← Quay lại trang sách

- XIV - Manh mối từ chuông nhà thờ

Âm thanh tiếp theo mà họ nghe thấy là tiếng cười lớn đến rung nhà của tiến sĩ Fell. Không phải kiểu cười khùng khục trong miệng, lần này ông phá lên cười ha hả. Đặt mông xuống chiếc trường kỉ màu đỏ và vàng đã tã và kêu ken két đến đáng báo động, ông cười khúc khích và nện cái gậy xuống sàn nhà.

“Đau thật!” tiến sĩ Fell nói. “Đau thật, các bạn của tôi ơi! Ha ha ha! Hồn ma biến mất. Bằng chứng cũng đi mất tiêu luôn. Ôi mắt tôi!”

“Ông nói đau nghĩa là sao?” Hadley chất vấn. “Tôi không thấy có điều gì đáng cười trong việc bắt thóp gã này cả. Bằng chứng này không thuyết phục ông rằng Burnaby có tội sao?”

“Nó thuyết phục tôi rằng chắc chắn ông ta vô tội,” tiến sĩ Fell nói. Ông lấy ra một cái khăn rằn màu đỏ và lau mắt khi cơn cao hứng đã dịu xuống. “Tôi đã sợ là ta sẽ tìm thấy thứ tương tự thế này khi nhìn thấy căn phòng kia. Mọi chuyện có vẻ hơi quá thuận tiện đến nỗi khó có thể tin được. Burnaby là con nhân sư không có bí mật, kẻ tội phạm không hề phạm tội – hay ít nhất là hắn không phạm tội ác này.”

“Nếu ông không phiền giải thích…?”

“Đương nhiên là tôi không phiền rồi,” vị tiến sĩ thân thiện nói. “Hadley, hãy nhìn xung quanh và nói cho tôi biết nơi này khiến ông nhớ đến cái gì. Ông có biết kẻ trộm hay tên tội phạm nào lại có nơi ẩn náu bí mật được bài trí với phong cách lãng mạn thế này không? Với một đống dụng cụ cậy khóa trên bàn, kính hiển vi, những chất hóa học đáng ngờ, và những thứ tương tự như thế nữa? Một tên trộm hay tội phạm thực sự sẽ biết cách khiến cho nơi trú ẩn của hắn trông còn chỉnh tề hơn cả nhà của người quản lí nhà thờ. Cách bài trí này còn chẳng gợi cho tôi nghĩ đến một kẻ đang học đòi làm kẻ trộm. Nhưng nếu suy nghĩ một chút, các ông sẽ nhận ra nơi này gợi đến cái gì trong hàng trăm câu chuyện và bộ phim. Tôi biết điều đó,” vị tiến sĩ giải thích, “vì tôi quá quen với không khí kịch nghệ này… Có vẻ như ai đó đang chơi trò thám tử.”

Hadley dừng lại, xoa cằm một cách tư lự. Ông nhìn xung quanh.

“Khi ông còn nhỏ,” tiến sĩ Fell tiếp tục hào hứng trình bày, “ông không ước giá như mình có một lối đi bí mật trong nhà à? Và giả vờ như cái lỗ trên tầng áp mái là một đường hầm bí mật, và bò vào trong đó khám phá với một cây nến, và suýt nữa là làm cháy nhà? Ông chưa bao giờ chơi trò Thám Tử Vĩ Đại, và ước có một hang ổ bí mật ở một con phố không ai biết, nơi ông có thể theo đuổi những nghiên cứu chết chóc dưới một bí danh? Chẳng phải có ai đó nói Burnaby là một nhà tội phạm học nghiệp dư rất có đam mê sao? Có lẽ ông ta đang viết một quyển sách. Dù gì đi chăng nữa, ông ta có đủ tiền và thời gian để làm một việc mà hầu hết những đứa trẻ đã trưởng thành đều ao ước được làm, theo một cách rất tinh vi. Ông ta tạo cho mình một nhân cách mới. Ông ta làm điều đó một cách âm thầm, vì những người thân quen của ông ta sẽ phá lên cười nếu họ phát hiện ra. Những thám tử của Scotland Yard đã ráo riết truy tìm để phát hiện ra bí mật chết người của ông ta, nhưng hóa ra nó lại là một trò đùa.”

