Cỗ quan tài thứ ba - XVI. Áo khoác đổi màu Bí mật về bảy ngọn tháp
Từ lúc có khám phá mới đến khi họ đi gặp Pettis để ăn trưa, tâm trạng của tiến sĩ Fell trở nên u ám đến mức Rampole không thể tin nổi và không thể giải thích căn nguyên tại sao.
Đầu tiên, vị tiến sĩ từ chối quay lại quảng trường Russell cùng với Hadley, dù Hadley đã nài ép. Ông nói chứng cứ mật thiết nhất phải ở trong phòng của Fley. Ông nói sẽ giữ Rampole ở lại để làm “những việc khó nhọc”. Cuối cùng, ông chửi rủa bản thân một cách dữ dội đến nỗi Hadley, người đôi khi cũng muốn chửi rủa vị tiến sĩ, cũng phải chuyển sang khuyên giải ông.
“Nhưng ông mong tìm thấy gì ở đó?” Hadley gặng hỏi. “Somers đã lật tung chỗ đó lên rồi!”
“Tôi không mong gì cả. Tôi chỉ có thể nói là tôi hi vọng,” vị tiến sĩ càu nhàu, “tìm thấy một số dấu vết nhất định của gã Henri. Có thể nói là nét đặc trưng của hắn. Râu của hắn. Trời ơi, gã Henri, đồ trời đánh thánh vật!”
Hadley nói họ có thể bỏ qua “Bài độc thoại trong tu viện Tây Ban Nha”, và không hiểu tại sao bạn của ông lại bị gã Henri hành tung xuất quỷ nhập thần này ám ảnh đến điên cuồng như vậy. Chẳng có thông tin gì mới để kích động điều đó. Ngoài ra, vị tiến sĩ, trước khi rời khỏi căn hộ mà Burnaby thuê, còn giữ mọi người ở lại một lúc nữa để thẩm vấn bà chủ nhà Hake. O’Rourke đã rất hào hiệp khi giữ bà ấy ở dưới tầng bằng cách kể cho bà ấy nghe những kỉ niệm khi ông ta còn làm việc trong gánh xiếc lưu động, nhưng cả hai đều là những người hoạt ngôn nên cũng không chắc ai là người hồi tưởng lại nhiều hơn, bà Hake hay ông O’Rourke.
Tiến sĩ Fell phải thừa nhận là cuộc thẩm vấn bà Hake không có hiệu quả. Bà Hake là một bà già không chồng tốt tính nhưng đãng trí và hay nhầm những khách trọ tính khí thất thường thành những kẻ trộm cắp giết người.
Đến khi thuyết phục được bà ấy rằng Burnaby không phải là kẻ trộm thì bà cũng chỉ cung cấp được rất ít thông tin. Đêm hôm qua bà không có ở nhà. Bà đã đi xem phim từ 8 đến 11 giờ, rồi ở nhà một người bạn trên đường Gray’s Inn đến gần nửa đêm. Bà không thể nói được ai có khả năng đã sử dụng phòng của Burnaby, thậm chí đến sáng bà mới hay tin về vụ giết người. Trong nhà còn có ba khách trọ khác: một sinh viên người Mỹ và vợ sống ở tầng trệt, và một bác sĩ thú y sống ở tầng hai. Cả ba người đều đã ra ngoài vào đêm trước đó.
Somers, trở về sau một chuyến đi vô ích đến quảng trường Bloomsbury, được giao nhiệm vụ điều tra về đầu mối này. Hadley trực chỉ nhà của Grimaud với Rosette và Burnaby, còn tiến sĩ Fell, người quyết chí đi tìm một bà chủ nhà thích tán chuyện nữa, cuối cùng lại chỉ tìm thấy một ông chủ nhà kiệm lời.
