu hướng mắc tội.”
Nhưng cha Stone đã giả vờ ngủ.
Cha Peregrine không nhắm mắt.
Tất nhiên họ không thể để những người sao Hỏa này xuống địa ngục, phải không? Với lương tâm trĩu nặng như vậy, liệu họ có thể trở về những thành phố mới định cư kia, thành phố đầy tội lỗi với những phụ nữ có cặp mắt lóng lánh và thân thể trắng trong như thịt hàu trửng giỡn trên giường cùng đám công nhân cô đơn không? Có phải đó mới là nơi cần đến các Đức cha không? Có phải chuyến đi lên đồi này chỉ là ý muốn cá nhân nhất thời không? Có thật ông đang nghĩ cho Nhà Thờ của Chúa không, hay ông chỉ đang muốn thỏa mãn một trí tò mò muốn hút hết mọi thứ giống như bọt biển? Những quả cầu lửa xanh biếc của Thánh Anthony ấy - chúng cháy rực trong tâm trí ông biết bao! Thật là một thử thách kỳ thú, tìm ra con người đằng sau tấm mặt nạ, tìm ra nhân tính đằng sau sinh vật không giống người. Liệu ông có kiêu ngạo không nếu ông có thể tuyên bố, dù chỉ với chính mình, rằng ông đã cải đạo được cho cả một cái bàn bi-a khổng lồ đầy những quả cầu lửa! Tội kiêu ngạo ghê gớm làm sao! Đáng phải sám hối! Nhưng thực ra người ta thường làm rất nhiều điều kiêu ngạo vì Tình yêu, và ông yêu Chúa Trời vô cùng và hạnh phúc đến nỗi ông muốn tất cả mọi người cũng hạnh phúc như vậy.
Điều cuối cùng ông nhìn thấy trước khi ngủ thiếp đi là những quả cầu lửa xanh đã quay lại, như những thiên thần sáng rực lặng lẽ hát ru đưa ông vào giấc ngủ bất an.
Những ảo mộng tròn xoe xanh biếc ấy vẫn còn trên trời khi cha Peregrine thức giấc vào sáng sớm.
Cha Stone quấn mình thành một bó cứng đơ, lặng lẽ ngủ say. Cha Peregrine vừa quan sát những người sao Hỏa đang trôi nổi vừa nhìn ông. Chúng giống người - ông biết vậy. Nhưng ông phải chứng minh được điều đó, bằng không ông sẽ phải đối mặt ngài Giám mục mắt miệng khô đét nhẹ nhàng bảo ông hãy bước sang một bên.
Nhưng làm sao chứng minh họ có nhân tính nếu họ cứ ẩn dưới những vòm trời cao tít? Làm sao đưa họ đến gần đặng tìm ra lời đáp cho hàng bao nhiêu câu hỏi?
“Họ đã cứu chúng ta khỏi vụ lở núi.”
Cha Peregrine đứng lên, đi ra giữa những tảng đá, và bắt đầu trèo lên ngọn đồi gần nhất cho tới khi ông đến bên rìa một vách núi dốc đứng cách mặt đất bên dưới hơn sáu mươi mét. Ông ngạt thở vì phải vất vả trèo lên giữa không khí buốt giá. Ông đứng đó để lấy lại hơi.
“Nếu ngã từ đây xuống, chắc chắn ta sẽ chết.”
Ông thả một viên sỏi xuống. Một lát sau nó mới chạm nền đá bên dưới đánh cạch một cái.
“Chúa sẽ không bao giờ tha thứ cho ta.”
Ông thả một viên sỏi nữa.
“Sẽ không phải là tự tử, phải không, nếu ta làm điều đó vì Tình yêu…?”
Ông ngước nhìn lên những quả cầu xanh. “Nhưng trước tiên, phải thử một lần nữa đã.” Ông cất tiếng gọi chúng: “Xin chào, xin chào!”
Tiếng gọi của ông vọng lại át lẫn nhau, nhưng những quả cầu lửa xanh không hề chấp chới hay chuyển động.
Ông nói chuyện với chúng suốt năm phút. Khi đã nói xong, ông nhìn xuống thấy cha Stone vẫn đang bướng bỉnh ngủ say ở khu trại nhỏ bên dưới.