“Nhưng, thưa ngài…” Somers ré lên phản đối.

“Dừng lại một chút,” Hadley nói, mặt trầm ngâm và ra hiệu cho anh ta im lặng. Ngài chánh thanh tra cấp cao xem xét căn phòng một lần nữa với sự nghi ngờ pha chút giận dữ. “Tôi thừa nhận là nơi này trông có vẻ gì đó hơi thiếu thuyết phục. Tôi thừa nhận là khung cảnh này như lấy từ phim ra. Nhưng còn sợi dây thừng và vết máu thì sao? Hãy nhớ rằng đây là sợi dây thừng của Fley. Và máu…”

Tiến sĩ Fell gật đầu.

“Hừm, đúng. Đừng hiểu lầm ý tôi. Tôi không nói là những căn phòng này không liên quan gì đến các vụ án mạng. Tôi chỉ cảnh báo ông đừng quá tin vào cuộc sống thứ hai ma quái của Burnaby.”

“Chúng ta sẽ sớm biết điều đó thôi. Và,” Hadley làu bàu, “nếu ông ta là kẻ giết người, tôi không thèm quan tâm đến cuộc sống thứ hai của ông ta dưới danh nghĩa là một tên trộm có vô tội hay không. Somers!”

“Vâng, thưa ngài?”

“Đến căn hộ của ông Jerome Burnaby – ừ, tôi biết anh không hiểu, nhưng ý tôi là căn hộ khác. Tôi có địa chỉ đây. Hừm. Số 13A quảng trường Bloomsbury, tầng hai. Rõ chưa? Đưa ông ta đến đây, viện bất cứ lí do gì anh muốn, nhưng phải đảm bảo rằng ông ta đến. Đừng trả lời hay hỏi bất kì câu hỏi nào về nơi này. Hiểu chưa? Và trong lúc đi xuống, hãy bảo bà chủ nhà nhanh lên một chút.”

Trong khi Somers, với vẻ mặt lúng túng và thất vọng thấy rõ, vội vã đi ra, Hadley đi vòng vòng trong phòng, dùng chân đá vào góc các đồ đạc. O’Rourke đã ngồi xuống và đang nhìn họ với sự thích thú thân thiện. Ông ta vẫy cái tẩu thuốc.

“Chà, các ông,” ông ta nói, “tôi muốn nhìn thấy những thám tử bắt đầu lần tìm. Tôi không biết ông Burnaby này là ai, nhưng có vẻ như các ông đã biết về ông ta. Các ông còn gì muốn hỏi tôi nữa không? Tôi đã nói những gì tôi biết về Lão Khùng với anh trung sĩ Somers gì đó. Nhưng nếu còn gì khác…?”

Hadley hít một hơi dài và đứng thẳng vai để tiếp tục làm việc. Ông lục tìm giấy tờ gì đó trong cái cặp hồ sơ.

“Đây là lời khai của ông, đúng không?” ngài chánh thanh tra cấp cao đọc lướt qua. “Ông có điều gì muốn bổ sung không? Ý tôi là, ông có chắc hắn nói người anh em của hắn đã thuê một phòng trên con phố này?”

“Hắn đã nói thế, đúng, thưa ông. Hắn nói là hắn đã thấy người anh em của hắn lảng vảng ở khu vực này.”

Hadley liếc lên sắc lẹm. “Hai cái đó đâu phải là một? Chính xác là hắn ta đã nói gì?”

Hình như O’Rourke nghĩ ông thanh tra hỏi hơi oái ăm. Ông ta chuyển mình trên ghế. “Hắn nói câu đó sau. Hắn nói, ‘Người anh em của tôi có một căn phòng ở đó. Tôi đã nhìn thấy anh ấy lảng vảng ở khu đó.’ Hay gì đó. Tôi xin thề đó là sự thật!”

“Nhưng không chắc chắn lắm nhỉ?” Hadley chất vấn. “Nghĩ lại đi!”

