- XIII - Căn hộ bí mật
Vào sáng chủ nhật mùa đông xám xịt, London thưa thớt như một thành phố ma. Và con phố Cagliostro mà xe của Hadley vừa rẽ vào có vẻ như chẳng bao giờ thức dậy.
Phố Cagliostro, như tiến sĩ Fell nói, là một con phố hẹp và bẩn thỉu, đầy rẫy những cửa hiệu và nhà trọ. Nó ở phía sau phố Lamb’s Conduit – một con phố chính dài và hẹp, là một trung tâm mua sắm, mở rộng về phía bắc đến phố Guilford tĩnh lặng với những căn nhà có cửa sổ đóng chặt như trại lính, và về phía nam đến nơi đông đúc nhất trên đường Theobald. Cuối phố Guilford về hướng tây là lối rẽ vào phố Cagliostro, vốn nằm giữa một cửa hiệu đồ dùng văn phòng và một cửa hàng thịt. Con phố này nhìn không khác gì một con hẻm cụt mà ta dễ dàng bỏ qua nếu không nhìn vào biển hiệu. Xuyên qua giữa hai cửa hiệu đó, con phố bất ngờ mở rộng ra và kéo dài 180 mét, cuối phố là một bức tường gạch trống không.
Cái cảm giác kì lạ rằng ở London có những khu phố bị ẩn giấu, hay cả một dãy nhà dài được tạo ra bởi ảo thuật đánh lừa người qua đường, cứ canh cánh trong đầu Rampole khi anh dạo quanh thành phố. Đó là cái cảm giác kì lạ khiến người ta phải tự hỏi rằng, nếu bước chân ra khỏi cửa, liệu ta có thấy con phố nơi ta ở biến đổi một cách thần bí chỉ trong một đêm mà ta chưa từng thấy hay không. Anh đứng cùng Hadley và tiến sĩ Fell ở lối vào, nhìn về cuối con đường. Vô vàn các cửa hiệu hơi nhô ra hai bên đường. Tất cả cửa sổ đều có cửa chớp hoặc được che kín bằng cửa xếp bằng thép, khiến cho khách hàng có cảm giác như đứng trước một pháo đài được phòng thủ kiên cố. Kể cả những biển hiệu mạ vàng cũng đem lại cảm giác đó. Các cửa sổ cái bẩn cái sạch: cửa hiệu trang sức ở phía xa bên phải có cửa sổ bóng loáng, nhưng cửa hàng thuốc lá ngay gần chỗ họ đang đứng thì lại xám xịt âm u. Cửa hàng này co cụm lại còn thê thảm hơn thuốc lá để lâu ngày, và ẩn mình giữa những tờ áp phích giật những hàng tít về tin tức mà ta không thể nhớ là đã từng nghe thấy bao giờ chưa. Tiếp đó là hai hàng nhà gạch ba tầng đỏ đậm, với những khung cửa sổ màu trắng hoặc vàng, và một vài bộ rèm có viền một ít đăng ten đã đóng. Các ngôi nhà đều đã xỉn một màu bồ hóng. Cả dãy nhà trông như thể là một ngôi nhà duy nhất nếu không để ý tới những thanh sắt nối từ hàng rào bên ngoài đến từng cửa của mỗi căn nhà, chứng tỏ rằng bên trong là một ngôi nhà riêng biệt. Trên mái nhà là những ống khói đen ngòm nổi bật trên bầu trời xám xịt. Tuyết đã tan, chỉ để lại những đống bùn màu xám trên mặt đất, mặc cho những cơn gió lạnh buốt vẫn đang thổi mạnh vào con phố, cuốn theo một tờ báo bị ai đó vứt đi, khiến nó bay phần phật và vướng vào cột đèn.
“Vui vẻ nhỉ,” tiến sĩ Fell lẩm bẩm. Ồng ì ạch tiến lên, và trên phố vọng lại tiếng bước chân của ông. “Giờ hãy vào việc luôn trước khi chúng ta làm mọi người chú ý. Chỉ cho tôi chỗ Fley bị bắn. Dừng lại một chút! Nhân tiện thì hắn sống ở đâu?”
Hadley chỉ vào cửa hàng thuốc lá gần chỗ họ đang đứng.
