- V - Những từ đứt đoạn
Tiến sĩ Fell là người trả lời. Ông đang đứng quay lưng vào lò sưởi, hắt cái bóng to lớn mặc áo choàng đen lên khoảng tường dưới hai thanh liễu kiếm gác chéo nhau và tấm huy hiệu. Ông đứng đó trông có vẻ khá hợp. Nhìn ông giống như một nam tước thời phong kiến, với các giá sách và tượng bán thân bằng cẩm thạch trắng vươn cao hai bên. Nhưng trông ông không hung tợn như nam tước Front de Boeuf. Đôi kính của ông trễ xuống mũi khi ông cắn đuôi điếu xì gà, rồi quay sang khéo léo khạc nó vào lò sưởi.
“Thưa bà,” ông nói, quay đầu lại, mũi phát ra một âm thanh thách thức, giống như tiếng hô xung trận vậy, “chúng tôi sẽ không giữ bà ở đây lâu đâu. Và công bằng mà nói tôi không hề nghi ngờ câu chuyện của bà, cũng như tôi không nghi ngờ câu chuyện của anh Mills. Trước khi vào vấn đề, tôi sẽ chứng minh là tôi tin bà… Thưa bà, bà có nhớ tối nay tuyết ngừng rơi lúc mấy giờ không?”
Bà ta nhìn ông bằng đôi mắt sáng, cứng rắn và dè chừng. Bà chắc chắn đã nghe danh tiến sĩ Fell.
“Có quan trọng không? Tôi nghĩ là vào khoảng 9 rưỡi. Đúng! Tôi nhớ là vì khi tôi lên tầng dọn khay cà phê của Charles, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy tuyết đã ngừng rơi. Chi tiết đó có quan trọng không?”
“Rất quan trọng là khác, thưa bà. Nếu không thì vụ án chúng ta chỉ bất khả thi có một nửa… và bà nói đúng đấy. Hừm. Nhớ không, Hadley? Tuyết ngừng rơi vào khoảng 9 rưỡi. Phải không, Hadley?”
“Phải,” ngài chánh thanh tra cấp cao thừa nhận. Ông cũng nhìn tiến sĩ Fell với vẻ nghi ngờ. Kinh nghiệm bảo ông là không nên tin vào cái ánh nhìn thờ ơ trên cái cằm chảy ngấn đó. “Cứ cho là 9 rưỡi đi, thì sao?”
“Tuyết không chỉ ngừng rơi 40 phút trước khi vị khách của chúng ta trốn thoát khỏi căn phòng này,” vị tiến sĩ tiếp tục, với vẻ trầm tư, “mà nó còn ngừng rơi 15 phút trước khi hắn ta đến đây. Có phải không, thưa bà? Hắn ta rung chuông cửa lúc 10 giờ kém 15 đúng không? Tốt… Giờ Hadley này, ông còn nhớ chúng ta đến lúc mấy giờ không? Ông có để ý rằng khi ông, Rampole và chàng trai trẻ Mangan xông vào nhà, thì không hề có một dấu chân nào trên bậc thang dẫn lên cửa chính, cũng như vỉa hè dẫn lên bậc thang không? Tôi thì có đấy. Tôi còn đứng lại đó để khẳng định chắc chắn điều đó.”
Hadley gầm lên nghèn nghẹn, bật thẳng người lên. “Chúa ơi! Đúng như vậy! Toàn bộ vỉa hè cũng không dấu chân. Nó…” Ông dừng lại đi chầm chậm vòng quanh bà Dumont. “Vậy theo ông, đó là bằng chứng cho thấy ông tin vào câu chuyện của bà ấy? Fell, ông cũng phát điên rồi sao? Chúng ta nghe câu chuyện về một người đàn ông rung chuông cửa và đi vào nhà qua cánh cửa bị khóa 15 phút sau khi tuyết ngừng rơi, vậy mà…”
Tiến sĩ Fell mở mắt ra. Một tràng cười khúc khích chạy dọc theo đường viền áo gi lê của ông.
“Sao ông lại sửng sốt thế, ông bạn? Có vẻ như hắn đã lướt ra khỏi đây mà không để lại một dấu chân nào. Tại sao ông lại thấy khó chịu khi biết hắn cũng lướt vào?”
“Tôi không biết,” Hadley thừa nhận nhưng vẫn không chịu thua. “Nhưng, đợi đã, có lí do để tôi khó chịu! Theo kinh nghiệm của tôi với những vụ giết người trong phòng kín, đi vào và đi ra là hai chuyện khác hẳn nhau. Thế giới quan của tôi sẽ bị đảo lộn mất nếu tôi phát hiện ra một tình huống bất khả thi theo cả hai chiều như vậy. Đừng bận tâm! Ông nói…”
“Xin hãy nghe tôi, tôi thề,” bà Dumont chen vào, mặt nhợt nhạt nhưng hai bên hàm hằn rõ những bó cơ, “rằng những gì tôi nói hoàn toàn đúng sự thật, nên xin Chúa hãy giúp tôi!”