“Trời đất quỷ thần ơi, tôi đang nghĩ đây!” O’Rourke phản kháng một cách khổ sở. “Cứ bình tĩnh. Có những người cứ hay nói tràng giang đại hải, rồi sau đó họ lại hỏi lại ông những chi tiết trong đó, và nếu ông không nhắc lại đúng từng từ một thì họ lại nghĩ ông nói dối. Xin lỗi, nhưng tôi chỉ nhớ được đến thế thôi.”

“Ông biết gì về người anh em của hắn? Vì ông quen biết Fley, hắn đã nói gì với ông?”

“Không nói gì cả! Không một lời nào! Tôi không muốn ông hiểu nhầm. Khi tôi nói tôi biết Lão Khùng rõ hơn bất cứ ai khác, tôi không có ý muốn nói là tôi biết mọi điều về hắn. Chẳng ai biết cả. Nếu ông gặp hắn, ông sẽ biết hắn nhất định không phải là loại người sẵn sàng chia sẻ những chuyện riêng tư về bản thân mình chỉ sau vài li rượu. Cũng giống như mời quỷ Dracula đi uống bia vậy. Đợi đã! Ý tôi là một người trông giống như quỷ Dracula thôi. Lão Khùng là một người tốt theo cách của riêng hắn.”

Hadley ngẫm nghĩ, rồi quyết định vào cuộc. “Vấn đề lớn nhất của chúng tôi bây giờ, chắc hẳn ông đã đoán ra, là vụ giết người thật bất khả thi. Tôi cho là ông đã đọc báo?”

“Phải.” Mắt O’Rourke nheo lại. “Sao ông lại hỏi tôi về điều đó?”

“Chắn hẳn ai đó đã dùng một phép ảo thuật nào đó để giết những người này. Ông nói ông quen nhiều nhà ảo thuật và những nghệ sĩ biểu diễn những tiết mục trốn thoát như vậy. Ông có biết thủ thuật nào có thể giải thích vụ giết người này được không?”

O’Rourke bật cười, để lộ ra hàm răng sáng bên dưới bộ ria mép được chải chuốt cẩn thận. Nụ cười càng làm cho những nếp nhăn hằn sâu hơn quanh mắt của ông ta.

“Chà! Chuyện đó thì khác! Khác rất nhiều. Nghe này, tôi nói thẳng với ông nhé. Khi tôi đề nghị thử đu ra ngoài cửa sổ với sợi dây thừng đó, tôi đã quan sát phản ứng của ông. Tôi sợ là kiểu gì ông cũng nghĩ theo hướng đó. Hiểu ý tôi chứ? Tôi nói về tôi ấy.” Ông ta chặc lưỡi. “Thôi quên đi! Để làm được điều như vậy với một sợi dây thừng kẻ giết người chắc phải cần đến một phép màu, mà đó là kể cả khi hắn có dây thừng trong tay và có thể đi trên tuyết mà không để lại dấu vết đấy. Nhưng còn về chuyện kia…” O’Rourke nhíu mày và dùng ống tẩu thuốc đế chải râu. Ông ta nhìn xa xăm về phía đầu kia của căn phòng. “Như thế này. Tôi không phải chuyên gia. Tôi không biết nhiều về ảo thuật lắm, và những gì tôi biết thì tôi thường không bô bô ra ngoài. Đại loại,” ông huơ tay, “quy tắc nghề nghiệp, nếu ông hiểu ý tôi. Vả lại, với những tiết mục kiểu như trốn thoát khỏi hộp bị khóa hay biến mất, giờ thì tôi còn chẳng nói tới nữa.”

“Tại sao?”

“Vì,” O’Rourke nói, nhấn mạnh từng từ, “hầu hết mọi người sẽ cực kì thất vọng nếu biết được bí mật đằng sau những trò đó. Một là, họ không thể tin rằng những thứ nhỏ nhặt, đơn giản đến nực cười thế lại có thể lừa được họ. Họ sẽ nói, ‘Ôi dào! Đừng tiết lộ với chúng tôi! Nếu không, chúng tôi để ý thoáng qua là sẽ phát hiện ra ngay’. Hoặc hai là, thủ thuật thực hiện được là nhờ cài người trong khán giả. Như thế còn khiến họ thất vọng hơn. Họ nói, ‘Để người khác giúp thì nói làm gì…!’ cứ như thể có người giúp là làm được ngay vậy.”

Ông ta trầm ngâm hút thuốc.

