- XII - Bức tranh
Tiến sĩ Fell, lúc này đang lẩm bẩm, cười khục khục và phụt tro từ chiếc tẩu như một ngọn núi lửa, đứng lên chào hỏi vị khách một cách thân mật khiến cho ông Anthony Pettis thoải mái hơn rất nhiều. Ông Pettis hơi cúi đầu chào từng người một.
“Xin thứ lỗi cho tôi, thưa các ông, vì đường đột đến đây sớm như vậy,” ông ta nói. “Nhưng tôi phải kể cho các ông chuyện này, nếu không thì tôi sẽ không thể thấy thoải mái được. Tôi biết là đêm qua các ông muốn gặp tôi. Và đêm qua là một đêm không hề dễ chịu gì, tôi xin khẳng định như vậy.” Ông ta cười. “Lần duy nhất tôi vi phạm pháp luật là khi tôi quên xin lại giấy phép nuôi chó, và lương tâm cứ dằn vặt tôi mãi. Mỗi khi tôi ra ngoài với con chó chết tiệt đó, tôi nghĩ mọi cảnh sát ở London đều nhìn mình đằng đằng sát khí. Thế nên tôi bắt đầu lẩn trốn cảnh sát. Trong trường hợp này, tôi nghĩ tốt hơn là chủ động tìm đến các ông. Ở Scotland Yard họ đưa cho tôi địa chỉ này.”
Tiến sĩ Fell lột áo khoác ngoài của Pettis một cách thô bạo khiến ông ta suýt té, rồi đẩy vị khách ngồi xuống ghế. Ông Pettis cười nhăn nhở. Ông ta có vóc người nhỏ và gọn gàng với tác phong cứng nhắc, cái đầu hói bóng loáng, và giọng nói rất to dễ khiến người ta giật mình. Ông ta có đôi mắt nổi bật hẳn lên trên gương mặt, nếp nhăn ở giữa trán khiến ông trông càng khôn ngoan hơn, cùng cái miệng hóm hỉnh, và chiếc cằm chẻ. Khuôn mặt của ông ta xương xẩu, thông minh, khổ hạnh và có phần lo lắng. Khi nói, ông ta có thói quen rướn người về phía trước, đan hai tay vào nhau và cau mày nhìn xuống đất.
“Chuyện với ông Grimaud thật tồi tệ,” ông ta nói, rồi do dự. “Theo lẽ thường thì tôi sẽ nói rằng tôi hi vọng có thể làm tất cả những gì có thể để giúp các ông. Trong trường hợp này thì đúng là như vậy.” Ông ta lại cười lần nữa. “Ờ… ông có muốn tôi ngồi hướng mặt về phía có ánh sáng không? Ngoài tiểu thuyết ra, thì đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với cảnh sát.”
“Vớ vẩn,” tiến sĩ Fell nói, rồi giới thiệu mọi người trong phòng. “Tôi đã muốn gặp ông từ lâu rồi, hai chúng ta từng viết về nhiều chủ đề chung. Ông uống gì? Whisky? Brandy và soda?”