“Ta phải chứng tỏ mọi điều.” Cha Peregrine bước đến bên miệng vực. “Ta già rồi. Ta không sợ. Chắc chắn Chúa sẽ hiểu ta làm điều này vì Người chứ?”
Ông hít một hơi thật sâu. Cả cuộc đòi hiển hiện trước mắt ông và ông nghĩ, Trong chốc lát nữa ta có chết không? Ta e rằng ta quá yêu cuộc sống. Nhưng ta còn yêu các thứ khác nhiều hơn.
Nghĩ đoạn, ông liền bước khỏi miệng vực.
Ông rơi xuống.
“Đồ ngốc!” ông hét lên. Ông lộn nhào. “Mi nhầm rồi!” Những tảng đá lao vùn vụt về phía ông và ông tưởng tượng ra cảnh mình đập vào đó và về chầu trời. “Sao ta lại làm thế này?” Nhưng ông đã biết câu trả lời, và một thoáng sau ông đã bình tĩnh trở lại. Gió gào thét quanh ông và đá lao lên đón ông.
Thế rồi những ngôi sao bỗng dịch chuyển, ánh lửa xanh bỗng lóe lên, và ông thấy mình đang được nâng lên, xung quanh là ánh sáng xanh. Một lát sau ông được nhẹ nhàng đặt xuống nền đá, nơi ông ngồi suốt một hồi lâu, hoàn toàn nguyên vẹn, sờ nắn mình, và ngước lên nhìn những ánh sáng xanh đã lập tức biến mất.
“Các người đã cứu ta!” ông thì thào. “Các người không chịu để ta chết. Các người biết như thế là sai trái.”
Ông chạy tới chỗ cha Stone vẫn đang nằm yên ngủ say. “Cha Stone, cha Stone, dậy đi!” Ông lắc cha Stone và đánh thức ông ta. “Cha Stone, chúng đã cứu tôi!”
“Ai đã cứu ông cơ?” cha Stone hấp háy mắt hỏi.
Cha Peregrine kể lại điều mình vừa trải qua.
“Chỉ là một giấc mơ, một cơn ác mộng thôi; ngủ lại đi,” cha Stone bực dọc nói. “Ông và đám bóng bay rạp xiếc của ông.”
“Nhưng tôi hoàn toàn tỉnh táo mà!”
“Thôi nào, Đức cha, bình tĩnh lại đi. Thôi nào.”
“Ông không tin tôi sao? Ông có súng không? À có, kia rồi, đưa cho tôi.”
“Ông định làm gì?” Cha Stone trao cho ông khẩu súng lục nhỏ họ đem theo để bảo vệ mình khỏi rắn rết hoặc những con vật nguy hiểm tương tự.
Cha Peregrine chộp lấy khẩu súng. “Tôi sẽ chứng tỏ cho ông xem!”
Ông chĩa súng vào tay mình và bóp cò.
“Dưng lại!”
Một ánh sáng lung linh lóe lên và trước mắt họ, viên đạn đang nằm giữa không khí, cách lòng bàn tay mở rộng của ông chừng hai phân. Nó lơ lửng ở đó một lát, bao quanh là một quầng sáng xanh. Rồi nó xèo xèo rơi xuống đất.
Cha Peregrine nổ súng ba lần - vào tay, vào chân, vào người mình. Ba viên đạn nằm lơ lửng lấp lánh, rồi rơi xuống chân họ như những con côn trùng đã chết.
“Ông thấy chưa?” cha Peregrine nói, hạ tay xuống và buông rơi khẩu súng theo những viên đạn. “Họ biết. Họ hiểu. Họ không phải thú vật. Họ biết suy nghĩ, phán xét và sống có đạo đức. Loài vật nào lại cứu tôi như thế này? Không loài vật nào làm như vậy cả. Chỉ có con người mà thôi, cha Stone ạ. Giờ ông đã tin chưa?”
Cha Stone đang quan sát bầu trời và những đốm sáng xanh, và rồi, ông lặng lẽ quỳ một gối xuống nhặt những viên đạn còn nóng, đặt vào lòng bàn tay. Ông nắm chặt tay lại.
Mặt trời đang mọc sau lưng họ.
