- XI - Giết người bằng ma thuật
Khi tiến sĩ Fell đập cửa thình thịch vào 9 giờ sáng hôm sau, cả hai vị khách của ông vẫn còn ngái ngủ. Rampole ngủ rất ít vào đêm hôm trước. Khi anh và vị tiến sĩ về nhà lúc 1 rưỡi sáng, Dorothy đang đi đi lại lại nóng lòng muốn được nghe hết mọi chi tiết, còn chồng cô thì không hề do dự kể lại. Họ lấy bia và thuốc lá rồi về phòng nghỉ. Ở đó Dorothy xếp một đống gối trên sàn nhà như Sherlock Holmes, cầm cốc bia ngồi xuống với một vẻ mặt rất từng trải một cách ám muội trong khi nghe chồng mình vừa bước hùng dũng trong phòng vừa thao thao bất tuyệt. Quan điểm của cô tuy mạnh mẽ nhưng không rõ ràng. Cô khá thích bà Dumont và ông Drayman, nhưng lại rất không ưa Rosette Grimaud. Ngay cả khi Rampole nhắc lại câu nói của Rosette trong cuộc thi hùng biện, một khẩu hiệu mà cả hai cùng ủng hộ, cô vẫn không nguôi đi.
“Mặc dù vậy, anh nhớ lấy lời em,” Dorothy nói, trỏ diếu thuốc về phía chồng với vẻ khôn ngoan, “cô ả tóc vàng có khuôn mặt lạ kì đó có vấn đề rồi. Cô ta không đáng tin đâu, ông chồng của em ạ. Ý em là cô ta có gì đó mờ ám. Hừ! Em cá với anh là cô ta cũng không thể trở thành một… ừm… ‘gái điếm hạng sang’ được, em dùng đúng kiểu từ cô ta hay nói. Và nếu em đối xử với anh như cách cô ta đối xử với Boyd Mangan mà anh không thụi cho em một cú vào hàm, thì em sẽ không bao giờ nhìn mặt chúng ta nữa, anh hiểu ý em chứ?”
“Hãy bỏ qua tính cách cá nhân,” Rampole nói. “Ngoài ra, cô ấy đã làm gì Mangan đâu? Theo như anh thấy thì không. Và em không nghĩ cô ấy lại dám giết cha mình đấy chứ, ngay cả khi không bị nhốt trong phòng đi chăng nữa?”
“Không, vì, em không nghĩ là cô ả có thể khoác lên mình mớ quần áo hóa trang đó và lừa được bà Dumont,” Dorothy nói, đôi mắt đen và sáng ánh lên sự thâm thúy. “Nhưng em nói với anh thế này, bà Dumont và ông Grayman đều vô tội. Còn về Mills, anh ta nghe có vẻ là một kẻ hợm hĩnh thực sự, nhưng anh cũng không công tâm vì anh không thích khoa học hoặc Viễn cảnh của Tương lai. Và anh phải công nhận là nghe có vẻ như anh ta nói thật?”
“Đúng.”
Cô hút thuốc với vẻ tư lự. “Hừm. Em có ý này hay lắm. Những người mà em thấy là đáng nghi nhất, những người dễ có khả năng phạm tội nhất, là hai người mà anh chưa gặp – Pettis và Burnaby.”
“Cái gì?”
“Là thế này. Người ta nghĩ Pettis không phải là thủ phạm vì ông ta quá nhỏ bé, đúng không? Lẽ ra người uyên bác như tiến sĩ Fell phải phát hiện ra ngay. Em đang nghĩ đến một câu chuyện – em không nhớ là mình đã đọc ở đâu, nhưng có một hai giai thoại thời trung cổ tương tự như thế. Anh có nhớ không? Luôn có một người to lớn mặc áo giáp, và tấm che mặt thì lúc nào cũng kéo xuống sùm sụp. Ông ta tham dự cuộc thi đấu thương và đánh gục hết các đối thủ. Rồi có một hiệp sĩ vĩ đại thách đấu với ông ta. Hiệp sĩ lao về phía ông ta, và bùm một cái, đánh thẳng vào giữa tấm che mặt, và trước sự kinh hoàng của mọi người, cái đầu lìa ra rơi xuống đất. Rồi có một giọng nói vang lên từ bên trong bộ áo giáp, và họ phát hiện ra đó là một anh chàng đẹp trai nhưng không đủ cao để mặc vừa bộ áo giáp…”
Rampole nhìn cô. “Em yêu,” anh nghiêm túc nói, “đó chỉ là truyện nhảm nhí thôi. Đây đúng là ý tưởng điên rồ nhất… Nghe này, em thật sự định nói là Pettis đã cải trang vào nhà với một cái đầu giả và hai cái độn vai à?”