“Bên trên cửa hiệu đó, ngay đầu đường, như tôi đã nói với ông. Ta sẽ đến đó sau, mặc dù Somers đã khám xét trên đó và nói là chẳng có gì cả. Giờ, đi cùng tôi đến giữa phố…”
Ông đi trước, bước từng bước dài cả mét để ước lượng khoảng cách. “Vỉa hè được quét dọn và đoạn đường có các cửa hiệu kéo dài đến chỗ này, khoảng 45 mét. Rồi sau đó là tuyết chưa ai dọn. Đi tiếp một quãng xa nữa, thêm 45 mét… ở đây.”
Ông dừng lại và chậm rãi quay người.
“Nửa con phố, ngay giữa đường. Ông có thể thấy con phố này rộng thế nào, đứng ở đây thì cách mỗi bên ít nhất 9 mét. Nếu hắn đi trên vỉa hè, ta có thể đưa ra giả thuyết ngông cuồng là có người vươn ra từ cửa sổ hay cửa chính, với khẩu súng buộc chặt vào đầu một cái sào nào đó, và…”
“Nhảm nhí!”
“Được rồi, nhảm nhí, nhưng ta còn có giả thuyết nào khác đâu?” Hadley lên giọng với vẻ bực bội, và vung cặp tài liệu lên. “Chính ông đã nói thế mà: con phố đây, nó trống trơn, đơn sơ và không thể tin nổi! Tôi biết là phải có cách nào đó, nhưng đó là cách gì? Hơn nữa nhân chứng cũng không thấy gì cả, và nếu có gì thì họ hẳn đã nhìn thấy rồi. Nhìn đây này! Đứng chỗ đó, và cứ quay mặt về phía này.” Ông bước đến một vị trí xa hơn, và quay lại sau khi nhẩm khoảng cách xong. Rồi ông bước sang vỉa hè bên phải. “Đây là chỗ mà Blackwin và Short nghe thấy tiếng hét. Ông bước đi giữa đường. Tôi đi trước ông. Tôi quay lại. Giờ tôi cách ông bao xa?”
Rampole, đứng cách xa hai người kia, nhìn thấy tiến sĩ Fell đứng một mình giữa một hình chữ nhật trống không.
“Lần này khoảng cách ngắn hơn. Hai người đó,” vị tiến sĩ nói, đẩy cái mũ rộng vành ra phía sau, “đứng trước không quá 9 mét! Hadley, điều này còn kì quái hơn tôi tưởng. Hắn đứng ở giữa một bãi tuyết vắng vẻ. Vậy mà họ quay lại khi nghe thấy tiếng súng… hừm… hừm…”
“Chính xác. Tiếp theo là ánh sáng, ông đóng vai Fley nhé. Ở bên phải ông, về phía trước, và ngay trước cánh cửa số nhà 18, Ông thấy một ngọn đèn đường, về phía sau một chút, cũng ở bên phải, ông thấy cửa sổ của cửa hiệu trang sức? Đúng. Cửa sổ đó cũng có thắp đèn, không sáng lắm, nhưng vẫn có. Giờ ông giải thích làm sao về việc hai người, đứng ở nơi tôi đang đứng bây giờ, có thể nhầm lẫn về việc có hay không có người đứng gần Fley?”
Ông cao giọng lên, và tiếng nói vọng lại trên phố như muốn nhạo báng ông. Tờ báo vứt dưới đất lại bị một cơn gió nữa cuốn lên bất thình lình. Cơn gió rít lên trầm trầm giữa những ống khói cứ như đang thổi qua một đường hầm. Cái áo khoác đen của tiến sĩ Fell bay lên phần phật, và sợi dây đeo kính của ông cũng lắc lư mạnh.
“Hiệu trang sức…” ông nhắc lại và nhìn chằm chằm. “Hiệu trang sức! Và ngọn đèn trong đó… có ai ở đó không?”
“Không. Withers đã nghĩ đến khả năng đó và đã đến xem. Đó chỉ là đèn hiệu. Cửa sắt bao bọc từ cửa sổ đến cửa chính giống như bây giờ. Nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ngoài ra, nó cách chỗ của Fley quá xa.”