“Con người buồn cười như thế đấy. Họ đi xem ảo thuật, ông nói với họ đó là ảo thuật, và họ trả tiền để xem ảo thuật. Vậy mà vì lí do ngớ ngẩn nào đó, họ tức tối vì đây không phải là phép thuật thực sự. Khi họ được nghe giải thích cách nhà ảo thuật thoát ra khỏi một chiếc hộp bị khóa hay một cái bao tải bị buộc kín bằng dây thừng mà họ đã kiểm chứng, họ sẽ tức tối vì mình bị lừa. Họ nói không hiểu làm sao mà lại có thể để bị lừa như thế. Nhưng tôi nói với các ông, cần có trí tuệ thật sự để nghĩ ra những trò tưởng chừng như đơn giản đó. Và để làm được những màn trốn thoát như vậy, nhà ảo thuật phải lạnh lùng, mạnh mẽ, dày dặn, và nhanh như chớp. Nhưng khán giả có bao giờ nghĩ cần tài trí thế nào để lừa phỉnh được họ ngay trước mũi họ đâu. Tôi nghĩ họ muốn coi những bí mật đó như một loại ma thuật thực sự mà không ai trên đời có thể làm nổi. Không ai có thể làm mình dẹp lép như con tem và lách ra khỏi khe hở. Không ai có thể chui qua lỗ khóa, hoặc lách mình qua một ống gỗ. Muốn tôi cho các ông ví dụ không?”

“Nói tiếp đi,” Hadley vừa nói vừa nhìn ông ta với vẻ tò mò.

“Được rồi. Hãy thử với trò thoát thân trước nhé! Hãy bắt đầu với cái bao tải kín được buộc dây thừng xung quanh: có một cách để làm trò này.” O’Rourke đang rất cao hứng. “Nhà ảo thuật bước ra – giữa một đám đông khán giả, nếu các ông thích – với một cái bao tải làm bằng vải muslin hoặc satin đen, đủ lớn để anh ta có thể đứng trong đó. Anh ta bước vào trong. Người trợ lí kéo cái bao tải lên, giữ nó ở vị trí thấp hơn miệng của nhà ảo thuật khoảng 15 cm, và buộc nó thật chặt bằng một cái khăn tay dài. Rồi những người chứng kiến có thể thắt bao nhiêu nút tùy ý, và niêm phong cái nút bằng sáp hay con dấu gì cũng được. Bùm! Người ta kéo tấm màn che nhà ảo thuật lại. Ba mươi giây sau, anh ta bước ra với các nút thắt vẫn còn nguyên con dấu, và bao tải đã ở dưới cánh tay anh ta. Tuyệt vời!”

O’Rourke cười toe toét, vân vê cặp ria mép theo thói quen khó bỏ, và xoay người trên đi văng.

“Giờ, thưa các ông, giờ là lúc các ông sẽ săm soi tôi. Có hai cái bao tải, giống hệt nhau. Một cái được nhà ảo thuật gấp lại và nhét vào bên trong áo vét. Khi nhà ảo thuật bước vào bao tải và động đậy và uốn éo trong nó, và khi người trợ lí kéo cái bao tải đầu tiên lên, nhà ảo thuật rút cái bao tải kia ra. Miệng của cái bao tải thứ hai được kéo lên trên miệng cái thứ nhất, khoảng 15 cm, để khiến nó trông giống như miệng cái thứ nhất. Thật ra, người trợ lí đã buộc miệng của cái bao tải thứ hai, và chỉ nhét vào một chút miệng của cái bao tải thứ nhất để không ai thấy chỗ nối. Bùm! Người ta buộc đủ thứ nút và gắn hết mọi loại dấu. Khi nhà ảo thuật khuất sau tấm màn, anh ta chỉ việc kéo cái bao tải thứ hai đã bị buộc ra, thả cái bao tải mình đang đứng xuống đất, nhét cái bao tải thứ hai vào áo, và bước ra với cái bao tải vẫn còn nguyên các nút thắt. Hiểu chưa? Đơn giản và dễ dàng thế đấy, vậy mà người ta vẫn phát cuồng lên tìm cách nghĩ xem thủ thuật ở đây là gì. Nhưng khi được nghe giải thích, họ nói, “Chà, vậy là có trợ lí giúp…” Ông khoát tay.