“Anh quá bảo thủ,” cô vừa nói vừa nhăn mũi. “Em nghĩ đó là ý tưởng cực hay. Và anh muốn chứng cứ à? Được! Chẳng phải chính Mills đã nhận xét rằng gáy của kẻ giết người sáng bóng lên như thể cả cái đầu được làm bằng giấy bồi à? Anh nói sao về điều đó?”
“Anh nói đó là một cơn ác mộng. Em không có ý tưởng nào thực tế hơn à?”
“Có!” Dorothy nói. Rõ ràng là cô chỉ mới nghĩ ra ý này thôi, nhưng cô lại vờ như là mình đã nghĩ ra nó từ lâu rồi. “Cái này liên quan đến tình huống bất khả thi. Tại sao hung thủ không muốn để lại dấu chân? Các anh đều đang chạy theo những giả thuyết quá sức phức tạp. Và thường thì nó khiến anh nghĩ rằng kẻ sát nhân muốn đùa với cảnh sát. Nhảm nhí, anh yêu! Lí do duy nhất, lí do đầu tiên khiến hắn không muốn để lại dấu chân sau khi thực hiện án mạng xong là gì? Đó là vì dấu chân để lại đặc biệt đến mức có thể dẫn cảnh sát đến thẳng chỗ hắn! Bởi hắn bị một tật nào đó mà sẽ bị phát hiện ngay nếu để lại dấu chân…”
“Và…”
“Và anh nói với em là,” cô nói, “một chân của gã Burnaby này bị dị tật.”
Khi trời gần sáng và cuối cùng Rampole cũng thiếp đi được, anh lại bị ám ảnh bởi cái chân bị tật của Burnaby, trông còn ám muội hơn kẻ đội đầu giả. Những hình ảnh ấy tuy vô nghĩa, nhưng trong một giấc mơ về bí ẩn của ba nấm mồ thì lại khiến người ta giật mình.
Anh khó nhọc ra khỏi gường khi tiến sĩ Fell gõ cửa lúc gần 9 giờ sáng chủ nhật. Anh hấp tấp cạo râu và mặc quần áo, và hộc tốc chạy xuống căn nhà yên tĩnh. Lúc đó còn quá sớm để tiến sĩ Fell (hoặc bất cứ ai) thức dậy, nên Rampole biết đã có gì đó kinh khủng xảy ra trong đêm. Tất cả các hành lang đều lạnh lẽo, kể cả thư viện đồ sộ, nơi một ngọn lửa lớn đã được thắp, cũng có vẻ gì đó không thật, giống như khi ta thức dậy vào tảng sáng để đón tàu. Bữa sáng cho ba người đã được dọn sẵn ở ô cửa sổ hướng ra hiên ngoài. Trời hôm đó xám xịt, và tuyết đã bắt đầu rơi. Tiến sĩ Fell ăn mặc chỉnh tề, ngồi ở bàn, tay ôm đầu và đang nhìn chằm chằm vào tờ báo.
“Gã Henri,” ông gầm lên, và vứt tờ báo xuống, “Ồ, đúng. Hắn lại ra tay một lần nữa. Hadley vừa gọi điện báo thêm chi tiết, và ông ấy sẽ tới đây sớm thôi. Cứ đọc cái này trước đi. Nếu chúng ta nghĩ vụ án đêm qua là khó nhằn, nhìn vụ này xem! Tôi giống như Drayman… tôi không thể tin nổi. Nó đẩy vụ án mạng của Grimaud khỏi trang nhất. May mà họ chưa nhận ra mối liên hệ giữa hai vụ này, hoặc Hadley đã ra chỉ thị cho họ không được nói đến. Đây!”
Rampole, trong khi chờ cà phê, nhìn thấy những hàng tít lớn: “NHÀ ẢO THUẬT BỊ GIẾT BỞI MA THUẬTT!” – chắc người viết hàng tít này phải rất ưng ý. “BÍ ÂN Ở PHỐ CAGLIOSTRO.” “VIÊN ĐẠN THỨ HAI LÀ CHO MÀY!’ ”
“Phố Cagliostro?” anh chàng người Mỹ đọc to. “Phố Cagliostro ở chỗ quái nào? Tôi đã nghe thấy những tên phố buồn cười rồi, nhưng cái này…”
“Thường thì cậu sẽ không nghe đến nó đâu,” tiến sĩ Fell lầm bầm. “Đó là một trong những con phố nằm ẩn sau những con phố khác, mà cậu chỉ tình cờ đi lạc vào khi đang tìm một ngõ tắt, và rồi giật mình khi phát hiện ra cả một cộng đồng nằm sâu giữa London… Dù sao thì phố Cagliostro chỉ cách nhà Grimaud khoảng ba phút đi bộ. Nó là một con ngõ cụt phía sau phố Guilford, ở phía bên kia quảng trường Russell. Theo như tôi nhớ, nó có rất nhiều cửa hàng tràn từ phố Lamb’s Conduit sang, còn lại là nhà trọ tập thể. Gã Henri đã rời khỏi nhà Grimaud sau khi nổ súng, đi sang đây, đứng đợi một chút, rồi hoàn tất công việc.”