“Và tôi tin bà,” tiến sĩ Fell nói. “Bà đừng để cái óc Scotland phán đoán cứng nhắc của Hadley làm bà sợ. Ông ta cũng sẽ tin bà, trước khi tôi xong việc với ông ta. Nhưng ý tôi là thế này. Tôi đã cho bà thấy, phải không, là tôi có niềm tin mạnh mẽ vào bà, vì tôi tin vào những gì bà đã nói? Rất tốt. Tôi chỉ muốn bà đừng làm mất niềm tin đó. Tôi không mơ đến việc nghi ngờ những gì bà đã kể với tôi. Nhưng tôi nghĩ là tôi sẽ rất nghi ngờ những gì bà sắp kể.”
Hadley nhắm hờ một mắt. “Biết ngay là thế mà. Tôi luôn sợ lúc ông bắt đầu trưng ra những cái nghịch lí khỉ gió của ông. Nghiêm túc nào, bây giờ…”
“Làm ơn hãy tiếp tục,” người phụ nữ nói một cách lãnh đạm.
‘ Hừm. Hà. Cảm ơn. Bây giờ, thưa bà, bà đã làm quản gia cho ông Grimaud được bao lâu rồi? Không, tôi sẽ thay đổi câu hỏi. Bà đã đi theo ông ta bao lâu rồi?”
“Hơn 25 năm,” bà ta trả lời. “Tôi đã từng… còn hơn cả quản gia của ông ấy.”
Bà ta đang nhìn xuống các ngón tay đang đan vào nhau và đung đưa, nhưng giờ bà ngẩng đầu lên. Ánh mắt của bà cứng rắn và vững vàng như thể bà đang tự hỏi xem mình dám kể đến đâu. Đó là biểu hiện của một người đang từ trong góc ngó ra nhìn kẻ thù, sẵn sàng cho một trận chiến ngay tức thì.
“Tôi sẽ kể cho các ông,” bà lặng lẽ nói tiếp, “với hi vọng là các ông hứa với tôi là sẽ giữ kín mọi chuyện. Các ông có thể tìm thấy thông tin này trong hồ sơ người nước ngoài ở phố Bow, và các ông có thể sẽ gây ra những rắc rối không cần thiết mà chẳng để làm gì. Chuyện này không phải chỉ vì tôi, xin các ông hiểu cho. Rosette Grimaud là con gái tôi. Nó được sinh ra ở đây, và chắc chắn sẽ có hồ sơ. Nhưng nó không biết… không ai biết cả. Xin các ông, xin các ông, tôi có thể tin rằng các ông sẽ giữ im lặng không?”
Ánh mắt bà ta thay đổi. Bà ta không lên giọng, nhưng sự khẩn nài hiện diện trong ngữ điệu của bà.
“Tại sao chúng tôi lại không giữ lời hứa chứ, thưa bà,” tiến sĩ Fell nói, nếp nhăn hiện lên trên trán, “tôi thấy đó không phải là việc của chúng tôi. Bà nói tiếp được không? Chúng tôi chắc chắn sẽ không tiết lộ chuyện đó.”
“Ông nói thật chứ?”
“Thưa bà,” vị tiến sĩ nói nhã nhặn, “tôi không biết cô gái trẻ đó, nhưng tôi dám cá một đồng sáu xu là bà đang lo lắng một cách vô ích rồi, và cả hai người đã lo lắng một cách vô ích trong nhiều năm trời. Có lẽ cô ấy đã biết bà là mẹ cô ấy. Con cái nhạy cảm lắm. Và cô ấy đang cố giấu bà điều đó. Cả thế giới xáo trộn vì chúng ta cứ vờ như những người dưới 20 tuổi đều không có chút cảm xúc nào, và những người trên 40 tuổi chưa từng có cảm xúc. Hãy quên nó đi. Được chứ?” Ông tươi cười. “Điều tôi muốn hỏi bà là, bà gặp ông Grimaud lần đầu tiên ở đâu? Trước khi đến nước Anh à?”
Bà ta thở nặng nề và trả lời một cách lơ đãng như thể đang nghĩ đến chuyện khác.
“Vâng, ở Paris.”
“Bà là người Paris?”
“Ơ… cái gì? Không, không, tôi không sinh ra ở đó! Tôi là dân tỉnh. Nhưng tôi đang làm việc ở đó khi gặp ông ấy. Tôi là người làm y phục sân khấu.”