Vị tiến sĩ vươn cổ nhìn ngó xung quanh, rồi đi lại cửa hiệu trang sức để chăm chú xem xét cái cửa sổ đã đóng đó. Ở bên trong có bày một cái khay nhung, trên đó có những chiếc nhẫn và đồng hồ rẻ tiền, một dãy giá đỡ nến, và ở chính giữa là một chiếc đồng hồ Đức mái tròn, mặt tròn với đôi mắt chuyển động qua lại, kim đồng hồ đã bắt đầu chỉ 11 giờ. Tiến sĩ Fell nhìn chằm chằm vào đôi mắt chuyển động, vốn có vẻ như đang quan sát hiện trường nơi một người đã bị giết hại với một sự thích thú ngớ ngẩn, khiến người ta cảm thấy không dễ chịu. Nó khiến không khí trên phố Cagliostro càng đáng sợ. Rồi tiến sĩ Fell nặng nề quay lại giữa đường.
“Nhưng nó,” ông bướng bỉnh, cứ như đang tiếp tục một cuộc tranh cãi còn dang dở, “nó ở phía tay phải con đường.
Và Fley bị bắn từ bên phía tay trái. Nếu ta giả thiết, mà chắc chắn phải làm thế thôi, là kẻ tấn công tiếp cận từ bên trái hay ít nhất khẩu súng biết bay đó bay từ bên trái sang, tôi không biết nữa! Cứ cho là kẻ giết người có thể đi trên tuyết mà không để lại dấu chân đi, ta có thể xác định được hắn từ đâu chui ra không?”
“Hắn từ đây ra,” một giọng nói vang lên.
Cơn gió nổi lên khiến cho giọng nói xoay vòng xung quanh họ, như thể nó vang lên giữa không trung vậy. Trong giây lát, dưới ánh đèn mờ mờ, Rampole hoảng hốt còn hơn cả trong vụ nhà tù Chatterham. Anh nhìn thấy ảo giác về những thứ bay lượn, và nghe những lời phát ra từ một người vô hình đang đứng ở đúng chỗ hai nhân chứng đã nghe thấy tiếng kẻ giết người thì thầm đêm hôm trước. Trong giây lát, có gì đó khiến anh nghẹn họng – rồi anh quay lại và hụt hẫng khi thấy nguyên nhân. Một chàng trai trẻ vạm vỡ với khuôn mặt đỏ và chiếc mũ quả dưa kéo xuống trán (khiến cho anh chàng trông có vẻ ám muội) đang đi xuống từ bậc thang của căn nhà số 18. Chàng trai trẻ cười ngoác miệng khi chào Hadley.
“Hắn đến từ đây, thưa ngài. Tôi là Somers, thưa ngài. Ngài còn nhớ là đã bảo tôi tìm hiểu xem gã người Pháp đã chết kia định đi đâu khi hắn bị giết. Và tìm xem bà chủ nhà nào có một vị khách trọ kì dị có thể là người mà chúng ta đang tìm kiếm hay không… Không khó khăn gì tôi đã tìm được một người như vậy. Hắn ở đây. Xin lỗi vì làm gián đoạn các ngài.”
Hadley, cố gắng không tỏ ra là mình đã bị sự xuất hiện của anh chàng này làm cho giật mình, gầm gừ mấy từ thể hiện sự hài lòng. Mắt ông đảo về phía đường vào nhà, nơi một người nữa đang đứng với vẻ do dự. Somers nhìn theo ánh mắt của Hadley.
“Ôi, không, thưa ngài. Đó không phải kẻ tôi nói tới,” anh ta nói, và lại mỉm cười. “Đó là ông O’Rourke, nghệ sĩ biểu diễn ở nhà hát, người đã nhận dạng gã người Pháp tối qua. Sáng nay ông ấy đã giúp đỡ tôi một chút.”