Hadley rất hứng thú mặc dù vẫn cố giữ tác phong chuyên nghiộp, còn tiến sĩ Fell thì háo hức lắng nghe như trẻ con.

“Vâng, tôi biết,” ngài chánh thanh tra cấp cao nói như thể đang đưa ra một luận cứ phản bác, “nhưng kẻ chúng ta đang tìm, kẻ đã giết hai người đó, không thể nào có đồng phạm được! Ngoài ra, đó không phải màn ảo thuật biến mất…”

“Được rồi,” O’Rourke nói, và đẩy chiếc mũ qua một bên đầu. “Tôi sẽ cho ông một ví dụ về trò biến mất. Đây là màn ảo thuật trên sân khấu nhé. Tất cả đều rất hào nhoáng. Nhưng ông vẫn có thể thực hiện được màn ảo thuật này ở sân khấu ngoài trời nếu muốn, nơi không có cửa sập nào, không có dây nhợ, không có đạo cụ hay trò gì mờ ám hết. Chỉ cần một khoảng đất. Nhà ảo thuật trong một bộ đồng phục màu xanh cưỡi một con ngựa trắng tiến vào. Đi theo ông ta là đoàn người tùy tùng mặc đồng phục trắng, như ta thường thấy trong rạp xiếc vậy. Họ đi diễu hành một vòng, rồi hai người tùy tùng giơ lên một cái quạt lớn, và trong một khoảnh khắc, che đi người đàn ông trên lưng con ngựa. Rồi họ hạ quạt xuống và vứt nó ra cho khán giả xem là nó còn nguyên, nhưng người đàn ông trên lưng ngựa đã biến mất. Ông ta biến mất ngay giữa một cánh đồng 10 mẫu Anh. Tuyệt vời!”

“Và làm sao ông ta biến mất được?” tiến sĩ Fell chất vấn.

“Dễ ợt! Ông ta chẳng biến đi đâu cả. Ông chỉ không nhìn thấy ông ta thôi. Đó là bởi bộ đồng phục màu xanh thực chất chỉ là lớp giấy bên ngoài, còn bên trong là bộ đồng phục trắng. Quạt vừa kéo lên là ông ta đã xé bộ xanh và nhét xuống dưới bộ trắng. Rồi ông ta xuống ngựa và trà trộn vào đám tùy tùng mặc đồng phục trắng, vấn đề là không có ai thèm đếm số người tùy tùng trước đó, và họ đều đi mất mà không có ai để ý. Đó là nền tảng cơ bản của hầu hết các thủ thuật, ông nhìn thứ mà ông không thấy, hoặc ông thề đã thấy thứ chưa bao giờ xuất hiện cả. Thật mầu nhiệm! Buổi diễn tuyệt vời nhất quả đất!”

Căn phòng ngột ngạt và lòe loẹt trở nên im lặng. Gió quật vào cửa sổ. Xa xa có thể nghe thấy tiếng chuông nhà thờ, và tiếng còi của một chiếc xe taxi đi ngang qua rồi biến mất. Hadley lắc quyển sổ tay.

“Chúng ta đi lạc đề rồi,” ông nói. “Trò đó cũng khá tinh vi, đúng, nhưng làm sao áp dụng vào trường hợp này được?”

“Không áp dụng được,” O’Rourke thừa nhận, mặt nhăn lên vì cười không ra tiếng. “Tôi nói với các ông chỉ vì các ông thắc mắc. Và để cho các ông biết đối thủ là kẻ thế nào. Tôi sẽ nói thẳng với ông, ông chánh thanh tra cấp cao: tôi không muốn làm ông nản lòng, nhưng nếu ông phải chống lại một nhà ảo thuật thông minh thì ông không có chút cơ hội nào đâu.” Ông ta búng tay. “Họ đã được đào tạo để làm việc đó. Đó là công việc của họ. Và không một nhà tù nào trên thế giới này có thể giam giữ được họ.”