Rampole hướng mắt xuống đọc bài báo:
“Thi thổ của một người đàn ông được phát hiện là đã bị giết đêm qua ở phố Cagliostro, WCI, đã được nhận dạng là Pierre Fley, một nhà ảo thuật người Pháp. Mặc dù ông ta đã biểu diễn ở nhà hát trên đường Commercial, EC, được vài tháng, nhưng ông mới chuyển đến trọ ở phố Cagliostro hai tuần trước. Khoảng 10 giờ rưỡi đêm qua, ông ta được phát hiện trong tình trạng đã chết do bị bắn. Hiện trường vụ án cho thấy có vẻ như nhà ảo thuật đã bị sát hại bởi ma thuật. Không ai nhìn thấy gì và không có dấu vết nào đổ lại – ba nhân chứng đã khai như vậy – mặc dù họ đều nghe rất rõ một giọng nói, ‘Viên đạn thứ hai là cho mày.’
Phố Cagliostro dài 183 mét, và cuối phố là một bức tường gạch. Có vài cửa hiệu ở đầu phố đóng cửa vào thời điểm đó, mặc dù vẫn còn vài ngọn đèn đường đang cháy trên vỉa hè đã được quét dọn. Nhưng đi vào khoảng 18 mét thì tuyết vẫn chất đầy trên vỉa hè và trên dường.
Ông Jesse Short và ông R. G. Blackwin, hai du khách từ Birmingham tới London, đang trên đường tới thăm một người bạn ở một nhà trọ gần phía cuối con phố. Họ đang đi trên vỉa hè bên tay phải, và quay lưng lại về phía đầu đường. Ông Blackwin, người quay lại để kiểm tra số nhà, để ý thấy một người đàn ông đi phía sau họ. Người này bước chậm rãi và hơi bồn chồn, nhìn ngó xung quanh như thể đang đợi ai đó đến. Người đó đi ngay giữa đường. Vì ánh đèn không đủ sáng, nên cả ông Short và ông Blackwin chỉ nhìn thấy người đó cao và đội mũ mềm có vành bẻ cong. Cùng lúc đó, cảnh sát Henry Withers – người đang tuần tra trên phố Lamb’s Conduit – đi đến đầu phố Cagliostro. Ông thấy người đàn ông đi trên tuyết, nhưng quay lại mà không để ý đến ông ta. Và chỉ trong từ 3 đến 4 giây, sự việc đã xảy ra.
Ông Short và ông Blackvvin nghe thấy một tiếng rít gần giống như một tiếng thét. Rồi họ nghe ai đó nói rõ ràng, “Viên đạn thứ hai là cho mày,” rồi một tiếng cười lớn và sau đó là tiếng súng bị giảm thanh. Khi quay lại, họ thấy người đàn ông đằng sau lảo đảo, hét lên lần nữa, và ngã sấp mặt xuống đất.
Con phố, như họ thấy, hoàn toàn trống trải từ đầu này đến đầu kia. Hơn nữa, người đàn ông đang bước giữa đường, và cả hai đều khẳng định là không hề có dấu chân nào trên tuyết ngoài dấu chân của người đó. Điều này được cảnh sát Withers, người vừa chạy từ đầu đường vào, xác nhận. Nhờ ánh sáng từ cửa hàng đồ trang sức, họ có thể thấy nạn nhân nằm sấp, hai tay dang rộng, máu bắn ra thành tia từ vết đạn bên dưới xương vai trái. Hung khí – một khẩu Colt ổ quay nòng dài cỡ 38, đã lỗi thời khoảng 30 năm – được ném cách đó 3 mét.
Mặc dù họ nghe thấy tiếng nói, và khẩu súng nằm cách đó một quãng, các nhân chứng nghĩ vì con đường hoàn toàn trống trải nên chắc hẳn người đàn ông đó đã tự vẫn. Họ thấy người đó vẫn còn thở, nên đã mang ông ta đến phòng khám của bác sĩ M.R. Jenkins ở gần cuối phố, trong khi viên cảnh sát ở lại để khẳng định chắc chắn không có dấu chân nào. Tuy nhiên không lâu sau đó, nạn nhân đã chết mà không nói được lời nào.