Cơ ngơi ở trên và dưới cửa hiệu bán thuốc lá tại địa chỉ số 2 phố Cagliostro trông mỏng manh yếu ớt như những ngôi nhà giả người ta thường dựng trên sân khấu nhạc kịch. Màu sơn của chúng rất ảm đạm, tối tăm, và mốc meo như chính cửa hiệu thuốc lá. Sau một hồi rung chuông ầm ĩ không biết mệt mỏi thì cuối cùng James Dolberman, chủ hiệu thuốc lá và quầy báo, cũng chậm chạp xuất hiện từ cái bóng phía sau cửa hiệu. Người đàn ông này già, có vóc người nhỏ, đôi môi lúc nào cũng mím chặt, và những đốt ngón tay rất to. Ông ta mặc một cái áo vải muslin màu đen sáng loáng như một bộ áo giáp, ở bên trong một cái động chất đầy những quyển tiểu thuyết bẩn thỉu và kẹo bạc hà khô queo. Quan điểm của ông ta về vụ giết người này là đó không phải việc của ông.
Ông ta phun ra vài câu trả lời miễn cưỡng trong khi ánh mắt nhìn xa xăm về phía cửa sổ cứ như đang đợi ai đó đến để có cớ ngừng lại. Đúng, ông ta có một khách trọ, đúng, họ của hắn là Fley, một người ngoại quốc. Fley thuê một căn phòng đơn ở tầng trên cùng. Hắn đã ở đó được hai tuần, trả tiền trước. Không, ông chủ nhà không biết gì về hắn, và cũng không muốn biết, trừ việc hắn không gây rắc rối gì. Hắn chỉ có thói quen là tự nói chuyện một mình bằng tiếng nước ngoài, có vậy thôi. Ông chủ nhà không biết gì về hắn, bởi ông ta hiếm khi thấy mặt hắn. Không còn khách trọ nào khác, ông (James Dolberman) không mang nước nóng lên tầng cho ai cả. Tại sao Fley lại chọn tầng trên cùng? Làm sao ông biết được? Họ nên hỏi Fley.
Ông không biết Fley đã chết à? Có, ông ta có biết, và đã có cảnh sát đến chất vấn ông, và đưa ông đi nhận dạng xác chết rồi. Nhưng chuyện đó chẳng liên quan gì đến ông. Thế còn tiếng súng lúc 10 giờ 25 phút đêm hôm qua? James Dolberman trông như sắp định nói gì đó, nhưng rồi lại ngậm chặt hàm lại và nhìn ra ngoài cửa sổ chăm chú hơn. Lúc đó ông ta đang ngồi ở tầng dưới trong nhà bếp và có mở đài, ông ta không biết gì về chuyện đó, và kể cả nếu có cũng sẽ không chạy ra xem.
Fley đã từng có ai đến thăm chưa? Chưa. Có người lạ nào trông có vẻ khả nghi, có người nào có liên hệ với Fley ở quanh đây không?
Câu trả lời lại là điều họ không ngờ đến: hàm của ông chủ nhà vẫn như của người bị mộng du, nhưng ông ta ăn nói lưu loát hẳn lên. Đúng, có một điều mà cảnh sát cần phải điều tra, thay vì lãng phí tiền thuế của dân! Ông ta đã từng thấy ai đó thậm thụt ở quanh đây, quan sát nơi này, thậm chí có lần còn nói chuyện với Fley rồi sau đó đi như tên bắn lên phố. Một khách hàng trông rất bất hảo. Nhiều khả năng là tội phạm! Ông ta không thích những người thậm thà thậm thụt. Không, ông ta không thể mô tả nhân dạng của hắn, đó là việc của cảnh sát. Ngoài ra, hắn luôn xuất hiện vào buổi tối.
“Nhưng ông không thể,” tiến sĩ Fell nói, lúc này ông đã sắp hết thân thiện nổi và đang lấy cái khăn rằn để lau mặt, “cho biết thêm chi tiết gì về tướng mạo của hắn à? Quần áo, hay bất cứ thứ gì? Này?”
“Hắn có thể,” Dolberman nhún nhường, sau khi mím môi nhìn chằm chằm vào cái cửa sổ, “hắn có thể đã mặc một chiếc áo khoác đắt tiền, hoặc đại loại thế. Hình như bằng vải tuýt màu vàng nhạt, có chấm đỏ. Đó là việc của các ông. Các ông muốn lên tầng chứ gì? Chìa khóa đây. Cửa ở ngoài.”
Khi họ đi lên những bậc thang tối và hẹp trong căn nhà – căn nhà kiên cố một cách bất ngờ mặc dù vẻ ngoài có vẻ xập xệ – Rampole nổi đóa lên.