Hadley ngẩng đầu lên trong khi đang ghi chép vào sổ tay. “Làm y phục sân khấu?” ông ấy nhắc lại. “Ý bà là thợ may đúng không?”
“Không, không, tôi biết những gì tôi nói. Tôi là một trong những người làm phục trang cho các vở opera và ballet. Chúng tôi làm việc cho chính đoàn opera. Ông có thể tìm thấy hồ sơ chứng minh! Và để tiết kiệm thời gian cho ông, tôi nói luôn là tôi chưa bao giờ lấy chồng và tên thời con gái của tôi là Ernestine Dumont.”
“Còn Grimaud?” tiến sĩ Fell hỏi ngay. “Ông ta từ đâu tới?”
“Từ miền nam nước Pháp, tôi nghĩ thế. Nhưng ông ấy học ở Paris. Gia đình ông ấy đã mất cả, nên họ không giúp gì được cho ông. Ông ấy hưởng gia sản thừa kế của họ.”
Những câu hỏi thông thường này đáng lí không thể làm cho bầu không khí trong phòng trở nên căng thẳng như thế này. Ba câu hỏi tiếp theo của tiến sĩ Fell lạ thường đến nỗi Hadley phải ngẩng đầu lên nhìn ông trân trối, và Ernestine Dumont, người đã bình tĩnh lại, cũng phải xoay người một cách khó chịu, ánh mắt ánh lên vẻ thận trọng.
“Bà theo tôn giáo gì, thưa bà?”
“Tôi theo thuyết nhất thể. Thì sao?”
“Hừm. Vâng. Ông Grimaud đã bao giờ đến Mỹ, hay có bạn bè gì ở đó không?”
“Chưa bao giờ. Và tôi không biết người bạn nào của ông ấy ở đó cả.”
“Cụm từ ‘bảy ngọn tháp’ có ý nghĩa gì với bà không, thưa bà?”
“Không!” Ernestine Dumont hét lên, và mặt trắng nhợt ra.
Tiến sĩ Fell, vừa mới châm xì gà xong, chớp mắt nhìn bà sau làn khói. Ông chậm chạp bước ra khỏi thảm lò sưởi và đi vòng quanh sofa, làm bà ta co người lại. Nhưng ông ta chỉ cầm gậy chỉ vào bức tranh lớn, lần theo dãy núi màu trắng ở bối cảnh của bức tranh.
“Tôi sẽ không hỏi xem liệu bà có biết bức tranh này đại diện cho cái gì,” ông tiếp tục, “nhưng tôi sẽ hỏi bà rằng Grimaud có nói gì với bà khi mua nó không. Bức tranh này thì có bùa ngải gì được chứ? Nó có sức mạnh gì để giúp ông ta tránh đạn hoặc mắt quỷ? Nó có sức nặng thế nào để gây ảnh…” Ông dừng lại, giống như vừa nhớ lại điều gì đó hơn là giật mình. Rồi ông vươn người ra, thử khò khè, nhấc bức tranh lên khỏi sàn bằng một tay, rồi tò mò xoay nó từ bên này qua bên kia. “Ôi, mũ của tôi!” tiến sĩ Fell nói với vẻ cực kì lơ đãng, rồi kêu to lên, “Ôi Chúa ơi! Ôi Bacchus!”
“Gì vậy?” Hadley hỏi, nhảy về phía trước. “Ông thấy cái gì à?”
“Không, tôi không thấy gì cả,” Fell phủ nhận. “Vấn đề là ở chỗ đó. Vâng, thưa bà?”
“Tôi nghĩ,” người phụ nữ nói với giọng run rẩy, “ông là người kì lạ nhất mà tôi từng gặp. Không. Tôi không biết thứ đó để làm gì. Charles không nói gì với tôi. Ông ấy chỉ gầm gừ và cười khùng khục trong họng. Tại sao ông không hỏi tay họa sĩ ấy? Burnaby đã vẽ nó. Có lẽ ông ta biết. Nhưng các ông chẳng làm điều gì hợp lí cả. Trông nó như bức ảnh của một đất nước không tồn tại.”
Tiến sĩ Fell gật đầu nghiêm nghị. “Tôi e là bà nói đúng, thưa bà. Tôi không nghĩ nó tồn tại. Và nếu có ba người bị chôn ở đó thì thật khó để tìm ra họ, đúng không nhỉ?”
“Ông đừng nói lảm nhảm nữa được không?” Hadley quát lên. Nhưng rồi Hadley sửng sốt khi thấy những lời nhảm nhí đó như giáng một cú đấm vào bà Dumont. Bà ta phải đứng lên để che giấu sức ảnh hưởng của những từ vô nghĩa đó đến bản thân bà.