Điều đáng kinh ngạc nhất được phát hiện sau đó. vết đạn bắn trên áo khoác ngoài của người đàn ông bị cháy sém, cho thấy hung khí đã được gí vào sát sau lưng người đàn ông hoăc chỉ cách khoảng chục phân. Theo ý kiến của bác sĩ Jenkins – sau đó được cảnh sát xác nhận – đây không thể là một vụ tự tử. Ông tuyên bố rằng không người nào có thể giữ một khẩu súng và tự bắn vào lưng mình với góc bắn như vậy, nhất là khi hung khí là một khẩu súng nòng dài. Đây là một vụ giết người, nhưng là một vụ giết người bất khả thi. Nếu người đàn ông bị bắn ở một khoảng cách xa hơn, từ cửa sổ hay cửa chính, thì việc không thấy hung thủ hoặc dấu chân để lại trên tuyết là còn có thể hiểu được. Nhưng người đàn ông bị bắn bởi một người đứng ngay bên cạnh, nói chuyện với ông ta, rồi biến mất.
Không có giấy tờ hay dấu hiệu nhận dạng nào được tìm thấy trong quần áo của người đàn ông đó, và có vẻ như không ai biết ông ta. Sau một thời gian trì hoãn, ông ta được đưa đến nhà xác…”
“Nhưng còn viên cảnh sát mà Hadley sai đến bắt hắn ta?” Rampole hỏi. “Anh ta không nhận dạng được hắn sao?”
“Anh ta nhận dạng được hắn sau đó,” tiến sĩ Fell gầm gừ. “Nhưng mọi huyên náo đã kết thúc khi anh ta tới đó. Anh ta gặp Withers, Hadley kể, khi viên cảnh sát đang đi thẩm vấn từng nhà một. Rồi anh ta chắp nối các chi tiết lại. Trong lúc đó, người mà Hadley cử đến nhà hát để tìm Fley đã gọi điện thông báo là hắn ta không ở đó. Fley đã lạnh lùng nói với ông chủ nhà hát là hắn không có ý định biểu diễn đêm hôm đó, và đi về với một câu nói khó hiểu… Chà, để nhận dạng thi thể trong nhà xác, họ gọi chủ nhà của Fley trên phố Cagliostro. Và để đảm bảo đó là cùng một người, họ còn mời một người từ nhà hát đến. Một người Ireland với một cái tên Ý đã xung phong, người này cũng có lịch biểu diễn nhưng không thể lên sân khấu đêm hôm đó vì bị chấn thương. Đúng. Đó là Fley, và hắn đã chết, và chúng ta đang gặp cả đống rắc rối. Hà!”
“Và câu chuyện này,” Rampole hét lên, “là có thật à?”
Người trả lời câu hỏi đó là Hadley, nãy giờ đang hùng hổ bấm chuông bên ngoài. Hadley đi thình thịch vào, vung vẩy một cái cặp tài liệu như thể đó là cái rìu của người da đỏ, và càu nhàu vài câu trước cả khi chạm vào thịt nguội và trứng.
“Là có thật đấy,” ông nói với vẻ u ám, giậm gót giày thình thịch trước ngọn lửa. “Tôi để báo chí đưa tin rầm rộ để chúng ta có thể kêu gọi bất cứ ai biết thông tin gì về Pierre Fley và gã em Henri của hắn. Chúa ơi! Fell, tôi sắp điên lên đến nơi rồi! Cái biệt danh khỉ gió của ông đã dính chặt vào đầu tôi, và tôi khỏng thể nào quên nó đi được. Tôi thấy mình nhắc đến Henri như thể đó là tên thật của hắn. Tôi thấy mình hình dung diện mạo của Henri. Ít ra chúng ta cũng sắp biết tên thật của hắn rồi. Tôi đã đánh điện đến Bucharest. Henri! Henri! Ta đã tìm lại dược tung tích của hắn, nhưng lại mất dấu lần nữa. Hen…”
“Vì Chúa, bình tĩnh nào!” tiến sĩ Fell thúc giục, thở phù phù một cách bứt rứt. “Đừng nói lảm nhảm, mọi chuyện giờ đã đủ tệ rồi. Tôi cho là ông đã làm việc gần như cả đêm? Và có thêm thông tin mới? Hừm, được. Giờ ngồi xuống và trấn tĩnh lại đi. Rồi chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề… một cách khôn ngoan nhé?”
Hadley nói không muốn ăn. Nhưng sau khi chén hai phần ăn, uống vài cốc cà phê, và châm một điếu xì gà, ông đã bình tĩnh hơn.