“Ông đã đúng,” anh nói, “khi nói rằng toàn bộ vụ án này đã bị đảo ngược hoàn toàn. Xét đến màu của cái áo khoác, vụ này đã rất khó hiểu, và giờ tôi thấy càng khó hiểu hơn. Chúng ta đang tìm một kẻ mờ ám mặc áo khoác dài màu đen. Và bây giờ lại xuất hiện một kẻ khác mặc áo bằng vải tuýt màu sắc sặc sỡ có dính máu. Ai mặc áo gì, và có phải màu của áo khoác đã khiến hướng điều tra thay đổi không?”
Tiến sĩ Fell thở hổn hển khi lê từng bước một lên cầu thang. “Chà, tôi chưa nghĩ đến chuyện đó,” ông nói với giọng đầy hồ nghi, “khi tôi nói vụ án đã bị đảo ngược hoàn toàn, hay có lẽ tôi nên nói là vụ án đã bị xoay chiều. Nhưng trên một phương diện nào đó nó có thể phụ thuộc vào cái áo khoác. Hừm. Người Đàn Ông với Hai Cái Áo Khoác Ngoài. Đúng, tôi nghĩ kẻ giết người vẫn chỉ là một, dù cho cách ăn mặc của hắn có vẻ không nhất quán lắm.”
“Ý ông là ông đã hình dung ra được ai là kẻ giết người à?”
“Tôi biết hắn là ai!” tiến sĩ Fell gầm lên. “Và cậu có biết tại sao tôi lại cảm thấy muốn đá cho mình một cú thế không? Không chỉ vì hắn đã ở ngay dưới mũi tôi ngay từ đầu, mà còn vì hắn đã luôn nói cho tôi sự thật, vậy mà tôi không đủ minh mẫn để nhìn ra. Hắn đã thành thật đến nỗi tôi thấy đau lòng mỗi khi tôi nghĩ đến việc mình không tin lời hắn và tưởng hắn vô tội!”
“Thế còn cách hắn biến mất?”
“Không, tôi vẫn chưa nghĩ ra hắn làm kiểu gì. Đến nơi rồi.” Chỉ có một phòng ở tầng trên cùng. Giếng trời đầy bụi bẩn chiếu ánh sáng mờ nhạt xuống bậc thềm trước cửa phòng. Cửa phòng làm bằng gỗ ván sơn màu xanh lá, đang khép hờ và dẫn vào một căn phòng trần thấp, với cửa sổ rõ ràng là đã không được mở trong một thời gian dài. Sau khi mò mẫm trong cảnh tranh tối tranh sáng, tiến sĩ Fell tìm thấy chỗ thắp đèn dầu. Ánh sáng chập chờn soi sáng một căn phòng gọn gàng nhưng bụi bặm, với giấy dán tường hình bắp cải màu xanh dương và giường sắt sơn trắng. Trên bàn làm việc có một tờ giấy được gấp lại và để dưới một lọ mực. Chỉ có một chi tiết rất nhỏ làm người ta nhớ đến bộ não kì quái và điên rồ của Pierre Fley, cứ như thể chính Fley đang đứng đó, trong bộ quần áo buổi tối cũ kĩ và mũ chóp cao, đứng bên bàn làm việc trong một màn trình diễn: ở cạnh gương treo một cuộn giấy màu đen và đỏ với khẩu hiệu được viết với phông chữ uốn lượn mạ vàng. Cuộn giấy đó viết: “Sự Trả Thù là Của Ta, Chúa đã Phán, Ta sẽ Báo Thù. Nhưng treo ngược.
Thở khò khè trong yên lặng, tiến sĩ Fell ì ạch đi đến bàn làm việc và nhặt tờ giấy gấp lại lên. Nét chữ trên tờ giấy rất bay bướm, Rampole nhìn thấy, và thông điệp ngắn gọn như một lời tuyên bố.
Thưa ông James Dolberman,
Tôi để lại cho ông số vật dụng ít ỏi của tôi, thay cho thông báo xin trả nhà trước một tuần. Tôi sẽ không cần đến chúng nữa. Tôi sẽ quay lại nấm mồ của mình.
PIERRE FLEY.