“Tôi đi đây,” bà ta nói. “Các ông không thể ngăn cản được tôi. Các ông điên hết rồi. Ngồi đây nói lảm nhảm trong khi để Pierre Fley tẩu thoát. Tại sao các ông không truy đuổi hắn ta? Tại sao các ông không làm gì đó đi chứ?”
“Vì như bà thấy đấy, thưa bà, chính Grimaud đã nói Pierre Fley không làm việc đó.” Trong lúc bà ta đang nhìn chằm chằm vào mình, tiến sĩ Fell thả bức tranh xuống ghế sofa. Khung cảnh trong bức tranh không có thật, vậy mà ba tấm bia mộ đứng giữa những thân cây nghiêng ngả lại làm Rampole hãi hùng. Anh vẫn đang nhìn chằm chằm vào bức tranh khi có tiếng người bước lên cầu thang.
Thật phấn khởi khi thấy khuôn mặt lưỡi cày buồn tẻ và đứng đắn của trung sĩ Betts, người mà Rampole nhớ là đã thụ lí vụ án Tháp London. Đi sau là hai người mặt mày tươi tỉnh mặc thường phục mang thiết bị chụp ảnh và lấy dấu vân tay. Một cảnh sát mặc đồng phục đứng sau lưng Mills, Boyd Mangan, và cô gái đã ở trong phòng khách. Cô gái lách qua ba người đàn ông để vào trong căn phòng.
“Anh Boyd bảo các ông muốn gặp tôi,” cô ta nói, với giọng nhẹ nhàng nhưng run rẩy, “nhưng các ông thấy đấy, tôi cứ khăng khăng đi theo xe cứu thương. Dì nên đến đó nhanh nhất có thể đi, dì Ernestine. Họ nói ông… sắp ra đi.”
Cô gái cố tỏ ra nhanh nhẹn và hống hách, ở cả cái cách cô ấy tháo găng tay ra, nhưng không thành công. Cô ta có cái thái độ dứt khoát mà những thanh niên mới qua tuổi 20 thường có vì thiếu kinh nghiệm và không bị ai phản đối. Rampole hơi giật mình khi thấy tóc cô vàng đậm, dài đến ngang vai và vén ra sau tai. Mặt cô hơi vuông, gò má cao, không đẹp nhưng gây ấn tượng mạnh mẽ, khiến ta nhớ đến thời xa xưa nhưng không nhớ chính xác là thời nào. Miệng cô khá rộng và môi tô son đỏ đậm, nhưng đôi mắt dài, màu nâu đỏ, dịu dàng và đầy lo lắng của cô lại tương phản với đôi môi dỏ, cũng như với hình dáng đầy đặn của khuôn mặt. Cô ta liếc nhìn xung quanh, rồi thu người lại về phía Mangan và kéo chiếc áo khoác bằng lông chặt quanh người. Cô ta trông cũng sắp lên cơn kích động tới nơi rồi.
“Các ông làm ơn nhanh lên và nói xem các ông muốn gì ở tôi?” Cô ta hét lên. “Các ông không nhận ra là cha tôi đang hấp hối sao? Dì Ernestine…”
“Nếu những quý ông này dã xong việc với tôi,” người đàn bà nói, không hề biểu lộ cảm xúc. “Tôi sẽ đi. Tôi định đi rồi mà, cháu biết đấy.”
Cô ta bỗng nhiên trở nên ngoan ngoãn. Nhưng nó là sự ngoan ngoãn đi kèm với thách thức, một sự ngoan ngoãn có giới hạn. Có một cái gì đó khiến hai người phụ nữ xù lông lên với nhau – một cái gì đó như sự khó chịu trong đôi mắt của Rosette Grimaud. Họ nhìn nhau rất nhanh, nhưng không trực diện. Họ như đang nhại lại cử chỉ của nhau, đột ngột nhận ra điều dó, rồi dừng lại. Hadley kéo dài sự yên lặng, như đang để hai nhân chứng đối chất với nhau ở Scotland Yard. Rồi ông nói nhanh: “Cậu Mangan, cậu đưa cô Grimaud đến phòng của anh Mills ở cuối hành lang được không? Cảm ơn. Chúng tôi sẽ đến đó ngay. Anh Mills, đợi chút đã! Đợi… Betts!”
“Thưa ngài?”
“Tôi muốn anh làm một việc nguy hiểm. Mangan có nói với anh về mấy sợi dây thừng và đèn pin không?… Tốt. Tôi muốn anh lên mái nhà và tìm kiếm từng phân một trên đó xem có dấu chân hay vết tích gì không, nhất là ở phần mái của căn phòng này. Rồi xuống cái sân sau nhà, và hai cái sân bên cạnh, và kiểm tra xem có thấy dấu vết gì ở đó không. Anh Mills sẽ chỉ đường cho anh lên mái nhà… Preston! Preston có đây không?”