Người đó bước ra khỏi bóng tối và đi xuống mấy bậc thang. Trông ông ta có vẻ gầy dù đang mặc một chiếc áo khoác dày. Ông ta gầy và mạnh mẽ, với những bước đi nhanh và uyển chuyển của một nghệ sĩ nhào lộn hoặc đi trên dây. Trông ông ta có vẻ nhã nhặn, dễ gần. Ông ta hơi ngả người về sau một chút khi nói, để đủ chỗ cho mình hoa chân múa tay. Vẻ ngoài của ông ta giống một người đàn ông Ý với làn da hơi ngăm đen cùng bộ ria mép rậm rạp được vuốt sáp nhọn hoắt và uốn cong lại bên dưới cái mũi khoằm. Ngậm một cái tẩu cong lớn bên mép miệng, ông ta đang hút thuốc rất thoải mái. Đôi mắt xanh đầy nếp nhăn toát lên vẻ hài hước, và ông ta đẩy ngược chiếc mũ màu nâu vàng cầu kì về phía sau khi tự giới thiệu. Ông ta là một người Ireland với biệt danh Ý, ăn nói như người Mỹ, và tự giới thiệu mình là người Canada.
“O’Rourke là tên tôi, đúng,” ông nói, “John L. Sullivan O’Rourke. Có ai biết tên đệm của tôi là gì không? Các ông biết đấy, tên của…” Ông lùi lại và quơ tay phải trong không khí, “của người vĩ đại nhất? Tôi thì không. Ông già tôi cũng không, khi ông ấy đặt tên cho tôi. Tôi chỉ biết là L. thôi. Hi vọng các ông không phiền nếu tôi xen vào. Các ông thấy đấy, tôi biết gã khùng già cỗi đó…” Ông ta dừng lại, cười và xoắn bộ ria mép. “Tôi hiểu rồi, các ông! Các ông đang nhìn vào cặp ria mép này của tôi. Ai cũng thế cả. Là do cái bài hát chết tiệt đó. Các ông biết đấy. Bên quản lí nói sẽ là ý hay nếu tôi làm cho mình giống như gã trong bài hát đó. Ồ, đây là râu thật đấy! Xem này,” ông ta kéo bộ ria mép một cái, “không phải hàng giả. Nhưng tôi đang nói dở, tôi xin lỗi vì xen vào. Tôi rất tiếc cho Lão Khùng già…” Mặt ông sầm lại.
“Không sao đâu,” Hadley nói. “Cảm ơn vì sự giúp đỡ của ông. Đỡ mất công tôi phải đến nhà hát.”
“Dù sao giờ tôi cũng không làm việc được,” O’Rourke nói một cách u sầu. Ông ta kéo ống tay áo bên trái lên. Cổ tay đã được bó bột. “Nếu thông minh, tối qua tôi đã đi theo Lão Khùng. Nhưng đây! Đừng để tôi làm phiền…”
“Vang. Xin mời ông đi cùng,” Somers chen vào một cách dứt khoát. “Tôi có thứ này rất quan trọng muốn cho các ngài xem. Trong lúc đó tôi sẽ báo cáo. Bà chủ nhà ở tầng dưới đang thay đồ, và bà ấy sẽ kể cho các ngài nghe về vị khách đó. Không nghi ngờ gì nữa, đó là người các ngài tìm. Nhưng trước tiên tôi muốn cho các ngài xem phòng hắn.”
“Trong đó có gì?”
“Thưa ngài, trước tiên là có máu,” Somers trả lời, “và một loại dây thừng rất quái dị…” Anh ta có vẻ hài lòng khi thấy gương mặt của Hadley. “Ngài sẽ rất quan tâm đến sợi dây thừng đó. Gã này là kẻ trộm, hoặc một loại lừa đảo, nếu xét theo trang phục của hắn. Hắn lắp một loại khóa đặc biệt vào cửa để bà Hake (bà chủ nhà) không thể vào được. Nhưng tôi đã dùng chìa khóa của mình – không có gì bất hợp pháp cả, thưa ngài, rõ ràng tên này đã bỏ trốn. Bà Hake nói hắn đã thuê mấy căn phòng này được một thời gian, nhưng chỉ ở một vài lần từ khi…”
“Đi nào,” Hadley nói.
Somers đóng cửa sau lưng, dẫn họ vào một hành lang tối tăm và đi lên ba tầng cầu thang. Căn nhà rất chật hẹp, và chiếm toàn bộ diện tích mỗi tầng là một căn hộ có đầy đủ nội thất. Cánh cửa ở tầng trên cùng, gần cái thang đi lên mái nhà, đang mở, cái khóa phụ lấp lánh bên trên cái lỗ khóa bình thường. Somers đưa họ vào một lối đi khá tối có ba cánh cửa.