“Tại sao,” Rampole nói, “hắn cứ nhắc đi nhắc lại về việc ‘Tôi sẽ trở lại nấm mồ’ nhỉ? Nghe như thể nó có một ý nghĩa gì đó, kể cả khi nó không… Tôi cho rằng thực sự có một người như Fley? Hắn tồn tại, không có ai đó đóng giả Fley hay tương tự thế đúng không?”
Tiến sĩ Fell không trả lời câu hỏi đó. Tâm trạng của ông bắt đầu trở nên u ám, và nó càng trở nên nặng nề hơn khi ông xem xét tấm thảm xám tả tơi trên sàn.
“Không có dấu vết nào,” ông rên lên. “Không có vé xe buýt hay gì cả. Trống trơn, bụi bặm còn nguyên và không có manh mối nào. Đồ đạc của hắn? Không, tôi không muốn xem đồ đạc của hắn. Tôi cho là Somers đã xem xét chúng rồi. Đi nào, chúng ta sẽ quay lại tìm Hadley.”
Họ đi bộ đến quảng trường Russell với tâm trạng cũng u ám như bầu trời âm u vậy. Khi họ bước lên các bậc cầu thang, Hadley nhìn thấy họ qua cửa sổ phòng khách và ra mở cửa trước. Sau khi đảm bảo là đã đóng cửa phòng khách – có tiếng thì thầm trong đó – Hadley gặp họ dưới ánh sáng lờ mờ của hành lang được trang trí công phu. Đằng sau ông, chiếc mặt nạ quỷ trên bộ giáp Nhật trông rất giống một phiên bản biếm họa của Hadley.
“Tôi thấy là chúng ta có thêm rắc rối,” tiến sĩ Fell hòa nhã nói. “Vậy nói luôn nhé. Tôi chẳng có gì để báo cáo cả. Tôi đã sợ rằng chuyến thám hiểm của tôi sẽ thất bại, và giờ thì tôi cũng chẳng được an ủi vì đã đoán trước chuyện này. Có gì mới không?”
“Cái áo khoác đó…” Hadley dừng lại. Ông không thể nào phẫn nộ hơn được nữa và cuối cùng đành nở một nụ cười chua chát. “Vào nghe đi, Fell. Có lẽ ông sẽ hiểu được. Nếu Mangan nói dối, tôi không hiểu lí do vì sao cậu ta phải làm thế. Nhưng cái áo khoác đó – chúng ta đã đúng một phần – đó là cái áo hoàn toàn mới. Trong túi không có gì, kể cả bụi bặm hay sợi bông hoặc tàn thuốc lá dính lại trên áo khi đã mặc một thời gian cũng không có. Nhưng trước tiên chúng ta phải giải quyết vấn đề của hai cái áo khoác. Ông có thể gọi vấn đề chúng ta đang đối mặt này là Bí ẩn của cái Áo Khoác Đổi Màu…”
“Áo khoác làm sao?”
“Nó đổi màu,” Hadley nói.
Tiến sĩ Fell chớp mắt. Ông chăm chú quan sát ngài chánh thanh tra cấp cao với một sự hứng thú mới. “Tôi không nghĩ là,” ông nói, “vụ này đã khiến ông điên lên đấy chứ? Đổi màu hả? Có phải ông sắp nói với tôi là cái áo khoác đã chuyển sang màu xanh ngọc lục bảo sáng không?”
“Ý tôi là nó đã đổi màu kể từ khi… Đi nào!” Hadley mở toang cánh cửa vào phòng khách – một căn phòng được trang trí bằng đồ nội thất cổ sang trọng, với đèn chùm bằng đồng, gờ nổi mạ vàng, và màn cửa nhiều đăng ten đến nỗi nó trông như một thác nước đóng băng. Bầu không khí trong phòng vô cùng căng thẳng. Tất cả các đèn đều bật. Burnaby đang ngồi uể oải trên cái sofa. Rosette đang đi đi lại lại, những bước chân của cô nhanh và giận dữ. Đứng ở góc phòng cạnh cái đài là Ernestine Dumont, tay chống nạnh và môi dưới mím lên môi trên như thích thú, hoặc mỉa mai, hoặc cả hai. Cuối cùng, Boyd Mangan đứng xoay lưng vào ngọn lửa, đi qua đi lại từ bên này sang bên kia như thể ngọn lửa đang đốt cháy anh ta. Nhưng thứ đang đốt cháy anh ta không phải lửa, mà lại là sự kích động, hay một cái gì đó khác.