“Bây giờ còn hơi sớm,” Pettis nói không chắc chắn. “Mặc dù vậy, nếu ông nhất định mời… cảm ơn! Tôi đã đọc quyển sách của ông về các thế lực siêu nhiên trong văn học Anh, thưa tiến sĩ, ông nổi tiếng hơn tôi nhiều. Và những gì ông viết đều có lí.” Ông cau mày. “Rất có lí. Nhưng tôi không hoàn toàn đồng ý với ông (hay tiến sĩ James) rằng hồn ma trong truyện lúc nào cũng có dã tâm…”
“Tất nhiên bao giờ chúng cũng có dã tâm. Càng ác độc,” tiến sĩ Fell nói như sấm, vặn vẹo khuôn mặt khiến nó trông có vẻ hơi nham hiểm, “thì càng tốt. Tôi không muốn có tiếng thở dài lịch sự quanh cái ghế tôi đang ngồi. Tôi không muốn những lời thì thầm ngọt ngào về Vườn Địa đàng. Tôi muốn MÁU!” Ông nhìn chòng chọc vào Pettis khiến ông ta cảm thấy Fell muốn máu của chính mình. “Ha. Tôi sẽ đưa ra các quy tắc cho ông, thưa ông. Hồn ma phải có dã tâm. Nó không bao giờ được cất tiếng. Nó không được trong suốt mà phải chạm vào được. Nó không được xuất hiện quá lâu, mà chỉ thoáng qua như một người thò mặt ra từ một góc nào đó. Nó không bao giờ xuất hiện ở nơi nào quá sáng sủa. Nó nên có nguồn gốc từ xa xưa, liên quan đến giáo hội hoặc giới học thuật, khiến ta liên tưởng đến các tu viện hoặc các bản thảo tiếng Latin. Một xu hướng đáng tiếc hiện nay là khinh rẻ những nơi như thư viện cổ hay những di tích xa xưa, mà chỉ cho những bóng ma kinh hoàng xuất hiện ở cửa hàng bán bánh kẹo hoặc quầy bán nước chanh. Họ gọi đó là đặt trong ‘bối cảnh hiện đại’. Cũng được thôi, thử áp dụng vào thực tế xem. Trong thực tế, người ta thường sợ mất mật ở những nơi như di tích cổ hay nghĩa địa. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng cho đến khi ai đó thật sự hét lên và ngất đi khi nhìn thấy cái gì đó ở một quầy bán nước chanh (tất nhiên là trừ khi họ sợ uống thứ nước đó), thì ta có thể khẳng định học thuyết đó là nhảm nhí.”
“Vài người nói,” Pettis nhận xét, nhướn một bên lông mày lên, “rằng những di tích cổ là nhảm nhí. Ông không nghĩ rằng thời buổi này có thể có những câu chuyện ma sao?”
“Tất nhiên là có thể, và có nhiều người tài giỏi đủ khả năng sáng tác chúng – nếu họ muốn, vấn đề là, họ sợ cái gọi là cường điệu thái quá. Nên nếu không thể không cường điệu, họ sẽ cố che giấu nó bằng cách viết theo kiểu vòng vèo và đảo lộn thứ tự khiến cho không ai có thể hiểu được họ định nói gì. Thay vì nói toạc ra là nhân vật nghe hay nhìn thấy gì, họ cố miêu tả ấn tượng. Giống như một người quản gia, khi thông báo tên vị khách tới dự dạ tiệc, lại đạp tung cửa phòng khách ra và hét lên: ‘Thoáng thấy một cái mũ chóp cao, hay là tia sáng lập lòe của những món đồ tôi để trên giá để ô?’ Ông chủ của người quản gia này chắc sẽ không hài lòng với cách thông báo này đâu. Chắc hẳn ông ta muốn biết kẻ dở hơi nào lại đến tìm ông ta. Sự kinh hoàng sẽ không còn kinh hoàng nữa nếu ta phải đánh vật với nó như một bài toán. Một người nghe một câu chuyện cười vào tối thứ bảy và mãi đến sáng hôm sau mới phá ra cười ở nhà thờ thì có thể đáng trách. Nhưng còn đáng trách hơn nếu người đó đọc truyện ma vào tối thứ bảy, và hai tuần sau mới ngỡ ra là mình phải sợ hãi. Thưa ngài, tôi cho là…”
Ngài chánh thanh tra cấp cao của Phòng Điều tra Tội phạm đã nổi đóa lên và hắng giọng liên tục từ nãy đến giờ. Nghe đến đây thì Hadley quyết định đặt dấu chấm hết cho cuộc tranh luận này bằng cách nện nắm đấm xuống mặt bàn.
“Từ từ thôi được không?” Ông ra lệnh. “Bây giờ chúng tôi không muốn nghe ông thuyết giảng. Và ông Pettis mới là người có điều muốn nói. Nên…” Khi thấy khuôn mặt đang phùng mang trợn má của tiến sĩ Fell lắng xuống chỉ còn một nụ cười nhăn nhở, ông ngọt nhạt nói tiếp, “thật ra, tôi muốn nói về đêm thứ bảy, đêm qua.”
“Và về cả bóng ma nữa chứ?” Pettis gặng hỏi trong cơn bốc đồng. Cơn bột phát của tiến sĩ Fell đã khiến ông hoàn toàn thoải mái. “Bóng ma đã lấy mạng Grimaud?”
“Đúng… Trước tiên, theo quy tắc, tôi phải yêu cầu ông cho biết mình đã làm gì đêm qua. Nhất là từ 9 rưỡi đến 10 rưỡi.” Pettis đặt cái cốc xuống. Mặt ông ta lại băn khoăn trở lại. “Ý ông là, ông Hadley, rốt cuộc là tôi đang bị nghi ngờ?”