“Giờ thì hãy bắt đầu,” ông nói, ngồi nghiêm chỉnh lấy giấy tờ từ trong cặp hồ sơ ra, “bằng việc kiểm tra kĩ từng điểm một trong bài báo này, cũng như những điều không có trong này. Hừm! Đầu tiên là các nhân chứng Blackwin và Short. Họ đáng tin cậy. Hơn nữa tôi chắc chắn cả hai không phải là Henri. Chúng tôi đã điện cho Birmingham, và biết được là cả hai được người dân nơi họ đã sống cả đời biết rõ. Họ rất giàu có và đứng đắn, họ sẽ không mất bình tĩnh khi chứng kiến vụ án mạng như thế này đâu. Viên cảnh sát tuần tra, Withers, cũng là một người rất đáng tin cậy, thậm chí cực kì mẫn cán. Nếu những người này nói họ không nhìn thấy ai thì có thể là họ bị đánh lừa,nhưng ít nhất có thể chắc chắn rằng họ đã nói thật – hay những gì họ tin là sự thật.”
“Đánh lừa… bằng cách nào?”
“Tôi không biết,” Hadley gầm gừ, hít một hơi thật sâu và lắc đầu dứt khoát, “nhưng chắc chắn họ đã bị lừa. Tôi đã ngó qua con phố, mặc dù tôi không vào phòng của Fley. Có thể nó không sáng sủa như vòng xoay Piccadilly, nhưng ít ra nó cũng không tối đến mức một người có đủ năm giác quan có thể nhầm lẫn về những gì mình nhìn thấy. Cái bóng… Tôi không biết! Còn về dấu chân, nếu Withers thề rằng không có dấu chân nào, thì tôi tin lời anh ta. Và thế đấy.”
Tiến sĩ Fell chỉ lầm bầm trong miệng, và Hadley nói tiếp: “Còn về hung khí. Fley bị bắn bằng một khẩu Colt cỡ 38, cũng nhu Grimaud. Có hai vỏ đạn trong băng, chỉ có hai viên dạn, và Hen… tên sát nhân đã dùng nó để giết hai người. Các ông biết đấy, súng ổ quay hiện đại sẽ đẩy vỏ đạn ra khi bắn giống như súng tự động, nhưng khẩu súng này quá cổ nên chúng ta chẳng có mảy may cơ hội nào để lần xem nó ở đâu. Nó vẫn hoạt động tốt, nó bắn ra loại đạn bọc thép hiện đại, nhưng có ai đó đã cất giấu nó nhiều năm rồi.”
“Hắn không quên gì cả, tay Henri này. Chà. Thế ông đã lần ra được hành tung của Fley chưa?”
“Rồi. Hắn định gặp Henri.”
Tiến sĩ Fell mở choàng mắt ra. “Hả? Nghe này, nghĩa là ông có manh mối về…”
“Đó là manh mối duy nhất chúng ta có. Và,” Hadley nói, với một sự thỏa mãn chua chát, “nếu nó không cho kết quả trong vài giờ nữa, tôi sẽ ăn cái cặp tài liệu này. Ông nhớ là tôi đã kể cho ông qua điện thoại rằng Fley đã từ chối biểu diễn và đi khỏi nhà hát đêm qua chứ? Đúng. Cảnh sát mặc thường phục của tôi đã nghe toàn bộ câu chuyện từ ông chủ nhà hát, một người tên Isaacstein, và từ một gã nhào lộn tên O’Rourke, người thân với Fley nhất và là người đã nhận diện thi thể sau đó.
“Thứ bảy thường là ngày bận rộn ở khu Limehouse. Nhà hát biểu diễn các chương trình tạp kĩ liên tục từ chiều đến 11 giờ đêm. Buổi tối là lúc làm ăn phát đạt, và buổi diễn đầu tiên của Fley bắt đầu lúc 8 giờ 15. Trước đó khoảng 5 phút, O’Rourke – người bị gãy cổ tay và không thể lên sân khấu – lén xuống hầm để hút thuốc, ở dưới đó có một lò than để đun nước cho đường ống nước nóng.”
Hadley mở một tờ giấy viết chi chít chữ ra. “Đây là lời khai của O’Rourke, do Somers ghi lại và O’Rourke kí tên.”