Hadley nghiến chặt hai hàm răng lại. “Đến lúc đó hẵng tính. Điều tôi băn khoăn, và cũng đã băn khoăn bấy lâu, là tại sao Fley lại để cho anh em của hắn ra tay. Fley là nhà ảo thuật. Lẽ ra Fley phải là người làm điều đó. Phải chăng anh em của hắn cũng là nhà ảo thuật?”

“Không biết. Ít nhất tôi chưa thấy tên hắn xuất hiện trên chương trình nào. Nhưng…”

Tiến sĩ Fell ngắt lời ông ta. Với một tiếng thở khò khè nặng nề, ông ục ịch đứng lên khỏi ghế và đột ngột nói.

“Dọn dẹp đi và chuẩn bị hành động, Hadley. Khoảng hai phút nữa, chúng ta sẽ có khách đến. Nhìn ra ngoài kìa! Nhưng nhớ đứng xa cửa sổ đấy.”

Ông dùng cây gậy để chỉ. Bên dưới họ, nơi con ngõ uốn lượn giữa các dãy nhà, có hai người len lỏi chống lại cơn gió. Họ vừa đi từ đường Guilford vào và thật may là đang cúi dầu xuống. Rampole nhận ra một người là Rosette Grimaud. Người kia là một người đàn ông cao lớn. Ông ta dựa vào một cây gậy để di chuyển, vừa đi vừa lắc lư vai. Một chân của ông ta bị vẹo và giày bên phải dày một cách bất thường.

“Tắt đèn ở những phòng khác đi,” Hadley nói rất nhanh. Ông quay sang O’Rourke. “Tôi sẽ nhờ ông một việc lớn. Đi xuống cầu thang nhanh nhất có thể, ngăn không cho bà chủ nhà đi lên và không cho bà ấy nói gì cả. Cứ giữ bà ấy dưới đó đến khi tôi bảo. Đi ra nhớ đóng cửa nhé!”

Hadley đã ra ngoài hành lang hẹp, tắt hết đèn. Tiến sĩ Fell trông có vẻ hơi phật ý.

“Nghe này, ông không định nấp và nghe lỏm những bí mật tệ hại đấy chứ?” Ông chất vấn. “Tôi không có cái mà Mills gọi là thể chất phù hợp cho trò ngớ ngẩn đó đâu. Hơn nữa, họ sẽ phát hiện ra chúng ta ngay. Nơi này đầy khói… O’Rourke đúng là cái ống khói.”

Hadley lẩm bẩm văng tục. Ông kéo rèm vào, chỉ để cho một ít ánh sáng lọt vào phòng.

“Không còn cách nào khác; ta phải thử vận may thôi. Ta sẽ ngồi đây trong yên lặng. Nếu họ có tâm sự gì, có thể họ sẽ buột miệng nói ra ngay khi vào trong căn hộ và đóng cửa. Người ta thường làm thế. Nhân tiện, ông nghĩ sao về O’Rourke?”

“Tôi nghĩ,” tiến sĩ Fell nói một cách hào hứng, “rằng O’Rourke là nhân chứng thú vị nhất, và đến giờ là nhân chứng đóng góp được nhiều ý kiến nhất trong cuộc điều tra. Ông ta đã cứu lòng tự trọng về trí tuệ của tôi. Thật ra ông ta đã khai sáng cho tôi nhiều điều, như tiếng chuông nhà thờ vậy.”

Đang dòm qua khe hở giữa hai tấm rèm, Hadley quay đầu lại. Chút ánh sáng chiếu vào mắt ông khiến chúng lóe lên dữ dội.

“Chuông nhà thờ? Chuông nhà thờ nào?”

“Bất cứ tiếng chuông nhà thờ nào,” giọng tiến sĩ Fell phát ra từ bóng tối. “Tôi nói với ông rằng trong sự mù quáng và dốt nát của tôi, suy nghĩ về những tiếng chuông đó đã mang đến ánh sáng và niềm an ủi. Nó có thể cứu tôi khỏi một sai lầm tệ hại… Vâng, tôi khá tỉnh táo.” Có tiếng gậy gõ xuống sàn và giọng của tiến sĩ Fell trở nên căng thẳng hơn. “Ánh sáng, Hadley! Cuối cùng cũng có ánh sáng, và thông điệp huy hoàng đến từ tháp chuông.”