“Vào đây trước, thưa ngài,” anh nói, chỉ vào cánh cửa đầu tiên bên trái.” Đó là phòng tắm. Tôi phải cho một shilling vào công tơ điện để có ánh sáng!”
Anh bật công tắc. Cái phòng tắm bẩn thỉu này là một cái kho cũ được tân trang lại, với giấy dán tường giả gạch men, vải dầu đã cũ trên sàn, một bình nước nóng với phần trên quá to đã gỉ sét, và một cái gương lung lay treo trên chậu rửa với bình và bát đặt dưới đất.
“Hắn đã cố lau rửa nơi này, như ngài thấy,” Somers nói tiếp. “Nhưng ngài vẫn còn thấy các vết màu đỏ ở bồn tắm nơi nước đổ ra. Đó là nơi hắn rửa tay. Và đằng sau cái giỏ quần áo này…”
Anh ta đẩy cái giỏ sang bên cạnh một cách đầy kịch tính, đút tay vào chỗ bụi bặm đằng sau, và lấy ra một cái khăn mặt với những chỗ còn ướt đã chuyển sang màu hồng xỉn. “Hắn thấm quần áo bằng thứ này,” Somers vừa nói vừa gật gù.
“Giỏi lắm,” Hadley nói khẽ. Ông cầm cái khăn mặt lên, liếc về phía tiến sĩ Fell, cười rồi đặt nó xuống. “Sang phòng kia đi. Tôi rất tò mò về cái dây thừng đó.”
Tính khí của một kẻ nào đó thấm đẫm những căn phòng này như ánh đèn điện vàng vọt, như mùi hóa chất lạnh lẽo mà mùi thuốc lá nặng của O’Rourke cũng không thể át đi được. Nơi này giống một hang ổ trên nhiều phương diện. Phòng khách khá lớn, cửa sổ kéo rèm dày. Dưới cây đèn sáng đặt trên một cái bàn rộng là một loạt những dụng cụ bằng thép hoặc dây đồng với đầu tròn và đuôi cong (Hadley nói, “Đồ cậy khóa hả” và huýt sáo), một loạt những ổ khóa được tháo rời và một tập giấy ghi chú. Có cả một cái kính hiển vi lớn, một cái thùng đầy những tấm thủy tinh, một bàn hóa chất với một giá đựng sáu ống nghiệm có dán nhãn, trên tường đặt đầy sách, và ở góc nhà là một cái két sắt mà Hadley phải kêu lên khi nhìn thấy.
“Nếu hắn là kẻ trộm,” ngài chánh thanh tra cấp cao nói, “hắn phải là tên trộm hiện đại và am hiểu khoa học nhất tôi từng thấy. Tôi không biết ở Anh có ai biết trò này chưa. Ông đã thử nghiệm với mấy cái này, Fell. Có nhận ra không?”
“Có một cái lỗ lớn được đục ra ở trên nóc két sắt, thưa ngài,” Somers bổ sung. “Nếu hắn dùng ống xì đồng, thì đó là đường cắt bằng acetylene khéo léo nhất tôi từng thấy. Hắn…”
“Hắn không dùng ống xì đồng,” Hadley nói. “Tinh xảo và đơn giản hơn thế nhiều. Đó là phương pháp Krupp. Tôi không giỏi hóa học, nhưng tôi nghĩ đó là bột nhôm và oxide sắt. Trộn hai thứ đó ở trên cái két sắt, và thêm vào cái gì nhỉ? Bột magie, và châm một que diêm vào đó. Nó không nổ. Nó chỉ tạo ra sức nóng vài ngàn độ và nung chảy một lỗ qua két sắt… Thấy cái ống kim loại đặt trên bàn không? Chúng ta có một cái ở Bảo tàng Đen. Nó gọi là detectascope, hay còn gọi là ống kính mắt cá, với độ khúc xạ là nửa hình cầu như nhìn qua mắt cá vậy. Anh có thể gắn nó vào một lỗ trên tường và nhìn thấy mọi thứ ở phòng bên cạnh. Ông nghĩ sao, Fell?”
“Vâng, vâng,” vị tiến sĩ nói, lơ đãng nhìn như thể chuyện này chẳng quan trọng gì, “tôi hi vọng ông hiểu điều này có nghĩa là gì. Sự bí ẩn… Nhưng sợi dây thừng đâu? Tôi rất hứng thú với sợi dây thừng đó.”