“Ngay khi tôi vừa bước qua cái cửa asbestos và đi xuống cầu thang, tôi nghe thấy tiếng động như thể có ai đó đang đập nát củi nhóm lửa. Rồi tôi giật cả mình. Tôi thấy cửa lò đang mở, và Lão Khùng với cây rìu trong tay, đang phá nát số tài sản ít ỏi của hắn và ném tất cả vào lửa. Tôi nói, ‘Trời đất ơi. Lão Khùng, ông làm gì vậy?’ Hắn trả lời, với cái cách nói quái đản của hắn, Tôi đang phá hủy dụng cụ của mình, ông Pagliacci.’ (Nghệ danh của tôi là Pagliacci Vĩ đại, ông thấy đấy, nhưng hắn luôn gọi tôi như thế, trời ạ!) Chà, hắn nói, ‘Công việc của tôi đã hoàn tất, tôi không cần chúng nữa’ và vèo một cái! Hắn ném dây thừng giả và que tre rỗng vào lửa. Tôi nói, ‘Lão Khùng, trời đất ơi, bình tĩnh lại đi.’ Tôi nói, ‘Mấy phút nữa là đến lượt ông rồi, vậy mà ông vẫn chưa thay đồ.’ Hắn nói: ‘Tôi chưa nói với ông à? Tôi sẽ đi gặp người anh em của tôi. Người này sẽ làm gì đó để dàn xếp chuyện mắc mớ hồi xưa giữa hai chúng tôi.’
“Hắn bước ra cầu thang và quay ngoắt lại. Lão Khùng có khuôn mặt giống mặt của một con ngựa bạch. Chúa rủ lòng thương tôi vì đã nói thế, nhưng ánh lửa từ cái lò chiếu vào làm mặt hắn có vẻ gì đó rất quái đản. Hắn nói, ‘Nếu tôi có mệnh hệ gì sau khi xong việc với người đó, ông sẽ tìm thấy người anh em của tôi ở cùng con phố nơi tôi sống. Đó không phải là nhà của người đó, nhưng người đó có thuê một phòng ở đó.’ Cùng lúc đó Isaacstein xuống tìm hắn. Ông ta không thể tin vào tai mình khi nghe Lão Khùng nói hắn từ chối lên biểu diễn. Rồi có một cuộc cãi vã. Isaacstein nói oang oang, ‘Ông biết chuyện gì xảy ra nếu ông không lên diễn chứ?” Và Lão Khùng nói, vui vẻ như một gã chơi trò xáo ba quân bài, ‘Có, tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra.’ Rồi hắn nhấc mũ lên chào rất nhã nhặn, và nói, ‘Chúc ngủ ngon, các quý ông. Tôi quay lại nấm mồ đây.’ Và gã khùng đó đi lên cầu thang mà không nói thêm lời nào.”
Hadley gấp tờ giấy lại và đặt nó vào trong cặp hồ sơ.
“Đúng, hắn đúng là một nghệ sĩ biểu diễn giỏi,” tiến sĩ Fell nói, chật vật châm cái tẩu. “Thật tiếc khi Henri phải… rồi sao nữa?”
“Chuyện này có thể không giúp ích gì đến việc tìm ra Henri ở phố Cagliostro, nhưng chúng tôi chắc có thể tìm thấy chỗ ẩn náu tạm thời của hắn,” Hadley nói tiếp. “Một câu hỏi đến với tôi, Fley đang định đi đâu khi hắn bị bắn? Hắn đi bộ đến chỗ nào? Không phải về phòng hắn. Hắn sống ở số 2B, ở đầu con phố, và hắn đi về hướng ngược lại. Khi bị bắn, hắn đã đi dược quá nửa con phố, giữa số 18 ở bên phải và số 21 ở bên trái – nhưng lại đứng ở giữa đường, tất nhiên rồi. Đó là manh mối tốt, và tôi đã cử Somers đi khám xét. Anh ta phải đi đến từng nhà từ đoạn đó con phố trở đi, tìm kiếm bất cứ khách trọ nào mới đến, đáng nghi, hoặc đáng chú ý. Với kiểu cách các bà chủ nhà bây giờ, chúng ta có thể tìm được cả tá trường hợp, nhưng điều đó không quan trọng.”
Ngồi lún hết cỡ trên cái ghế lớn, tiến sĩ Fell vò đầu. “Đúng, nhưng tôi sẽ không tập trung quá nhiều vào hai đầu đường. Theo tôi là cứ lục tung hết lên. Ông thấy đấy, giả sử như Fley đang chạy trốn ai đó, hắn sẽ bị bắn khi nào?”
“Khi đi vào một con hẻm cụt?”
“Sai! Tôi nói là sai bét!” Vị tiến sĩ gầm lên, nhấc mình lên khỏi ghế. “Không phải chỉ vì tôi không thấy chuyện này có lí tẹo nào (điều tôi sẵn sàng thừa nhận), mà còn vì sự đơn giản của toàn bộ sự việc khiến tôi phát điên lên. Đây không phải là trò phù phép giữa bốn bức tường. Ở đây có một con đường. Có một người đi trên đường trong trời tuyết. Có tiếng thét lên, có tiếng thì thầm, bùm! Nhân chứng quay lại, hung thủ biến mất. Biến đi đâu? Có phải khẩu súng bay trong không khí như một con dao, bắn vào lưng Fley, và xoay vòng đi mất không?”