Một chàng trai trẻ mũi dọc dừa hối hả chạy từ hành lang vào. Việc của trung sĩ Preston là dò tìm những chỗ bí mật trong nhà. Anh ta là người đã tìm ra bằng chứng phía sau ô tường trong vụ cái Đồng hồ Chết.
“Khám xét căn phòng xem có lối đi bí mật nào không, rõ chưa? Xới tung chỗ này lên nếu anh muốn. Tìm hiểu xem có ai lên được ống khói không… Còn các anh tiếp tục lấy dấu vân tay và chụp ảnh. Đánh dấu các vết máu bằng phấn trước khi chụp. Nhưng đừng động đến chỗ giấy đã bị đốt trong lò sưởi… Cảnh sát! Anh cảnh sát kia đang ở chỗ quái nào thế?”
“Đây thưa ngài.”
“Phố Bow đã gọi điện báo địa chỉ của người tên Fley – Pierre Fley chưa?… Được rồi. Đến nhà bắt hắn. Mang hắn đến đây. Nếu hắn không ở đó, đợi. Họ đã cho người đến nhà hát nơi hắn làm việc chưa?… Được rồi. Thế thôi. Vào việc nào, mọi người.”
Hadley sải bước vào hành lang, lẩm bẩm một mình. Tiến sĩ Fell ì ạch đi theo, lần đầu tiên lộ vẻ háo hức một cách ma quái. Ông lấy cái mũ rộng vành của mình chọc vào tay ngài cảnh sát trưởng.
“Nghe này, Hadley,” ông thúc giục, “ông sẽ xuống đó tham gia tra hỏi đúng không hả? Tôi nghĩ mình sẽ có ích hơn nhiều nếu được ở lại và giúp những gã gà mờ này chụp ảnh…”
“Không, tôi sẽ bị treo cổ nếu ông làm hỏng thêm một tấm kính ảnh nữa!” Hadley nói một cách nóng giận. “Những cuộn phim đó không phải của chùa đâu, và ngoài ra, chúng ta cần bằng chứng. Giờ tôi muốn nói chuyện riêng với ông một cách thẳng thắn. Những thứ tầm phào như bảy ngọn tháp và người bị chôn ở đất nước chưa bao giờ tồn tại là có ý gì? Tôi từng thấy ông tỏ ra bí hiểm trước đây, nhưng chưa bao giờ tệ như thế này. Cùng bàn bạc với tôi. Ông đã… ờ, ờ? Có chuyện gì?”
Ông xoay người lại một cách cáu kỉnh khi Stuart Mills giật cánh tay ông.
“Ờ… trước khi tôi hướng dẫn viên trung sĩ lên mái nhà,” Mills bình tĩnh nói, “tôi nghĩ tốt hơn là tôi nên nói với ông là trong trường hợp ông muốn gặp ông Drayman, thì ông ấy có ở nhà đấy.”
“Drayman? Đúng! Ông ấy về nhà lúc nào?”
Mills cau mày. “Theo như tôi luận ra, ông ấy không đi về. Nói đúng ra là ông ấy chưa bao giờ rời khỏi đây. Lúc nãy tôi có dịp ngó vào phòng ông ấy…”
“Tại sao?” Tiến sĩ Fell đột nhiên tỏ vẻ quan tâm.
Anh chàng thư kí chớp mắt bình thản. “Tôi tò mò, thưa ngài. Tôi phát hiện ông ấy đang ngủ trong đó, và rất khó để đánh thức ông ấy dậy, tôi tin là ông ấy đã uống thuốc ngủ. Ông Drayman thích dùng nó. Tôi không nói ông ấy nghiện thuốc, nhưng đúng là ông ấy rất thích thuốc ngủ.”
“Gia đình kì quặc nhất tôi từng biết,” Hadley tuyên bố một cách bâng quơ, sau một giây ngập ngừng. “Còn gì nữa không?”
“Có thưa ngài. Có một người bạn của tiến sĩ Grimaud ở dưới tầng. Ông ấy vừa đến, và ông ấy muốn gặp ngài. Tôi không nghĩ việc đó quá cấp thiết, nhưng ông ấy là một trong những người ở quán rượu Warwick. Ông ấy tên là Pettis… ông Anthony Pettis.”
“Pettis hả?” Tiến sĩ Fell nhắc lại, xoa cằm. “Tôi tự hỏi không biết đó có phải ông Pettis chuyên đi sưu tầm truyện ma và viết những lời tựa rất hay không? Đúng rồi, tôi chắc thế. Nhưng ông ta thì liên quan gì nhỉ?”