“Bóng ma nói hắn là ông. Ông không biết sao?”
“Nói hắn là… ôi Chúa ơi, không!” Pettis thét lên, nhảy dựng lên như một con rối bật ra từ trong hộp. “Nói hắn là tôi? Ý tôi là… nói hắn là… thứ lỗi cho ngữ pháp của tôi! Tôi muốn biết ông đang nói về cái gì? Ý ông là sao?” Ông ta im lặng ngồi xuống và nhìn chằm chằm khi nghe Hadley giải thích. Nhưng ông ta liên tục vặn vẹo cổ tay và cà vạt, và vài lần suýt ngắt lời Hadley.
“Do đó nếu ông có thể bác bỏ mối nghi ngờ đó thì hãy cho chúng tôi biết ông đã làm gì đêm qua…” Hadley lấy sổ tay ra.
“Chẳng ai nói gì với tôi về chuyện đêm qua cả. Tôi đến nhà Grimaud sau khi ông ấy bị bắn, nhưng không ai nói gì với tôi,” Pettis nói với vẻ băn khoăn. “Còn về đêm qua, tôi đã đến nhà hát: Nhà hát His Majesty’s.”
“Ông phải chứng minh được điều đó.”
Pettis cau mày. “Tôi không biết. Tôi thật lòng mong như vậy. Tôi có thể kể về vở kịch, mặc dù có lẽ cũng chẳng có ích gì. Đúng rồi, tôi nghĩ mình vẫn giữ cuống vé ở đâu đó, hoặc tờ chương trình. Nhưng ông muốn biết tôi có gặp người quen nào ở đó đúng không? Ờ? Không, tôi e là không… trừ khi tôi tìm được ai đó nhớ mặt mình. Tôi đi một mình. Ông thấy đấy, tất cả những người bạn ít ỏi của tôi đều có những thói quen bất di bất dịch. Hầu như chúng tôi biết chính xác từng người ở đâu, nhất là vào tối thứ bảy, và chúng tôi không muốn thay đổi điều này.” Mắt ông lấp lánh một cách gượng gạo. “Đó là… đó là phong cách Bohemian đúng đắn, tuy hơi tẻ nhạt.”
“Điều đó,” Hadley nói, “có thể đã khiến kẻ sát nhân chú ý. Những thói quen đó là gì?”
“Grimaud lúc nào cũng làm việc – xin lỗi, tôi vẫn chưa quen nổi với ý nghĩ ông ấy đã chết – lúc nào cũng làm việc đến 11 giờ. Sau 11 giờ ông có thể làm phiền ông ấy đến bao giờ tùy thích, ông ấy thuộc dạng cú đêm, nhưng trước đó thì không được. Burnaby lúc nào cũng chơi poker ở câu lạc bộ. Mangan, thuộc dạng theo hầu, ngồi với con gái của Grimaud. Hai người đó ở cùng với nhau hầu như mọi buổi tối. Tôi đến nhà hát hoặc đi xem phim, nhưng không thường xuyên lắm. Tôi là ngoại lệ.”
“Tôi hiểu. Và sau khi đi nhà hát đêm qua? Ông về lúc mấy giờ?”
“Gần 11 giờ hoặc hơn một chút. Tôi vẫn không muốn ngủ. Tôi định đến nhà Grimaud và làm một li với ông ấy. Và ông biết chuyện gì xảy ra rồi đấy. Mills đã kể cho tôi. Tôi xin phép gặp các ông, hoặc người nào đó chịu trách nhiệm. Sau khi đợi ở tầng dưới một lúc lâu mà không ai chú ý đến mình,” ông nói giọng hơi gắt gỏng, “tôi đi sang nhà dưỡng lão để xem tình hình Grimaud thế nào. Tôi đến vừa lúc ông ấy qua đời. Ông Hadley, tôi biết chuyện này thật kinh khủng, nhưng tôi thề với ông…”
“Sao ông lại muốn gặp tôi?”