“Nhảm nhí!”
“Tôi biết là nhảm nhí. Nhưng tôi vẫn đặt ra câu hỏi,” tiến sĩ Fell gật đầu. Ông kéo kính xuống và đưa tay lên dụi mắt. “Những tình tiết mới này có ảnh hưởng thế nào đến những người trong ngôi nhà ở quảng trường Russell? Ý tôi là, cứ coi như tất cả đều trong diện nghi vấn, chúng ta không thể loại bỏ được ai à? Kể cả nếu họ nói dối chúng ta ở nhà Grimaud, họ cũng không thể đi ra ngoài ném khẩu Colt ở giữa phố Cagliostro.”
Sự châm biếm làm vặn vẹo gương mặt ngài chánh thanh tra cấp cao. “Xin chú ý là đến đây thì chúng ta gặp chút may mắn đấy. Tôi quên mất! Ta có thể loại bỏ một hai người khỏi danh sách tình nghi – nếu vụ ở phố Cagliostro diễn ra muộn hơn, hoặc thậm chí sớm hơn một chút. Nhưng không. Fley bị bắn vào đúng 10 giờ 25. Nói cách khác, khoảng 15 phút sau khi Grimaud bị bắn. Henri không bỏ lỡ giây nào. Hắn đã biết trước chính xác những gì ta sẽ làm: cử một người đi bắt Fley ngay khi có báo động. Chỉ có Henri (hoặc ai đó) lường trước được mọi hành động của chúng ta. Hắn ở đó với cái trò biến mất của hắn.”
‘“Hoặc ai đó?’” tiến sĩ Fell nhắc lại. “Cách suy nghĩ của ông rất thú vị. Tại sao lại ‘hoặc ai đó’?”
“Đó là điều tôi đang muốn nói đến – khoảng thời gian 15 phút không ai để ý sau khi Grimaud bị giết. Tôi đang nhận ra những thủ thuật mới trong vụ án, Fell. Nếu muốn thực hiện một loạt những vụ án mạng một cách khôn ngoan, thì đừng làm một vụ rồi dừng lại và đợi đến khoảnh khắc quyết định để thực hiện vụ tiếp theo. Làm vụ thứ nhất – rồi làm vụ tiếp theo ngay lập tức, khi những người theo dõi còn đang quá bối rối với vụ thứ nhất đến nỗi không ai, kể cả cảnh sát, có thể nhớ chính xác ai ở đâu vào lúc nào. Đúng không?”
“Thôi nào,” tiến sĩ Fell gầm gừ, để che giấu sự thật là ông cũng không nhớ được. “Lập một thời gian biểu cũng dễ thôi mà. Để xem nhé. Chúng ta đến nhà Grimaud… lúc mấy giờ?”
Hadley ghi nhanh lên một mảnh giấy. “Ngay khi Mangan nhảy ra ngoài cửa sổ, tức là không nhiều hơn hai phút sau khi có tiếng súng. Cứ cho là 10 giờ 12 phút đi. Chúng ta chạy lên tầng, phát hiện cửa bị khóa, lấy cái kìm, và mở cửa ra. Cứ cho là thêm 3 phút nữa.”
“Như thế liệu có hơi ít không?” Rampole chen vào. “Có vẻ như chúng ta đã chạy lòng vòng khá lâu.”
“Người ta thường nghĩ thế. Thật ra,” Hadley nói, “tôi cũng nghĩ như thế cho đến khi tôi xử lí vụ đâm người ở Kynaston (nhớ không, Fell?), khi một kẻ sát nhân cực kì thông minh đã gây dựng chứng cứ ngoại phạm của mình dựa trên việc các nhán chứng luôn luôn ước lượng quá thời gian. Đó là vì chúng ta suy nghĩ theo phút hơn là theo giây. Cứ thử mà xem. Để một cái đồng hồ lên bàn, nhắm mắt lại, và mở mắt ra khi cậu nghĩ là đã hết một phút. Cậu sẽ thấy là mình mở mắt ra sớm khoảng 30 giây. Không, cứ cho ở đây là 3 phút!” Ông cau mày. “Mangan gọi điện, và xe cứu thương đã đến rất nhanh. Ông có nhớ địa chỉ của viện dưỡng lão đó ở đâu không, Fell?”
“Không. Tôi để những chi tiết vặt vãnh đó cho ông,”
Tiến sĩ Fell nói nghiêm chỉnh. “Có người nói nó ở ngay gần đó thôi, tôi nhớ như vậy.”