“Ở phòng bên kia, thưa ngài. Phòng phía sau,” Somers nói. “Căn phòng nhìn khá bề thế, giống như… từ phương Đông vậy.”
Có thể anh ta muốn nói đến cái trường kỉ, hoặc cả cái hậu cung. Căn phòng đầy những trường kỉ và tranh treo tường màu sắc sặc sỡ, những quả tua, những đồ lòe loẹt, những nhóm vũ khí; mọi thứ toát lên vẻ hào nhoáng và bí ẩn theo phong cách Thổ Nhĩ Kì. Sự hiện diện của chúng ở nơi này khiến người ta ngạc nhiên đến nỗi cứ như thể họ đã thật sự lạc đến phương Đông. Hadley kéo rèm lên. Ánh sáng mặt trời mùa đông của khu Bloomsbury tràn vào, khiến cho khung cảnh huyền ảo trở nên ảm đạm. Họ nhìn ra phía sau những căn nhà dọc phố Guilford, nhìn xuống vỉa hè bên dưới, và một con ngõ dẫn tới phía sau Bệnh viện Nhi. Nhưng Hadley không chú ý đến điều đó lâu. Ông vồ lấy cuộn dây thừng đặt ở trên một cái trường kỉ. Cuộn dây mỏng nhưng rất chắc chắn, cứ 60 phân lại được thắt nút một lần. Một sợi dây thừng bình thường nếu không để ý đến cái thiết bị kì cục buộc vào một đầu của nó. Cái thiết bị này trông giống như một cái cốc cao su màu đen, lớn hơn cốc cà phê bình thường, rất dẻo và có vành chắc chắn như một cái lốp xe.
“Chà!” tiến sĩ Fell nói. “Nhìn này. Đó có phải…?”
Hadley gật đầu. “Tôi đã nghe nói về nó, nhưng chưa bao giờ được nhìn tận mắt, và tôi không tin là nó có tồn tại. Nhìn này! Đây là cái giác hút. Chắc mọi người đã nhìn thấy nó nhiều ở đồ chơi trẻ con. Một khẩu súng đồ chơi dùng lò xo bắn một cái que ở đầu có gắn giác hút nhỏ bằng cao su. Khi bắn vào một tấm thẻ, lực hút chân không sẽ khiến nó bám dính vào thẻ.”
“Ý ông là,” Rampole nói, “một tên trộm có thể gắn dược thứ này lên tường, và sức hút đủ để giữ hắn khỏi bị rơi khi leo lên tường?”
Hadley chần chừ. “Về lí thuyết là như thế. Tất nhiên, tôi không…”
“Nhưng làm sao để tháo nó ra được? Phải chăng hắn cứ để nó treo thế và bỏ đi?”
“Hắn chắc chắn phải có đồng phạm. Nếu cậu ấn vào các mép bên dưới, không khí sẽ tràn vào và cân bằng áp suất làm nó rời ra. Kể cả thế tôi vẫn không hiểu sao nó có thể được dùng để…”
O’Rourke, người vẫn đang nhìn cái dây thừng với vẻ băn khoăn, hắng giọng. Ông ta lấy cái tẩu ra khỏi miệng và hắng giọng lần nữa để gây chú ý.
“Nghe này, các quý ông,” ông ta nói bằng giọng khàn khàn và ra vẻ bí mật. “Tôi không muốn xen vào, nhưng tôi nghĩ thứ đó là nhảm nhí.”
Hadley quay người lại. “Sao lại thế? Ông biết gì về nó à?”
“Tôi cá với ông,” ông ta gật đầu, và cầm cái tẩu chỉ trỏ để nhấn mạnh, “rằng thứ này thuộc về Fley điên khùng. Đưa tôi xem một chút nào. Tôi không dám thề rằng nó thuộc về Lão Khùng. Nơi này có rất nhiều thứ kì dị. Nhưng…”
Ông ta cầm sợi dây thừng và vuốt dọc nó một cách nhẹ nhàng cho đến khi đến giữa dây. Rồi ông ta nháy mắt và gật đầu với vẻ thỏa mãn. Ông ta xoắn ngón tay, và đột ngột dang hai tay ra như một nhà ảo thuật. Sợi dây thừng tách làm hai.