“Tôi đã ở quán rượu khi gã Fley thốt ra lời đe dọa, và tôi nghĩ mình có thể giúp ích cho cuộc điều tra. Tất nhiên ở thời điểm đó tôi nghĩ Fley chính là hung thủ, nhưng sáng nay khi đọc báo…”
“Đợi đã! Trước khi ta nói đến chuyện đó, tôi hiểu là dù kẻ nào đóng giả ông, hắn cũng đã bắt chước mọi cử chỉ điệu bộ của ông, đúng không? Tốt! Vậy thì ông có nghi ngờ ai trong số những người thân (hoặc không thân) của ông có thể làm điều đó?”
“Hoặc muốn làm điều đó,” tiến sĩ Fell nói lanh lảnh.
Pettis ngả lưng ra ghế, rất cẩn thận chú ý đến nếp gấp trên quần. Rõ ràng sự lo lắng đã bị bộ óc ham hiểu biết và tò mò xua tan: một bài toán khó khiến ông ta hứng thú. Chụm các ngón tay vào nhau, ông ta nhìn chằm chằm ra bên ngoài những cửa sổ dài.
“Đừng nghĩ rằng tôi lẩn tránh những câu hỏi của ông, ông Hadley,” ông nói, húng hắng ho. “Nói thẳng ra, tôi không thể nghĩ được ai cả. Nhưng vấn đề này khiến tôi lo lắng không chỉ cho sự an toàn của bản thân mình. Nếu các ông nghĩ ý tưởng của tôi quá mơ hồ, hay quá nhảm nhí, tôi sẽ để tiến sĩ Fell phán xét. Hãy giả sử, để tranh luận thôi, rằng tôi là hung thủ.”
Ông ta nhìn Hadley, người đang ngồi thẳng lên, với vẻ chế giễu.
“Đợi đã! Tôi không phải hung thủ, nhưng hãy giả sử thế. Tôi đến giết Grimaud trong bộ quần áo cải trang kì dị (mà nhân tiện, tôi thà giết người còn hơn để người khác thấy mình mặc nó). Hừm! Tôi sẽ giả vờ tuân theo phần còn lại của trò lố đó. Có thể nào, với tất cả những điều đó, tôi sẽ thản nhiên nói tên thật của mình cho đám thanh niên đó không?”
Ông ta dừng lại, gõ các ngón tay vào nhau.
“Đầu tiên người ta sẽ nghĩ thế – một cái nhìn thiển cận. Nhưng một thanh tra cực kì thông minh sẽ trả lời: ‘Đúng, một tên giết người tinh khôn sẽ làm y như vậy. Đó là cách hiệu quả nhất để lừa bịp những người nóng vội nhảy ngay đến kết luận đầu tiên. Hắn đổi giọng mình một chút, đủ để người ta nhớ đến sau này. Hắn bắt chước giọng của Pettis vì hắn muốn người ta nghĩ hắn không phải Pettis.’ Ông đã nghĩ đến điều đó chưa?”
“Ô, có chứ,” tiến sĩ Fell tươi cười nói. “Đó là điều đầu tiên chúng tôi nghĩ đến.”
Pettis gật đầu. “Vậy ông sẽ nghĩ đến câu trả lời cho câu hỏi đó, và sẽ phải bác bỏ khả năng tôi là thủ phạm. Nếu tôi làm trò này, thì tôi sẽ thay đổi giọng nói của mình một chút. Nếu ban đầu người nghe tin rằng đó là giọng của tôi, thì sau đó họ sẽ không nghi ngờ những gì tôi muốn họ nghi ngờ. Nhưng,” ông ta chỉ ra, “điều tôi sẽ làm là sơ suất một chút trong khi nói. Tôi sẽ có thể nói điều gì đó bất bình thường, hoàn toàn khác hẳn những gì bản thân tôi thường nói, để sau này họ sẽ nhận ra. Và vị khách này đã không làm điều đó. Hắn bắt chước trơn tru đến nỗi khiến hắn không thể là tôi. Dù các ông có suy luận đơn giản hay phức tạp, tôi đều có thể tuyên bố mình vô tội, dù tôi có phải là kẻ ngốc hay không.”
Hadley phá lên cười. Ông thích thú nhìn từ Pettis sang tiến sĩ Fell, và ông không thể giữ vẻ lo lắng lâu hơn được nữa.