“Tôi nghĩ chúng ta nên đi xuống chỗ những người khác, kể cho họ nghe chuyện này và đưa họ quay lại đây,” cha Peregrine nói.
Khi mặt trời lên cao, họ đã về gần đến chỗ phi thuyền.
Cha Peregrine vẽ một hình tròn lên giữa tấm bảng đen.
“Đây là Chúa Cứu Thế, con trai của Chúa Trời.”
Ông giả vờ không nghe thấy các Đức cha khác hít mạnh một hoi.
“Đây là Chúa Cứu Thế giữa tất cả Hiển Vinh của người,” ông nói tiếp.
“Nhìn như một bài toán hình học ấy,” cha Stone nhận xét.
“Một so sánh rất hay, vì chúng ta đang sử dụng các biểu tượng. Các cha phải thừa nhận rằng Chúa Cứu Thế không hề kém phần thiêng liêng dù được biểu hiện bằng một hình tròn hay một hình vuông. Suốt bao nhiêu thế kỷ nay, cây thập giá đã là biểu tượng cho tình yêu và nỗi đau của người. Vì vậy hình tròn này sẽ là Chúa Cứu Thế của sao Hỏa. Chúng ta sẽ đưa Người đến với sao Hỏa bằng cách này.”
Các Đức cha khác bực bội cựa mình và nhìn nhau.
“Ông, Đạo hữu Mathias, sẽ tái tạo hình tròn này bằng thủy tinh, một quả cầu đầy lửa sáng. Nó sẽ được đặt trên bàn thờ.”
“Trò ảo thuật rẻ tiền,” cha Stone lầm bầm.
Cha Peregrine kiên nhẫn nói tiếp: “Ngược lại là khác. Chúng ta đang đem Chúa đến cho họ trong một hình ảnh dễ hiểu. Nếu Jesus đến với chúng ta trên Trái đất trong hình dạng một con bạch tuộc, liệu chúng ta có chấp nhận người dễ dàng đến thế không?” Ông xòe tay ra. “Có phải là một trò ảo thuật rẻ tiền không khi Chúa đưa Jesus đến cho chúng ta trong hình dạng con người? Sau khi chúng ta đã ban phước cho nhà thờ do chúng ta xây dựng ở đây và thánh hóa bàn thờ ở đó cùng biểu tượng này, các cha nghĩ Chúa sẽ từ chối hiển hiện trong hình dạng trước mặt chúng ta đây ư? Trong thâm tâm, các cha biết rằng Người sẽ không từ chối.”
“Nhưng thân xác của một con vật vô hồn!” Đạo hữu Mathias nói.
“Chúng ta đã nhắc đi nhắc lại chuyện đó rất nhiều lần rồi, kể từ khi chúng tôi về lúc sáng nay, Đạo hữu Mathias ạ. Những sinh vật này đã cứu chúng tôi khỏi trận lở núi. Họ biết rằng tự hủy hoại mình là việc sai trái và liên tục ngăn cản điều đó. Vì vậy chúng ta phải xây nhà thờ trên đồi, sống với họ, tìm hiểu những tội lỗi đặc biệt của họ, tội lỗi của người ngoài hành tinh, và giúp họ tìm đến Chúa.”
Các Đức cha khác có vẻ không thích thú gì viễn cảnh đó.
“Có phải vì nhìn họ quá kỳ lạ không?” cha Peregrine hỏi. “Nhưng hình dạng là gì? Chỉ là vật chứa đựng linh hồn rực sáng mà Chúa đã ban cho tất cả chúng ta. Nếu ngày mai tôi phát hiện ra sư tử biển bỗng có ý chí tự do, trí thông minh, biết không được mắc tội gì, biết sự sống là gì, biết dung hòa công lý với nhân từ và làm cuộc sống dịu hơn nhờ tình yêu, thì tôi sẽ xây thánh đường dưới biển. Và nếu ngày mai chim sẻ bỗng nhiên có được linh hồn bất diệt theo ý Chúa, thì tôi sẽ nâng một nhà thờ lên không bằng khí helium và thu nhận chúng, vì mọi linh hồn, cho dẫu trong hình dạng nào, nếu có ý chí tự do và biết được tội lỗi của mình, đều sẽ bị thiêu dưới hỏa ngục trừ phi được nhận lễ ban thánh thể đúng phép. Tôi cũng sẽ không để một quả cầu sao Hỏa phải thiêu dưới hỏa ngục chỉ vì trong mắt tôi nó không là gì hơn một quả cầu. Khi tôi nhắm mắt lại thì trước mặt tôi là một trí thông minh, một tình yêu, một linh hồn - và tôi không thể chối bỏ nó.”