“Tôi đang hỏi ông là tất cả mọi thứ này liên quan thế nào với nhau,” Hadley nhấn mạnh. “Nghe này. Tôi không thể gặp ông bạn này trừ khi ông ta có chuyện gì quan trọng muốn kể. Lấy địa chỉ của ông ta, và nói rằng sáng mai tôi sẽ gọi được không? Cảm ơn.” Ông quay sang tiến sĩ Fell. “Giờ nói tiếp về bảy ngọn tháp và đất nước chưa từng tồn tại di.”
Tiến sĩ đợi đến khi Mills dẫn trung sĩ Betts đến cánh cửa ở đầu kia của hành lang. Tiếng rì rầm khẽ khàng từ phòng Grimaud là âm thanh duy nhất vọng ra. Ánh đèn vàng vẫn tỏa ra từ vòm cầu thang, soi sáng cả hành lang. Tiến sĩ Fell đi chậm chạp quanh hành lang, nhìn lên xuống ngang dọc khắp ba cửa sổ phủ rèm nâu. Ông kéo rèm ra để khẳng định chắc chắn ba cửa sổ được khóa chặt từ bên trong. Sau đó ông vẫy tay ra hiệu cho Hadley và Rampole đi ra chỗ cầu thang.
“Nào các bạn,” ông nói, “tôi nghĩ ta nên thảo luận với nhau trước khi chúng ta thẩm vấn nhân chứng tiếp theo. Nhưng khoan nói về bảy ngọn tháp. Tôi sẽ từ từ kể đến chỗ đó, giống như Childe Roland vậy. Hadley, những câu từ rời rạc – bằng chứng thực sự duy nhất chúng ta có, bởi nó do chính nạn nhân nói ra – có lẽ là đầu mối quan trọng nhất. Ý tôi là những từ Grimaud thốt ra trước khi ngất đi. Tôi hi vọng chúng ta đều đã nghe được hết. Nhớ không, ông đã hỏi ông ta xem Fley có phải hung thủ không. Ông ta lắc đầu. Rồi ông hỏi ai là người đã làm chuyện này. Ông ta nói gì?… Tôi muốn hỏi từng người xem các vị nghĩ đã nghe thấy gì.”
Ông nhìn Rampole. Đầu óc của anh chàng người Mỹ đã đi đâu mất cả. Anh nhớ rất rõ một số từ, nhưng tất cả đã bị hình ảnh quá sinh động của bộ ngực đẫm máu và cái cổ quằn quại làm cho rối rắm. Anh ngập ngừng. “Từ đầu tiên ông ta nói,” Rampole trả lời, “tôi nghe giống như ‘hover’…”
“Nhảm nhí,” Hadley ngắt lời. “Tôi đã ghi lại mọi thứ ngay lập tức. Từ đầu tiên ỏng ta nói là ‘bath’ hay nhà tắm, dù tôi sẽ bị treo cổ nếu thấy…”
“Bình tĩnh nào.” Tiến sĩ Fell nói, “ông ăn nói còn nhảm nhí hơn cả tôi đấy. Tiếp tục đi, Ted.”
“Chà, tôi không dám chắc đâu. Nhưng sau đó tôi nghe từ ‘không phải tự tử’, và ‘nó không thể dùng dây thừng’. Rồi tôi nghe gì đó liên quan đến ‘mái nhà’ và ‘tuyết’ và ‘fox’. Từ cuối cùng tôi nghe thấy giống như là ‘quá nhiều ánh sáng’. Một lần nữa, tôi không thể khẳng định ông ấy nói những từ này theo thứ tự đó.”
Hadley tỏ ra khoan dung. “Cậu làm lộn xộn hết rồi, dù có một vài chi tiết đúng.” Mặc dù vậy, trông ông vẫn rất bực bội. “Tương tự như vậy, tôi cũng phải thừa nhận rằng ghi chú của tôi cũng không có nghĩa hơn gì nhiều. Sau từ ‘bath’, ông ấy nói ‘rượu vang’ và ‘muối’. Cậu nói đúng về từ ‘dây thừng’, mặc dù tôi không nghe thấy gì liên quan đến tự tử. ‘Mái nhà’ và ‘tuyết’ là đúng, tiếp sau đó là ‘quá nhiều ánh sáng’, rồi đến ‘có súng’. Cuối cùng, ông ấy nói gì đó về ‘fox’ và sau chót… tôi chỉ nghe loáng thoáng vì chỗ máu đó… hình như là ‘Đừng đổ lỗi cho… tội nghiệp’… Thế thôi.”
“Ôi Chúa ơi!” Tiến sĩ Fell rên rỉ. Ông nhìn từ người này sang người kia. “Thật tồi tệ. Các quý ông, tôi sắp sửa ăn mừng chiến thắng cực lớn trước các vị đấy. Tôi sẽ giải thích những gì ông ấy nói. Nhưng tôi chịu thua đôi tai đáng kinh ngạc của các vị. Tôi không nghe hết nổi những lời lắp bắp đó, mặc dù tôi dám khẳng định là các vị tiến gần đến sự thật rồi. Chà!”