“Trên phố Guilford, cạnh Bệnh viện Nhi. Thật ra,” Hadley nói, “bệnh viện ở gần phố Cagliostro đến nỗi vườn sau chắc phải ngang với phố… Cứ cho là mất 5 phút để xe cứu thương đến quảng trường Russell. Như vậy là 10 giờ 20. Còn 5 phút tiếp theo, trước khi xảy ra vụ án mạng thứ hai, và 5,10 hay 15 phút cũng quan trọng không kém sau đó? Rosette Grimaud, một mình, đi chung xe cứu thương với cha, và một lúc sau đó mới quay về. Mangan, ngồi một mình dưới tầng giúp tôi gọi điện thoại, và không lên nhà cho đến khi Rosette quay lại. Tôi không thật sự cho rằng một trong hai người họ là thủ phạm, nhưng cứ thử giả thiết xem. Drayman? Không ai thấy Drayman trong suốt khoảng thời gian này và rất lâu sau đó. Còn Mills và bà Dumont… hừm. Đúng. Tôi e là họ có chứng cứ ngoại phạm. Mills nói chuyện với chúng ta trong hầu hết khoảng thời gian đó, cho đến ít nhất 10 giờ 30, và bà Dumont đến ngay sau đó, cả hai đều ở với chúng ta một lúc lâu. Chia chi li thời gian ra thì là như vậy.”
Tiến sĩ Fell cười khục khục. “Thật ra,” ông trầm ngâm nói, “giờ thì chúng ta chỉ biết được chính xác những gì chúng ta đã biết trước đây, không hơn không kém. Những người duy nhất có chứng cứ ngoại phạm là những người mà chúng ta chắc chắn là vô tội, và những người phải nói sự thật nếu muốn câu chuyện này có ý nghĩa. Hadley, chính sự kì quái của mọi việc nói chung mới khiến tôi thấy khó hiểu. Nhân tiện, ông có tìm được gì khi khám xét phòng ông Drayman đêm qua không? Vết máu đó thì sao?”
“Ồ, đó là máu người, nhưng chẳng có gì trong phòng Drayman đem lại manh mối cả. Có vài cái mặt nạ bằng giấy bồi, đúng. Nhưng là những cái mặt nạ được làm tỉ mỉ với ria và mắt lồi, kiểu những thứ dễ thu hút trẻ con. Không có gì màu hồng cả. Có rất nhiều thứ để trẻ con đóng kịch, vài cái pháo hoa cải cũ và chong chóng gió, một nhà hát đồ chơi…”
“Giá vé một penny và hai xu,” tiến sĩ Fell cười phì phì khi hồi tưởng lại. “Tuổi thư huy hoàng đã xa. Chà! Sự hùng vĩ của một nhà hát đồ chơi! Thuở còn thơ, Hadley, cái thuở mà mỗi lần tôi đi đến đâu là tôi đem hào quang huy hoàng đến đấy (à này, đây là một chính đề mà có thể cha mẹ tôi đã tranh luận rất nhiều); thuở tôi còn nhỏ, tôi có một cái nhà hát đồ chơi có 16 bối cảnh. Một nửa trong số đó, tôi rất vui khi kể cho mọi người nghe, là cảnh nhà tù. Tôi tự hỏi tại sao trí tưởng tượng non nớt lại bị cảnh nhà tù thu hút mạnh mẽ đến vậy? Tại sao?”
“Ông bị làm sao vậy?” Hadley nhìn chằm chằm. “Sao tự nhiên lại ủy mị thế?”
“Bởi tôi vừa nảy ra một ý này,” tiến sĩ Fell nói nhẹ nhàng. “Và đó là một ý cực hay!” Ông tiếp tục chớp mắt nhìn Hadley. “Còn Drayman thì sao? Ông có định bắt ông ta không?”
“Không. Thứ nhất, tôi không thấy ông ta có khả năng làm việc đó, và tôi không thể xin được lệnh bắt. Thứ hai…”
“Ông không tin là ông ta có tội?”
“Hừm,” Hadley lẩm bẩm, với sự thận trọng bẩm sinh khi nghi ngờ sự vô tội của người khác. “Tôi không nói thế, nhưng tôi nghĩ ông ta ít có khả năng phạm tội hơn bất cứ ai khác. Dù sao thì chúng ta phải đi thôi! Đầu tiên là đến phố Cagliostro, sau đó thẩm vấn vài người. Cuối cùng…”
Họ nghe thấy tiếng chuông cửa vang lên, và một cô hầu gái còn ngái ngủ đi xuống trả lời.
“Có một quý ông ở dưới tầng, thưa ngài,” Vida nói, thò đầu vào trong phòng, “ông ta nói muốn gặp ngài hoặc ngài chánh thanh tra cấp cao. Ông ấy tên là Anthony Pettis, thưa ngài.”