“Hai người đúng là giống nhau như đúc,” ông nói. “Tôi thích mấy trò suy đoán quay vòng như thế. Nhưng tôi nói từ kinh nghiệm thực tế, ông Pettis, rằng bất cứ tên tội phạm nào cố làm như vậy đều sẽ gặp nguy, cảnh sát sẽ không dừng lại để nghi xem hắn có phải là kẻ ngốc hay không. Cảnh sát sẽ chọn suy luận đơn giản nhất, và treo cổ hắn ta lên.”
“Như ông sẽ treo cổ tôi,” Pettis nói, “nếu ông tìm được bằng chứng ủng hộ suy luận đó?”
“Chính xác.”
“Hừm… Dù sao ông cũng rất thẳng thắn,” Pettis nói, mặc dù ông ta đột nhiên lo lắng và hoảng hốt trước câu trả lời đó. “Tôi có thể nói tiếp được không? Ông làm tôi thấy mất tự tin rồi đấy.”
“Cứ nói tiếp đi,” ngài chánh thanh tra cấp cao giục, với một cử chỉ nhã nhặn. “Chúng tôi rất sẵn lòng nghe ý kiến của một người thông minh. Ông còn có giả thuyết gì nữa?”
Câu nói mỉa mai vừa rồi của Hadley, dù cố ý hay không, đã đem đến một kết quả không ai ngờ tới. Pettis mỉm cười, nhưng mắt ông ta bất động và khuôn mặt ông ta lại càng trở nên xương xẩu hơn.
“Đúng, tôi nghĩ là thế,” ông ta đồng ý. “Kể cả những giả thuyết các ông có thể đã có. Để tôi trình bày thử một cái. Ông, hay ai đó, đã trả lời phỏng vấn báo chí sáng nay, về vụ sát hại Grimaud. Ông nói rằng hung thủ đã rất cẩn thận không để lại dấu chân nào trên tuyết khi hắn biến mất. Hắn chắc chắn rằng đêm đó sẽ có tuyết rơi, lên kế hoạch tương ứng, và đánh cược vào việc tuyết sẽ ngừng rơi để hắn thực hiện thành công mưu đồ của mình. Dù nói thế nào, hắn phải mong rằng sẽ có tuyết rơi. Điều đó có đúng không?”
“Tôi đã nói điều tương tự như vậy, đúng. Thì sao?”
“Thì tôi nghĩ ông nên nhớ,” Pettis trả lời bình thản, “rằng dự báo thời tiết không hề nói như vậy. Ngày hôm qua người ta dự báo rằng sẽ không có tuyết.”
“Ô, Bacchus!” tiến sĩ Fell gầm lên, và nện nắm đấm xuống bàn sau khi dừng lại một chút để nhìn chằm chằm vào Pettis. “Giỏi lắm! Tôi chưa nghĩ ra điều đó. Hadley, điều này sẽ thay đối hoàn toàn mọi việc! Nó…”
Pettis thả lỏng người. Ông ta lấy hộp thuốc lá ra và mở nó. “Tất nhiên sẽ có người phản đối. Có thể phản bác lại rằng kẻ giết người biết trời sẽ có tuyết mặc dù dự báo thời tiết nói là không. Nhưng trong trường hợp đó, suy luận khôn khéo các ông trông gần giống một trò hề rồi đấy. Tôi sẽ không suy luận như thế đâu. Thật ra thì dự báo thời tiết cũng phải nhận nhiều lời giễu cợt không đúng như dịch vụ điện thoại. Nhưng trong trường hợp này thì đúng là dự báo đã sai – nhưng điều đó không quan trọng. Ông không tin tôi à? Hãy tìm báo tối qua mà xem.”
Hadley chửi thề rồi cười. “Xin lỗi,” ông nói. “Tôi vốn không có ý làm ông phiền lòng, nhưng tôi vui vì tôi đã làm thế. Đúng, điều đó dường như đã thay đổi mọi thứ. Khỉ thật, nếu một gã cần có tuyết để phạm tội, thì rõ ràng gã phải cân nhắc đến dự báo thời tiết.” Hadley gõ liên hồi lên bàn. “Không quan trọng, chúng ta sẽ quay lại chuyện đó sau. Giờ tôi muốn nghiêm túc hỏi ý kiến ông.”