“Vậy phiên bản của ông là gì?” Hadley gặng hỏi.
Tiến sĩ đi đi lại lại một cách nặng nề. “Tôi chỉ nghe được những từ đầu tiên. Chúng tương đối có nghĩa nếu tôi đúng… nếu tôi đúng. Nhưng phần còn lại thì thật đúng là một cơn ác mộng. Tôi tưởng tượng ra cảnh ‘fox’ chạy trên mái nhà trong tuyết hay…”
“Người sói?” Rampole đề xuất. “Có ai nhắc đến người sói chưa?”
“Chưa, và sẽ không ai nhắc tới cả!” Hadley gầm lên. Ông đập tay vào quyển sổ. “Để sắp xếp mọi thứ theo thứ tự, Rampole. Tôi sẽ viết những gì cậu nghĩ mình đã nghe thấy để đối chiếu… Rồi. Chúng ta có: Danh sách của cậu. Hover. Không tự tử. Nó không thể dùng dây thừng. Mái nhà. Tuyết. Fox. Quá nhiều ánh sáng.
“Danh sách của tôi. Bath. Rượu vang. Muối. Nó không thể dùng dây thừng. Mái nhà. Tuyết. Quá nhiều ánh sáng. Có súng. Đừng đổ lỗi cho… tội nghiệp.
“Thế là xong. Và như thường lệ, với sự cứng đầu cứng cổ đã thành thương hiệu của ông, Fell, ông tự tin nhất về những phần vô nghĩa nhất. Tôi có thể chắp vá một cách giải thích có thể kết hợp toàn bộ những từ về sau, nhưng thế quái nào mà một người đang hấp hối lại đưa cho chúng ta manh mối liên quan đến nhà tắm, rượu vang và muối nhỉ?”
Tiến sĩ Fell nhìn chòng chọc vào điếu xì gà đã tắt của mình.
“Hừm, có đấy. Chúng ta cần làm sáng tỏ chi tiết đó. Nguyên chỗ đó thôi cũng đã rất đau đầu rồi. Hãy từ tốn bắt đầu lại… Trước tiên, những người bạn của tôi, đã có chuyện gì xảy ra trong phòng sau khi Grimaud bị bắn?”
“Thế quái nào mà tôi biết được? Tôi đang hỏi ông câu đó đấy. Nếu không có lối đi bí mật nào…”
“Không, không, tôi không định hỏi hắn dùng cách nào để biến mất. Ông bị ám ảnh bởi chuyện đó đấy, Hadley. Ông bị ám ảnh đến nỗi ông không dừng lại tự hỏi xem còn chuyện gì khác xảy ra không. Trước tiên, hãy làm rõ những điều hiển nhiên mà chúng ta có thể giải thích được, và đi tiếp từ đó. Hừm… Giờ thì rõ ràng chuyện gì đã xảy ra sau khi ông ta bị bắn? Thứ nhất, tất cả những dấu vết đều xoay quanh cái lò sưởi…”
“Ý ông là hắn đã trèo lên ống khói?”
“Tôi khẳng định chắc chắn hắn không làm thế,” tiến sĩ Fell gắt gỏng, “cái ống khói đó quá hẹp, đút nắm tay vào cũng còn khó. Hãy kiềm chế bản thân và suy nghĩ đi. Đầu tiên, một chiếc ghế sofa rất nặng đặt trước lò sưởi bị đẩy sang một bên. Có rất nhiều máu trên đó, như thể Grimaud đã trượt chân hoặc dựa vào nó. Tấm thảm lò sưởi bị kéo hoặc đá đi, trên đó cũng có máu, và cái ghế cạnh lò sưởi cũng bị xô đổ. Cuối cùng, tôi tìm thấy nhiều đốm máu trên thảm và cả trong lò sưởi nữa. Chúng dẫn chúng ta đến một đống giấy tờ khổng lồ đã bị đốt và gần như dập tắt ngọn lửa trong lò.
“Giờ hãy xem xét cách cư xử của bà Dumont trung thành. Vừa bước vào phòng, bà ta đã vô cùng lo lắng về cái lò sưởi. Mắt bà ta dán chặt vào đó, và gần như phát cuồng lên khi thấy tôi cũng nhìn vào nó. Các vị còn nhớ, thậm chí bà ta còn mắc sai lầm ngớ ngẩn là bảo chúng ta nhóm lửa – dù bà ta biết thừa cảnh sát sẽ không đụng vào than và mồi lửa để khiến nhân chứng thoải mái hơn ngay giữa hiện trường vụ án. Không, không, bạn của tôi ơi. Có ai đó đã tìm cách đốt thư từ tài liệu trong đó. Và bà ta muốn biết chắc chắn là chúng đã bị phá hủy.”