“Nhưng quả cầu thủy tinh ông định đặt lên bàn thờ,” cha Stone phản đối.
“Hãy nghĩ về người Trung Quốc mà xem,” cha Peregrine đáp, không hề nao núng. “Người Công giáo Trung Quốc thờ vị Chúa như thế nào? Một vị Chúa Đông phương, tất nhiên rồi. Các cha đều đã thấy những cảnh Chúa Giáng sinh kiểu Đông phương rồi đó. Chúa ăn mặc như thế nào? Người mặc áo choàng kiểu phương Đông. Người đi ở đâu? Giữa cảnh trí Trung Hoa, trong rừng trúc, với ngọn núi mờ sương và cây cổ thụ cong queo. Mắt Người một mí, gò má Người cao. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều thêm vào chút gì đó cho Chúa. Tôi nhớ tới Đức Mẹ Đồng Trinh ở Guadalupe, mà cả nước Mexico tôn thờ. Da của người? Các cha có để ý các bức tranh vẽ Người không? Người có làn da sẫm màu, như các con chiên của Người. Đó có phải là báng bổ không? Không hề. Không họp lý chút nào khi con người lại phải chấp nhận một vị Chúa có màu da khác, dù Người có thật đến đâu đi nữa. Tôi thường tự hỏi làm sao các nhà truyền giáo của chúng ta lại thành công ở châu Phi với một vị Chúa trắng như tuyết. Có lẽ bỏi vì màu trắng, màu của người bạch tạng, hoặc bất kỳ dạng nào khác, là màu linh thiêng với các bộ tộc châu Phi. Phải chăng là với thời gian, Chúa ở châu Phi cũng dần dần có nước da đen? Hình thức không quan trọng. Cái chứa đựng bên trong mới quan trọng. Chúng ta không thể mong những người sao Hỏa này chấp nhận một hình thù khác lạ. Chúng ta sẽ cho họ Chúa trong hình dạng của chính họ.”
“Lý lẽ của ông có chút sai lệch đấy, Đức cha,” cha Stone nói. “Liệu người sao Hỏa có nghĩ rằng chúng ta đạo đức giả không? Họ sẽ nhận ra rằng chúng ta không thờ một vị Chúa hình cầu, mà thờ một người có tay chân và đầu. Khác biệt đó, chúng ta biết giải thích thế nào đây?”
“Bằng cách cho thấy không có sự khác biệt nào cả. Dù là cơ thể hay quả cầu thì Người cũng có mặt ở đây, và mỗi chúng ta thờ phụng Người trong một hình dạng khác nhau. Hơn nữa, chúng ta phải tin vào quả cầu mà chúng ta đem tới cho người sao Hỏa. Chúng ta phải tin vào một hình thù vốn cũng vô nghĩa đối với chúng ta như hình thù của chúng ta đối với họ. Quả cầu này sẽ là Chúa. Và chúng ta phải nhớ rằng chính chúng ta và hình dạng của Chúa trên Trái đất của chúng ta sẽ là vô nghĩa, kỳ cục, một sự phí hoài vật chất đối với những người sao Hỏa này.”
Cha Peregrine đặt viên phấn sang bên. “Giờ chúng ta hãy lên đồi và cùng xây nhà thờ.”
Các Đức cha bắt đầu sắp xếp đồ đạc.
***
Nhà thờ không phải một nhà thờ thực sự mà chỉ là một khoảng trống được dọn sạch sỏi đá, một chỗ đất bằng trên một trong các quả núi thấp, mặt đất được san phẳng và quét sạch, và một bàn thờ được dựng, nơi Đạo hữu Mathias đặt lên quả cầu rực lửa ông đã làm.
Sau sáu ngày làm việc, “nhà thờ” đã sẵn sàng.