“Ông chắc không phải thứ khác từ trên tháp chuông chứ? Phải không? Vậy thì vì Chúa đừng có úp úp mở mở nữa và nói cho tôi biết ý ông là sao? Tôi cho là tiếng chuông nhà thờ đã giúp ông phát hiện ra cách hắn biến mất?”

“Ôi, không,” tiến sĩ Fell nói. “Rất tiếc là không. Chúng chỉ nói cho tôi tên của kẻ giết người.”

Im lặng bao trùm căn phòng – một sự im lặng nặng nề đến nỗi có thể chạm vào được, như những hơi thở đang kiềm chế để không vỡ òa ra. Tiến sĩ Fell nói với giọng bình thản, đầy hoài nghi nhưng chính trong sự hoài nghi đó lại ẩn chứa sức thuyết phục. Ở dưới tầng, cửa sau đóng lại. Họ nghe thấy loáng thoáng trong căn nhà thinh lặng tiếng chân bước lên cầu thang. Một tiếng chân thì nhanh, nhẹ và sốt ruột. Tiếng chân kia thì kéo lê rồi sau đó giậm mạnh, có cả tiếng một cây gậy gõ vào lan can nữa. Tiếng động ngày một to hơn, nhưng không có tiếng nói nào cả. Một chiếc chìa khóa được tra vào cửa ngoài. Cửa mở ra và đóng lại với một tiếng kẹt của cái ổ khóa. Có một tiếng cạch nữa khi đèn trong hành lang được bật sáng. Rồi, rõ ràng ngay khi họ có thể nhìn thấy nhau, hai người đó bật lên thành tiếng như thể họ vừa nín thở đến sắp chết nghẹt.

“Cô đã làm mất chìa khóa tôi đưa cho cô,” một giọng nam mỏng và chói tai nói. Lời nói chế nhạo nhưng có kiềm nén. “Vạy mà cô nói hôm qua cô không đến đây hả?”

“Không phải đêm qua,” giọng của Rosette Grimaud vang lên, âm điệu đều đều nhưng ẩn chứa sự giận dữ, “không phải đêm qua hay đêm nào khác cả.” Cô cười phá lên. “Tôi chưa bao giờ có ý định đến đây. Ông làm tôi hơi sợ một chút đấy. Có chuyện gì? Và giờ khi đã ở đây rồi, tôi cũng không đánh giá cao chỗ ẩn náu của ông lắm. Hôm qua ông đợi ở đây có dễ chịu không?”

Có tiếng ai đó chuyển động như thể cô gái vừa bước tới trước và bị giữ lại. Người đàn ông cao giọng lên.

“Giờ, còn quỷ nhỏ này,” người đàn ông vẫn không lên giọng, “tỏi sẽ nói cho cô biết một điều sẽ tốt cho tâm hồn cô. Tôi đã không ở đây. Tôi không có ý định đến. Nếu cô nghĩ chỉ cần quất roi là có thể khiến người khác nhảy qua vòng… tôi đã không ở đây, cô thấy không? Cô có thể tự mình nhảy qua vòng. Đêm qua tôi không ở đây.”

“Nói dối, Jerome,” Rosette bình tĩnh nói.

“Cô nghĩ thế à? Tại sao?”

Hai bóng người xuất hiện dưới ánh sáng của cánh cửa mở hờ. Hadley vươn tay kéo rèm lại khiến cho các vòng treo rèm rung lên.

“Chúng tôi cũng muốn biết câu trả lời cho câu hỏi đó, ông Burnaby,” ông nói.

Bị ánh sáng ban ngày chiếu vào mặt, họ bất ngờ đến nỗi mặt họ ngây ra như mặt người trong một tấm ảnh. Rosette Grimaud thét lên, giơ cánh tay lên như định che mình lại, nhưng ánh mắt cô trước đó hiện rõ sự chua cay, thận trọng và hoan hỉ một cách nguy hiểm. Jerome Burnaby không cử động, ngực phập phồng lên xuống. Ông ta đội một chiếc mũ đen rộng vành đã lỗi thời, khiến cái bóng đổ lên ngọn đèn điện nhợt nhạt phía sau trông giống hình tượng Sandeman gầy gò trong quảng cáo đến kì lạ. Nhưng ông ta không chỉ là cái bóng. Ông ta có một khuôn mặt rắn rỏi, đầy nếp nhăn mà bình thường có thể cũng chất phác và hòa nhã như cử chỉ của ông ta. Hàm của ông ta nhô ra, và mắt đã trắng dã vì giận dữ. Ông ta cởi mũ và ném nó xuống trường kỉ một cách hung hăng đến nỗi khiến Rampole nghĩ ông ta giống như là đang đóng kịch. Mái tóc nâu và cứng đã điểm bạc ở hai bên thái dương dựng đứng lên như con rối bật ra từ trong hộp đồ chơi.