“Tôi biết nó vừa với cỡ người tôi!” anh ta nói, nhắc đi nhắc lại một cách hung hăng. “Tôi biết. Tôi thừa nhận. Tôi mặc vừa cái áo khoác đó, nhưng nó không phải là áo của tôi. Trước hết, tôi luôn mặc loại chống thấm nước, áo của tôi đang treo ngoài sảnh kia kìa. Thứ hai, tôi không đủ tiền mua một cái áo khoác như thế, nó phải tốn ít nhất 20 đồng guinea. Thứ ba…”
Hadley gõ cửa để gây chú ý. Sự xuất hiện của tiến sĩ Fell và Rampole có vẻ như đã xoa dịu Mangan.
“Cậu làm ơn nhắc lại,” Hadley nói, “những điều cậu vừa nói với chúng tôi được không?”
Mangan châm một điếu thuốc. Ngọn lửa của que diêm lập lòe chiếu lên cặp mắt hơi đỏ. Anh ta dập tắt que diêm, hít vào, và thở ra một hơi khói với sự quyết tâm của một người muốn giải oan cho chính mình.
“Cá nhân tôi không hiểu vì sao mọi người lại chĩa mũi dùi vào tôi,” anh nói. “Có thể là một cái áo khoác khác, mặc dù tôi không nghĩ có ai lại muốn rải tủ quần áo của mình ra khắp nơi như thế… Nghe này, Ted, tôi sẽ để anh quyết định.” Anh ta tóm lấy cánh tay của Rampole và kéo anh ra trước ngọn lửa cứ như đang muốn giới thiệu một vật trưng bày. “Hôm qua, khi tôi đến đây ăn tối, tôi treo áo khoác của mình, cái không thấm nước ấy, trong cái tủ quần áo ngoài sảnh chính. Thường thì trong tủ không cần bật đèn. Chỉ cần cho tay vào mò được cái móc nào là treo áo của mình lên đó. Tôi cũng thường làm vậy, nhưng lúc đó tôi đang bê một gói sách mà tôi muốn đặt lên trên giá sách. Do đó tôi bật đèn lên. Và tôi thấy một cái áo khoác, một cái nữa, được treo ở góc trong cùng. Nó cũng khoảng cùng kích cỡ với cái áo vải tuýt màu vàng các ông đang có, tôi nên nói là giống y hệt luôn, chỉ có điều nó là màu đen.”
“Thêm một cái áo nữa,” tiến sĩ Fell nhắc lại. Ông cúi xuống và nhìn Mangan với vẻ tò mò. “Sao cậu lại nói là thêm một cái áo nữa? Nếu cậu nhìn thấy một giá quần áo trong nhà của ai đó, thì cậu có để ý được là có thêm một cái áo nữa không? Theo kinh nghiệm của tôi thì thứ ít được để ý nhất trong nhà chính là những cái áo treo trên móc, cậu mơ hồ biết rằng một cái phải là của mình, nhưng còn không rõ là cái nào nữa. Phải không?”
“Tôi biết người trong nhà này mặc áo gì, tất cả đều giống nhau cả. Và,” Mangan trả lời, “tôi đặc biệt để ý đến cái áo đó, bởi tôi tưởng nó của Burnaby. Họ không nói với tôi là ông ta cũng đến, nên tôi tự hỏi không biết ông ta…”
Burnaby đã chọn cách cư xử rất bộc trực và khoan dung với Mangan. Không còn là kẻ dễ bị kích động mà họ đã gặp ở phố Cagliostro, giờ ông ta là một bậc lão thành giáo huấn lớp trẻ với cách vung vẩy tay rất điệu đà.
“Mangan,” ông ta nói, “rất có óc quan sát, tiến sĩ Fell. Một chàng trai trẻ rất có óc quan sát. Ha ha ha! Nhất là khi liên quan đến tôi.”
“Có vấn đề gì không?” Mangan hỏi ngược lại, hạ giọng xuống bình tĩnh.
“…Nhưng hãy để tôi kể cho cậu nghe câu chuyện này. Rosette, cô gái đáng mến, tôi có thể mời cô một điếu thuốc được không? Nhân tiện, tôi xin khẳng định đó không phải áo của tôi.”