“Tôi e là chỉ có thế thôi. Tội phạm học thuộc về chuyên ngành của Burnaby hơn là tôi. Tôi chỉ để ý đến dự báo thời tiết,” Pettis thừa nhận, nhìn lên quần áo mình với vẻ giễu cợt, “để xem mình có nên mang ủng đi tuyết hay không thôi. Thói quen… Còn về người đã giả giọng tôi, tại sao lại lôi kéo tôi vào? Tôi chỉ là một ông già lẩm cẩm vô hại, tôi đảm bảo với các ông. Tôi không giống một kẻ báo thù. Lí do duy nhất khiến các ông nghĩ tôi làm việc này mà tôi có thể nghĩ đến, là vì tôi là người duy nhất không có thói quen xác định vào đêm thứ bảy và không thể chứng minh mình có bằng chứng ngoại phạm. Còn về nghĩ xem ai có thể làm việc đó – bất cứ kẻ bắt chước giỏi nào cũng có thể làm được, vậy thì làm sao tôi có thể biết là ai?”
“Thế còn những người ở quán Warwick? Ngoài những người chúng tôi được nghe kể thì còn những người khác chứ?”
“Ồ, đúng. Có hai người không đến thường xuyên. Nhưng tôi không nghĩ hai người họ có thể làm việc này. Có ông già Mornington, người đã làm việc ở Bảo tàng Anh hơn 50 năm, ông ta có giọng nam cao bị vỡ không giả thành giọng của tôi được. Ngoài ra còn có Swayle, nhưng tôi tin rằng anh ta nói chuyện trên đài phát thanh tối qua, về đời sống của kiến hay gì đó, chắc là có bằng chứng ngoại phạm…”
“Nói chuyện lúc mấy giờ?”
“Khoảng 9 giờ 45, tôi nghĩ thế, mặc dù tôi không thể khẳng định chắc chắn. Ngoài ra, cả hai người họ chưa bao giờ đến nhà Grimaud. Còn những người tình cờ ghé vào quán? Có thể có vài người ngồi nghe ở cuối phòng, nhưng chưa có ai tham gia cuộc nói chuyện bao giờ. Tôi cho rằng đó là manh mối tốt nhất của ông, dù cho nó rất mỏng manh.” Pettis lấy điếu thuốc ra và đóng cái hộp lại nghe tách một cái. “Đúng. Chúng ta nên xác định kẻ đó là một người lạ, nếu không thì chúng ta sẽ rơi vào cát lún mất. Burnaby và tôi là hai người bạn thân duy nhất của Grimaud. Nhưng tôi không làm, và Burnaby lúc đó đang chơi bài.”
Hadley nhìn Pettis. “Tôi cho rằng… Mà ông Burnaby thực sự đang chơi bài lúc đó?”
“Tôi không biết,” Pettis thừa nhận một cách bộc trực.
“Nhưng tôi cá với ông là ông ta thực sự đang chơi bài lúc đó. Burnaby không phải là kẻ ngốc. Và phải cần một gã cực kì đần độn mới quyết định giết người vào cái đêm mà sự vắng mặt của gã ở một câu lạc bộ chắc chắn sẽ bị người ta để ý.”
Rõ ràng điều này gây ấn tượng với ngài chánh thanh tra cấp cao nhiều hơn tất cả những gì Pettis đã nói. Ông tiếp tục gõ tay xuống bàn với vẻ mặt cau có. Tiến sĩ Fell cũng đang ngồi nhắm mắt trầm tư. Pettis tò mò nhìn từ người này sang người kia.
“Tôi đã nói điều gì khiến các ông suy tư à?” ông ta nói, và Hadley lanh lợi hẳn lên.
“Đúng, đúng! Đừng dừng lại! Giờ hãy nói về Burnaby, ông biết ông ấy đã vẽ bức tranh mà tiến sĩ Grimaud mua để tự vệ chứ?”
“Để tự vệ? Bằng cách nào? Khỏi cái gì?”
“Chúng tôi không biết. Tôi hi vọng là ông có thể giải thích điều đó.” Hadley chăm chú quan sát Pettis. “Cái sở thích nói những câu bí hiểm có vẻ được di truyền trong gia đình này. Nhân tiện, ông có biết gì về gia đình ông ấy không?”
Pettis bối rối trông thấy. “Chà, Rosette là một cô gái quyến rũ. Ờ… mặc dù tôi không cho là con bé thích nói những câu bí hiểm. Ngược lại là khác. Theo tôi con bé hơi quá hiện đại.” Trán ông nhăn lại. “Tôi chưa gặp vợ Grimaud bao giờ, bà ấy đã qua đời nhiều năm rồi. Nhưng tôi vẫn không thấy…”
“Không sao. Ông nghĩ thế nào về Drayman?”