Hadley nói với giọng nặng nề. “Như thế bà ta biết chuyện đó? Vậy mà ông lại nói là tin câu chuyện của bà ta?”
“Đúng. Tôi có tin câu chuyện của bà ta – về vị khách và tội ác. Cái tôi không tin là những chi tiết bà ta cung cấp về bản thân và Grimaud… Hãy nghĩ lại những chuyện đã xảy ra đi! Kẻ đột nhập bắn Grimaud. Vậy mà Grimaud, dù vẫn còn tỉnh táo, không hề kêu cứu, hay cố ngăn chặn kẻ thủ ác, hoặc vật lộn với hắn, hay thậm chí mở cửa khi Mills đứng ngoài gọi. Nhưng ông ấy lại làm một việc khác. Ông ấy cố sức làm một việc gì đó đến nỗi vết thương trên phổi bị toạc ra, như các vị đã nghe bác sĩ nói.
“Và tôi sẽ nói cho các vị biết ông ấy đã làm gì. Ông ấy biết mình không còn sống được bao lâu nữa và cảnh sát sẽ đến. Ông ấy sở hữu rất nhiều thứ cần phải bị tiêu hủy. Việc tiêu hủy nó còn quan trọng hơn việc bắt kẻ đã bắn mình hay thậm chí còn quan trọng hơn việc tự cứu lấy mình. Ông ấy loạng choạng mang giấy tờ đến lò sưởi nhiều lần để đốt hết bằng chứng. Vì thế cái ghế sofa mới bị đẩy ra, tấm thảm, vết máu… Giờ các vị đã hiểu chưa?”
Ở trong hành lang ảm đạm và sáng sủa đổ chỉ có sự im lặng.
“Và bà Dumont đó thì sao?” Hadley hỏi, giọng nặng nề.
“Dĩ nhiên bà ta biết. Đó là bí mật chung của họ. Và bà ta có tình cảm với ông ta.”
“Nếu đó là sự thật, thì chắc những thứ ông ta tiêu hủy phải cực kì quan trọng,” Hadley nói, nhìn tiến sĩ Fell chằm chằm. “Thế quái nào mà ông biết tất cả những điều đó? Bí mật của họ là gì mới được? Và điều gì khiến ông nghĩ họ có một bí mật nguy hiểm nào đó?”
Tiến sĩ Fell day thái dương và vò đầu. Ông lập luận.
“Tôi có thể kể với ông một phần câu chuyện,” ông nói, “mặc dù có những chỗ khiến tôi nghĩ mãi không ra. Ông thấy đấy, cả Grimaud lẫn Dumont đều chẳng giống người Pháp hơn tôi. Một người phụ nữ với xương gò má như thế, người phát âm chữ “h” câm không thể nào là người Latin được. Nhưng điều đó không quan trọng. Cả hai đều là người Hungary. Nói chính xác thì Grimaud xuất thân từ Hungary. Tên thật của ông ấy là Károly, hay Charles, Grimaud Horváth. Có lẽ mẹ của ông ấy là người Pháp. Ông ấy đến từ xứ Transylvania, trước đây từng thuộc vương quốc Hungary, nhưng bị Rumania xâm chiếm kể từ sau chiến tranh. Vào những năm cuối 1890 và đầu 1900, Károly Grimaud Horváth và hai em trai bị bắt vào tù. Tôi đã nói là ông ấy có hai em trai chưa? Một người chúng ta chưa thấy, còn người kia hiện giờ tự gọi mình là Pierre Fley.
“Tôi không biết ba anh em nhà Horváth đã phạm tội gì, nhưng họ bị tống vào nhà tù Siebenturmen, lao động khổ sai ở một mỏ muối gần Tradj trong dãy núi Carpathian. Nhiều khả năng Charles đã trốn thoát. Giờ thì cái bí mật “chết người” trong cuộc đời ông ấy không thể liên quan gì đến việc ông ấy phải đi tù hay đã trốn thoát trước khi mãn hạn tù, vì vương quốc Hungary đã tan rã, và không còn ai cai quản nữa. Nhiều khả năng ông ấy đã làm một trò ma quỷ nào đó với hai người kia, một trò gì đó khá kinh khủng liên quan đến ba cỗ quan tài và những người bị chôn sống, một trò đến bây giờ cũng vẫn còn có thể khiến ông ấy bị treo cổ nếu bị phát hiện ra… Đó là tất cả những gì tôi có thể đánh bạo suy đoán ở thời điểm này. Ai có diêm không?”