“Chúng ta nên làm gì với cái này đây?” Cha Stone gõ lên một quả chuông sắt họ đã đem theo. “Quả chuông thì có nghĩa gì với họ?”
“Có lẽ tôi đem nó theo để an ủi chính chúng ta,” cha Peregrine thừa nhận. “Chúng ta cần chút gì đó quen thuộc. Nhà thờ này rất giống một nhà thờ rồi. Và chúng ta có vẻ hơi kỳ cục ở đây. Ngay cả tôi cũng vậy; vì đây là một điều mới lạ, cải đạo cho những sinh vật của một thế giới khác. Có lúc tôi cảm thấy mình là một diễn viên lố lăng. Và khi đó tôi cầu Chúa ban cho tôi sức mạnh.”
“Nhiều Đức cha không vui chút nào. Một số còn đùa cợt về tất cả chuyện này nữa đấy, cha Peregrine ạ.”
“Tôi biết. Chúng ta sẽ treo quả chuông này lên một tòa tháp nhỏ, ít ra là để an ủi họ.”
“Thế còn cây đàn oóc?”
“Chúng ta sẽ chơi trong buổi lễ đầu tiên, ngày mai.”
“Nhưng người sao Hỏa…”
“Tôi biết. Nhưng chắc đó cũng là để an ủi chúng ta, vì đó là âm nhạc của chúng ta. Sau này chúng ta có thể sẽ khám phá ra âm nhạc của họ.”
***
Sáng Chủ nhật, họ dậy rất sớm và đi qua bầu không khí lạnh giá như những bóng ma nhợt nhạt, sương muối lanh tanh trên áo chùng; người họ phủ đầy chuông, vừa đi vừa rũ xuống từng trận mưa ánh bạc.
“Tôi không biết hôm nay có phải Chủ nhật trên sao Hỏa không?” cha Peregrine trầm ngâm nói, nhưng khi thấy cha Stone nhăn mặt, ông vội nói tiếp, “Có thể thứ Ba hoặc thứ Năm, ai biết được? Nhưng không sao. Chỉ là tưởng tượng vớ vẩn của tôi thôi. Với chúng ta hôm nay là Chủ nhật. Đi nào.”
Các Đức cha tiến vào khoảng trống bằng phảng, rộng rãi của “nhà thờ” và quỳ xuống, run rẩy, môi tím tái vì lạnh.
Cha Peregrine đọc một lời cầu nguyện ngắn và đặt những ngón tay giá buốt lên phím đàn. Tiếng nhạc vang lên như bầy chim tuyệt đẹp. Ông chạm vào phím đàn như một người lướt tay qua đám cỏ trong khư vườn hoang dại, làm bầy chim đẹp đẽ giật mình bay vụt lên đồi cao.
Âm nhạc làm bầu không khí trở nên yên ả. Khắp nơi là mùi tươi mới của buổi sáng. Âm nhạc len lỏi lên núi và thả xuống một đám bụi khoáng.
Các Đức cha chờ đợi.
“Thế nào, cha Peregrine.” Cha Stone nhìn lên bầu trời trống không nơi mặt trời đang mọc lên, đỏ rực như lò lửa. “Tôi không thấy các bạn của chúng ta đâu cả.”
“Để tôi thử lại lần nữa.” Cha Peregrine đang toát mồ hôi hột.
Ông dựng nên một công trình kiến trúc tuyệt mỹ, từng viên đá một, xây nên một thánh đường âm nhạc mênh mông đến nỗi những nhà nguyện xa xôi nhất của nó kéo dài tới tận Nineveh, các mái vòm xa xôi nhất của nó vươn tới tận cánh bên trái của nhà thờ Thánh Peter. Âm nhạc đứng vững và không hề đổ sụp ngay cả khi ông ngừng chơi, mà hòa quyện vào một vầng mây trắng và được đưa tới những miền xa xôi khác.
Bầu trời vẫn trống trơn.
“Họ sẽ đến!” Nhưng cha Peregrine bắt đầu cảm thấy nỗi hốt hoảng trong lồng ngực, còn rất nhỏ nhưng đang lớn dần. “Chúng ta hãy cầu nguyện. Chúng ta hãy mòi họ tới. Họ biết đọc ý nghĩ; họ sẽ hiểu.”