Pettis chặc lưỡi. “Ông già Hubert Drayman là người đáng tin nhất tôi từng gặp. Đáng tin đến nỗi vài người còn nghĩ trong ông ta hẳn phải che giấu một sự xảo trá quỷ quyệt. Xin lỗi, nhưng các ông nghi ngờ ông ta phải không? Nếu có, tôi nên quên điều đó đi.”
“Chúng ta quay lại với Burnaby vậy. Ông có biết vì sao ông ta lại vẽ bức tranh đó, hay vẽ vào lúc nào, hay bất cứ thông tin gì về nó không?”
“Tôi nghĩ ông ấy vẽ nó vào khoảng một, hai năm trước. Tôi nhớ rất rõ, vì đó là bức tranh lớn nhất trong xưởng vẽ của ông ấy. Ông ta dùng nó như một tấm bình phong, hay để phân chia xưởng vẽ, hay để dựng ở cuối phòng, mỗi khi ông ấy cần. Có lần tôi từng hỏi ông ấy bức tranh này nói lên điều gì. Ông ấy nói, ‘Một hình ảnh tưởng tượng về một nơi tôi chưa từng thấy.’ Nó có tên tiếng Pháp, Dans l’Ombre des Montagnes du Sel, hay đại loại như vậy.” Ông ta thôi không gõ điếu thuốc chưa châm vào hộp thuốc. Bộ não tò mò, hoạt động không biết mệt mỏi của ông lại hoạt động trở lại. “À ha! Giờ tôi nhớ rồi, Burnaby nói: ‘Ông không thích nó sao? Nó khiến Grimaud sợ phát khiếp khi ông ấy nhìn thấy nó.’ ”
“Tại sao?”
“Tôi không để ý. Tôi cứ nghĩ nó là một trò đùa hay trò khoe khoang của ông ấy, vì ông ấy cười khi nói điều đó, và Burnaby hay làm trò đó. Nhưng bức tranh đó đã bị bỏ quên và đóng bụi trong một thời gian dài đến nỗi tôi rất ngạc nhiên khi Grimaud ập vào xưởng vẽ vào sáng thứ sáu và hỏi mua nó.”
Hadley thình lình nghiêng người về phía trước. “Ông cũng ở đó à?”
“Ở xưởng vẽ? Vâng. Tôi ghé qua sớm vì… tôi quên mất lí do rồi. Grimaud thình thịch đi vào…”
“Giận dữ?”
“Đúng. Không. Hãy cho là ông ấy bị kích động đi.” Pettis nhớ lại, lén quan sát Hadley. “Grimaud nói, giọng liến thoắng như súng liên thanh, ‘Burnaby, bức tranh ngọn núi muối của anh đâu rồi? Tôi muốn mua nó. Giá bao nhiêu?’ Burnaby nhìn ông ấy với vẻ kì lạ. Burnaby tập tễnh đi ra chỉ vào bức tranh và nói: ‘Nó là của ông đấy nếu ông muốn, ông bạn. Mang nó đi.’ Grimaud nói, ‘Không, tôi có việc cần dùng đến nó và tôi muốn mua nó.’ Khi Bumaby ra một cái giá ngớ ngẩn như 10 shilling, Grimaud trịnh trọng lấy tập chi phiếu ra và viết một tấm chi phiếu 10 shilling. Ông ấy không nói gì ngoài việc ông ấy định treo nó lên một bức tường ở phòng làm việc của ông ấy. Chỉ có thế. Ông ấy mang bức tranh xuống tầng dưới và tôi gọi xe đến mang nó đi…”
“Nó có được bọc không?” tiến sĩ Fell hỏi, giọng ông chói tai đến nỗi Pettis nhảy dựng.
Tiến sĩ Fell có vẻ quan tâm hơn, nếu không nói là tập trung cao độ khi nghe Pettis kể lại chuyện này, hơn tất cả các điều khác Pettis đã nói. Tiến sĩ cúi người về phía trước, tay nắm chặt lấy cái gậy, và Pettis nhìn ông với vẻ tò mò.