“Đúng. Tôi nghĩ đây là dây thừng ảo thuật của Lão Khùng. Thấy chỗ này không? Sợi dây thừng có lỗ ở trong. Một đầu được gắn đinh vít, còn đầu kia có đường ren, và ta có thể vặn nó lại như bắt đinh vít vào gỗ. Các ông không thể nhìn thấy chỗ nối. Các ông có thể xem xét sợi dây thừng tùy ý, nhưng dù có làm gì nó cũng không rơi ra được. Hiểu chưa? Khán giả hoặc ai đó dùng sợi dây này để trói nhà ảo thuật ở trong thùng. Nhưng mánh lới ở đây là chỗ nối này vắt ngang qua tay ông ấy. Người quan sát bên ngoài có thể cầm hai đầu sợi dây thừng để đảm bảo ông ấy không thoát ra được. Thấy chưa. Nhưng ông ấy dùng răng vặn nó ra, kéo căng sợi thừng bằng đầu gối, và đủ thứ tiếng la hét nhảm nhí phát ra từ khán đài khi nhà ảo thuật bước ra khỏi thùng. Kì diệu! Ma thuật! Buổi diễn tuyệt vời nhất quả đất!” O’Rourke nói bằng giọng khàn khàn, ông ta đặt lại tẩu thuốc vào miệng, và hít sâu. “Đúng. Đó là dây thừng của Lão Khùng, tôi đảm bảo.”
“Tôi không nghi ngờ điều đó,” Hadley nói. “Nhưng còn cái giác hút thì sao?”
O’Rourke lại ngả người ra sau để hoa tay múa chân.
“À… tất nhiên Lão Khùng cũng bí mật như những nhà ảo thuật khác. Nhưng tôi không xem màn ảo thuật nào mà không mở to mắt chú ý… đợi đã, đừng hiểu lầm tôi! Lão Khùng có những trò ảo thuật rất HAY, và tôi nói là hay thật đấy. Còn đây chỉ là những mánh lới bình thường mà ai cũng biết. Chà! Lão đang tập… Các ông đều nghe nói đến trò sợi dây thừng của người Ấn Độ rồi phải không? Một thầy tu Hindu ném sợi dây thừng lên không, và nó dựng đứng lên, một thằng bé trèo lên nó, bùm, thằng bé biến mất. Hả?”
Một cuộn khói bay lên và biến mất trước mặt O’Rourke, người vẫn tiếp tục khua tay.
“Tôi cũng từng nghe đến rồi,” tiến sĩ Fell nói, chớp mắt nhìn ông ta, “nhưng chưa ai thấy nó tận mắt bao giờ.”
“Đúng! Chính xác! Như thế đấy,” O’Rourke bất thình lình kêu lên. “Vì thế Lão Khùng mới định tìm cách thực hiện trò đó. Có Chúa mới biết hắn có làm được không. Tôi nghĩ cái giác hút đó là để giữ sợi dây thừng khi nó được ném lên. Nhưng đừng hỏi tôi bằng cách nào.”
“Và có người sẽ trèo lên,” Hadley nói, giọng nặng nề, “trèo lên và biến mất?”
“À… một đứa trẻ,” O’Rourke dẹp tan ý nghĩ trong đầu Hadley. “Nhưng tôi khẳng định thế này: sợi dây thừng đó sẽ không đủ sức giữ một người lớn đâu. Nghe này, các ông! Tôi muốn thử cho các ông xem, và nhảy ra ngoài cửa sổ, nhưng tôi không muốn gãy cổ, và hơn nữa, tôi đang bị trật cổ tay.”
“Tôi nghĩ chúng ta đã có đủ bằng chứng rồi,” Hadley nói. “Anh nói gã này đã trốn đi hả Somers? Có nhận dạng của hắn không?”
Somers gật đầu với vẻ thỏa mãn.
“Ta sẽ không gặp khó khăn gì để bắt hắn đâu, thưa ngài. Hắn đăng kí với tên “Jerome Burnaby”, có lẽ là tên giả, nhưng ngoại hình của hắn rất nổi bật – hắn bị tật ở chân.”