Các Đức cha lại quỳ xuống giữa những tiếng loạt soạt và rì rầm. Họ cầu nguyện.
Và ở đằng Đông, giữa những rặng núi phủ băng vào lúc bảy giờ sáng Chủ nhật hoặc cũng có thể sáng thứ Năm hoặc sáng thứ Hai trên sao Hỏa, những quả cầu lửa sáng dịu xuất hiện.
Chúng lơ lửng rồi hạ xuống và tỏa sáng khắp xung quanh các linh mục đang run rẩy. “Tạ ơn Người; ôi, xin tạ ơn Chúa.” Cha Peregrine nhắm nghiền mắt tiếp tục chơi nhạc, và khi chơi xong ông quay lại rồi nhìn giáo đoàn kỳ diệu của mình.
Và một giọng nói chạm vào trí óc ông, nói rằng:
“Chúng ta chỉ đến một lát thôi.”
“Các vị cứ tự nhiên ở lại,” cha Peregrine nói.
“Chỉ một lát thôi,” giọng nói khẽ đáp lại. “Chúng ta đến để nói với các vị một số điều. Lẽ ra chúng ta phải lên tiếng sớm hơn. Nhưng chúng ta đã mong rằng các vị sẽ bỏ đi nếu chúng ta để các vị yên.”
Cha Peregrine mở miệng, nhưng giọng nói ngăn ông lại.
“Bọn ta là loài Cổ Xưa,” giọng nói vang lên, xuyên qua người ông như một quầng khí xanh và nóng rực trong các ngóc ngách tâm trí ông. “Bọn ta là những người sao Hỏa cổ đại, đã rời khỏi các đô thành đá hoa cương của bọn ta mà đi lên đồi núi, từ bỏ cuộc sống vật chất. Cách đây lâu lắm, bọn ta trở thành những sinh vật như hiện nay. Trước kia bọn ta cũng là người, cũng có thể xác và tay chân như các vị. Truyền thuyết kể rằng một người trong bọn ta, một người tốt, đã tìm ra cách giải thoát cho linh hồn và trí não con người, để giải thoát cho con người khỏi những bệnh tật và u uất, khỏi cái chết và dị dạng, khỏi bực dọc và lão suy, vì vậy sau đó bọn ta đã mượn hình dạng của chớp và lửa xanh để sống đời đời giữa gió và trời và đồi núi, không tự hào không kiêu ngạo, không giàu có không nghèo khổ, không nồng nhiệt không lạnh lùng. Bọn ta sống cách xa những người bọn ta đã bỏ lại phía sau, những người còn lại của thế giới này, và bằng cách nào bọn ta trở thành thế này, người ta đã lãng quên, quá trình đó đã bị mai một; nhưng bọn ta không bao giờ chết, cũng không bao giờ hại ai. Bọn ta đã rời bỏ tội lỗi của thể xác và sống trong hồng ân của Chúa. Bọn ta không thèm của cải của ai; bọn ta không có của cải. Bọn ta không trộm cắp, giết chóc, dâm ô hay căm ghét. Bọn ta sống hạnh phúc. Bọn ta không thể sinh sản; bọn ta không ăn, không uống, không gây chiến. Mọi khoái cảm, mọi sự non nớt và tội lỗi của thể xác đã được gột bỏ khi bọn ta buông bỏ thể xác của mình. Bọn ta đã bỏ tội lỗi lại phía sau, cha Peregrine ạ, tội lỗi đã bị đốt cháy như lá mùa thu, đã tan biến như lớp tuyết bẩn của một mùa đông khắc nghiệt, đã tàn lụi như những bông hoa dục tính của một mùa xuân đỏ-và-vàng, đã biến mất như những đêm hè nóng nực hổn hển, và các mùa của bọn ta đều ôn hòa và khí hậu của bọn ta dồi dào trong ý nghĩ.”
Cha Peregrine đã đứng dậy, vì giọng nói kia chạm vào ông ở một cao độ mạnh đến mức gần như khuấy động các giác quan của ông. Như thể một cơn nhập định và một luồng lửa đang tràn qua cơ thể ông.