“Sao?” ông nói – giọng mỏng, vui vẻ, cục mịch – và bước lảo đảo lên phía trước bằng cái chân bị tật. “Các ông đón sẵn tôi đấy à? Ba đánh một, tôi hiểu rồi. Tôi tình cờ có mang theo cây gậy kiếm, dù cho…”

“Không cần dùng đến nó đâu, Jerome,” cô gái nói. “Họ là cảnh sát.”

Burnaby dừng lại và đưa bàn tay to lên lau mồm. Trông ông ta có vẻ lo lắng, mặc dù ông ta tiếp tục tỏ vẻ hài hước một cách mỉa mai. “Ô! Cảnh sát hả? Tôi thật vinh dự. Đột nhập vào nhà, tôi hiểu rồi.”

“Ông là người thuê căn hộ này,” Hadley nói, cũng với một sự giả lả tương tự, “không phải chủ của căn nhà này. Nếu có ai đó có hành vi đáng ngờ… tôi không biết đáng ngờ đến đâu, ông Bumaby, nhưng tôi nghĩ những người bạn của ông sẽ rất thích thú với căn phòng mang hơi hướng phương Đông này đấy. Phải không?”

Nụ cười và ngữ điệu của giọng nói đó đánh trúng tim đen của Burnaby. Mặt ông ta trở nên xám xịt.

“Khốn kiếp,” ông nói, và giơ cái gậy lên lưng chừng, “các ông muốn gì ở đây?”

“Trước hết, trước khi chúng tôi quên, chúng tôi muốn biết về điều ông đang nói khi bước vào đây…”

“Các ông đã nghe lỏm được hả?”

“Đúng. Rất tiếc,” Hadley nói điềm tĩnh, “là chúng tôi không thể nghe lỏm thêm. Cô Grimaud nói rằng ông đã ở trong căn hộ này đêm qua. Có đúng không?”

“Không.”

“Ông đã không ở đây… Có đúng thế không, cô Grimaud?”

Sắc mặt của cô ta đã hồng hào trở lại, rất hồng hào, nhờ vẻ giận dữ trên khuôn mặt đang tươi cười. Cô ta nói hổn hển, và đôi mắt màu hạt dẻ sáng lên sự bất động, kiềm chế của người không muốn để lộ cảm xúc. Cô ta ấn găng tay vào giữa các ngón tay, và qua hơi thở ngắt quãng có thể thấy cô ta sợ nhiều hơn là giận.

“Vì các ông đã nghe lỏm được,” cô ta trả lời, sau khi ngừng lại một chút để nhìn từng người một và suy tính, “tôi phủ nhận cũng chẳng để làm gì, phải không? Tôi không hiểu tại sao các ông lại quan tâm đến chuyện này. Nó không hề có liên quan gì đến cái chết của cha tôi. Điều đó là chắc chắn. Dù Jerome là người thế nào,” cô ta cười run run để lộ hàm răng, “ông ấy không phải là một kẻ giết người. Nhưng giờ thì vì một lí do nào đó mà các ông quan tâm đến chuyện này, nên tôi cũng muốn được làm rõ trắng đen. Một phiên bản của câu chuyện này, tôi đoán, sẽ đến tai Boyd. Tốt hơn hết phiên bản đó nên là sự thật… Tôi sẽ bắt đầu bằng việc khẳng định đúng là Jerome đã ở căn hộ này đêm qua.”

“Sao cô biết, cô Grimaud? Cô đã ở đây à?”

“Không. Nhưng tôi thấy phòng này có ánh sáng vào lúc 10 giờ rưỡi.”