“Tôi không hiểu tại sao ông lại hỏi như vậy,” ông ta nói. “Tôi vừa chuẩn bị nói về việc đó đây – việc Grimaud cứ nhặng xị lên bắt người ta phải bọc nó. Ông ta hỏi xin giấy, và Burnaby nói: ‘Ông nghĩ tôi lấy đâu ra tờ giấy đủ to để bọc nó? Tại sao phải xấu hổ vì nó? Cứ để nguyên thế mà cầm về đi.’ Nhưng Grimaud cứ khăng khăng mang nó xuống tầng và mua cả đống giấy gói hàng từ một cửa hàng gần đó. Điều đó có vẻ làm cho Burnaby hết sức khó chịu.”
“Ông có biết liệu Grimaud có mang nó thẳng về nhà không?”
“Không… tôi nghĩ ông ta mang nó đi đóng khung, nhưng tôi không chắc.”
Tiến sĩ Fell ngả lưng ra ghế với một tiếng cằn nhằn và không hỏi gì về chuyện đó nữa, mặc cho những gợi ý của Pettis. Mặc dù Hadley có tiếp tục hỏi thêm một lúc nữa, nhưng theo như Rampole thấy thì không tìm được chi tiết nào quan trọng. Bản thân anh thấy Pettis ăn nói rất thận trọng, nhưng như ông ấy nói, chẳng có gì để giấu giếm cả. Trong nhà Grimaud không có xích mích gì, và trong nhóm những người thân thiết của ông ấy cũng vậy, trừ sự xung khắc giữa Mangan và Burnaby. Mặc dù lớn hơn Rosette Grimaud đến 30 tuổi, Burnaby vẫn để ý đến cô ta, ông ta vừa lười biếng vừa ghen tuông. Tiến sĩ Grimaud không nói gì về chuyện này, nếu có ông ấy cũng khuyến khích Burnaby, mặc dù cho đến giờ Pettis thấy ông ấy không hề phản đối gì Mangan.
“Nhưng tôi nghĩ các ông sẽ thấy, thưa các quý ông,” Pettis kết luận, lúc ông ta đứng lên ra về khi đồng hồ Big Ben điểm 10 giờ, “rằng đấy đều là những vấn đề nhỏ nhặt. Rất khó có cơ sở để cho rằng đây là một vụ án mạng bột phát do ai đó trong nhóm gây ra. Về khía cạnh tiền bạc, tôi cũng không thể nói được gì nhiều. Grimaud là người khá dư dả, tôi nghĩ vậy. Luật sư của ông ấy, theo như tôi biết, là Tennant và Williams ở Gray’s Inn… Nhân tiện, tôi muốn mời các ông đến ăn trưa với tôi trong ngày chủ nhật ảm đạm này có được không? Tôi sống ở phía bên kia quảng trường Russell, tôi có một dãy phòng ở phố Imperial 15 năm rồi. Nếu các ông muốn điều tra khu vực xung quanh, thì có thể rất có ích. Hơn nữa, nếu tiến sĩ Fell muốn thảo luận về những câu chuyện ma..?”
Ông ta mỉm cười. Tiến sĩ Fell chen vào chấp nhận lời mời trước khi Hadley có thể từ chối, và Pettis ra đi với tâm trạng thong dong hơn nhiều so với khi ông ta đến. Sau đó họ nhìn nhau.
“Thế nào?” Hadley gầm gừ. “Tôi thấy ông ta cũng tương dối thành thật. Tất nhiên chúng ta sẽ kiểm tra. Điều khiến tôi ấn tượng là, tại sao bất cứ ai trong số họ lại quyết định phạm tội vào cái đêm mà sự vắng mặt của họ rất dễ bị để ý? Chúng ta sẽ đi thẩm vấn ông bạn Burnaby này, nhưng có vẻ ông ta cũng không liên quan gì, cũng vì lí do đó…”
“Và dự báo thời tiết nói sẽ không có tuyết rơi,” tiến sĩ Fell nói một cách bướng bỉnh. “Hadley, chi tiết đó đánh sập mọi giả thuyết! Nó đảo ngược mọi thứ, nhưng tôi không hiểu… Phố Cagliostro! Hãy đến phố Cagliostro. Ở đâu cũng hơn cái nơi tối tăm này.”
Ông nổi giận đùng đùng, và cà nhắc đi lấy áo khoác và mũ.