“Chúng ta muốn cho các vị biết chúng ta rất biết ơn các vị vì đã xây dựng nơi này cho chúng ta, nhưng chúng ta không cần đến nó, vì mỗi chúng ta là một ngôi đền và không cần nơi nào để tự tẩy trần nữa. Hãy thứ lỗi cho chúng ta vì đã không đến sớm hơn; nhưng chúng ta ở riêng rẽ và cách nhau rất xa, và đã không nói chuyện với ai suốt hàng vạn năm nay, cũng như chúng ta đã không hề can thiệp vào cuộc sống trên hành tinh này. Giờ tâm trí các vị sẽ thấy chúng ta như những đóa huệ trên đồng; chúng ta không phải vất vả hay xoay xở. Các vị đã đúng. Và vì vậy chúng ta đề nghị các vị hãy đem ngôi đền này vào các thành phố mới của các vị và tẩy trần cho những người khác ở đó. Bởi vì, xin hãy yên lòng, chúng ta rất hạnh phúc và yên bình.”
Các Đức cha đang quỳ gối giữa quầng sáng xanh khổng lồ, và cha Peregrine cũng quỳ xuống, rồi tất cả họ cùng òa khóc, vì mặc dù họ đã phí phạm thời gian, điều đó không hề quan trọng, không quan trọng chút nào.
Những quả cầu xanh rì rầm rồi lại bắt đầu bay lên, giữa một hơi gió mát.
“Tôi có thể,” cha Peregrine kêu lên, không dám hỏi, mắt vẫn nhắm nghiền, “tôi có thể quay lại một ngày kia để học hỏi từ các vị không?”
Những quả cầu lửa cháy rực. Không khí rung chuyển.
Được. Một ngày kia ông có thể quay lại. Một ngày kia.
Rồi những chiếc Đèn Trời bay đi và biến mất, và ông lại là một đứa trẻ, quỳ gối, nước mắt giàn giụa, nức nở một mình, “Quay lại đi, quay lại đi!” Và ông nội sắp bế ông lên đưa về buồng ngủ trong một thị trấn ở Ohio xa xưa…
Họ rời khỏi rặng đồi lúc mặt trời lặn. Cha Peregrine quay lại nhìn và thấy những ngọn lửa xanh tỏa sáng. Không, ông thầm nghĩ, chúng tôi không thể xây nhà thờ cho các người. Các người chính là Cái Đẹp. Nhà thờ nào có thể sánh với ánh sáng của những linh hồn thuần khiết?
Cha Stone im lặng đi cạnh ông. Rồi cuối cùng ông lên tiếng:
“Theo như tôi nghĩ, trên mọi hành tinh đều có Chân lý. Tất cả đều là một phần của Chân lý Lớn. Một ngày nào đó tất cả sẽ khít vào với nhau như từng miếng trong bộ xếp hình. Đây quả là một trải nghiệm không ngờ. Tôi sẽ không bao giờ hồ nghi nữa, cha Peregrine ạ. Vì Chân lý ở đây cũng đúng như Chân lý trên Trái đất, và hai nơi này nằm cạnh nhau. Và chúng ta sẽ đến các thế giới khác, thêm vào từng phần của Chân lý cho tới khi cả Tổng thể sẽ hiện ra trước chúng ta như ánh ngày mới rạng.”
“Ông nói thế thật ý nghĩa, cha Stone.”
“Giờ tôi gần như lấy làm tiếc rằng chúng ta lại quay về thành phố để gặp đồng loại. Còn những ánh sáng xanh kia. Khi họ bao quanh chúng ta, và giọng nói đó…” Cha Stone rùng mình.
Cha Peregrine với tay ra nắm lấy tay cha Stone. Họ đi cùng nhau.
“Và ông biết không,” cha Stone nói, nhìn Đạo hữu Mathias đang đi trước, tay ôm quả cầu thủy tinh, quả cầu thủy tinh với ánh sáng lân tinh xanh đòi đòi tỏa sáng bên trong, “ông biết không, cha Peregrine, quả cầu đó…”
“Sao cơ?”
“Đó chính là Người. Chính là Người.”
Cha Peregrine mỉm cười, và họ cùng xuống đồi, đi về phía thành phố mới.