Cơn giận của Mangan dâng lên dù anh ta không biết nguyên nhân vì sao. Nhưng anh ta quay lại nói với tiến sĩ Fell. “Dù sao thì tôi cũng để ý thấy nó. Sau đó, khi Burnaby đến đây sáng nay và phát hiện cái áo có máu bên trong – cái màu sáng ấy – đang treo ở cùng một chỗ. Tất nhiên, cách lí giải duy nhất là có hai cái áo. Nhưng sao lại có chuyện điên khùng đó được? Tôi thề là cái áo đêm qua đó không thuộc về người nào ở đây cả. Ông có thể tự mình xem xét cái áo vải tuýt đó. Như vậy kẻ giết người mặc một cái áo, cả hai, hay không cái nào cả? Ngoài ra, cái áo đen đó có gì đó rất kì lạ…”
“Kì lạ?” tiến sĩ Fell ngắt lời, đột ngột đến nỗi Mangan quay người lại. “Ý cậu nói kì lạ nghĩa là sao?”
Ernestine Dumont từ chỗ cái đài bước lên phía trước, đôi giày bệt kêu cót két. Sáng nay trông bà ta có vẻ tiều tụy hơn, gò má cao xương xẩu hơn, mũi tẹt hơn, đôi mắt sưng lên khiến bà ta trông có vẻ rất bí ẩn. Mặc dù có vẻ ngoài gai góc như vậy, đôi mắt đen của bà ta vẫn lấp lánh.
“Ái chà!” bà ta nói vằ vung tay lên nhanh nhưng cứng nhắc. Tại sao chúng ta phải tập trung vào chuyện ngớ ngẩn này? Sao các ông không hỏi tôi? Chắc chắn tôi biết rõ về những chuyện thế này hơn cậu ta. Đúng vậy không?” Bà nhìn về phía Mangan và trán bà nhăn lại. “Không, không, tôi nghĩ cậu đang cố nói sự thật, cậu hiểu chứ. Nhưng tôi nghi cậu đã nhầm lẫn một chút. Dễ lắm, như tiến sĩ Fell nói… cái áo khoác màu vàng xuất hiện tối qua, đúng. Khi còn sớm, trước bữa ăn. Nó được treo trên móc chỗ cậu ấy nói là đã nhìn thấy cái áo màu đen. Chính mắt tôi đã thấy.”
“Nhưng…” Mangan hét lên.
“Thôi nào,” tiến sĩ Fell kêu lên, giọng giảng hòa. “Để xem chúng ta có thể giải quyết ngọn ngành chuyện này được không nhé. Nếu bà thấy cái áo ở đó, thưa bà, bà không thấy điều đó có gì khác thường sao? Hơi lạ một chút, nếu bà biết nó không thuộc về bất cứ người nào ở đây?”
“Không, không hề.” Bà gật đầu về hướng Mangan. “Tôi không thấy cậu ấy đến. Tôi cứ tưởng nó là của cậu ấy.”
“Vậy thì ai đã mở cửa cho cậu vào nhà?” tiến sĩ Fell hỏi Mangan bằng giọng buồn ngủ.
“Annie. Nhưng tôi tự treo đồ của mình. Tôi thề…”
“Tốt hơn hết ta nên rung chuông gọi cô Annie lên, nếu cô ấy có ở đây, Hadley,” tiến sĩ Fell nói. “Bí ẩn cái áo đổi màu này đã kích thích trí tò mò của tôi rồi đấy. Ôi Bacchus, nó khiến tôi hứng thú rồi! Giờ, thưa bà, tôi không nói là bà khai không đúng sự thật, và diều tương tự cũng đúng với cậu bạn Mangan của chúng ta. Chì là lúc nãy tôi có nói với Ted Rampole là thật dáng tiếc khi một người đã thật thà đến thế nào mà người khác vẫn không tin. Nhân tiện, ông đã nói chuyện với Annie chưa?”
“Rồi,” Hadley trả lời, trong khi Rosette Grimaud sải bước đi qua ông và rung chuông. “Câu chuyện của cô ấy rất đơn giản. Tối qua cô ấy đi ra ngoài, và đến hơn 12 giờ mới quay lại. Nhưng tôi chưa hỏi cô ấy về chuyện này.”
“Tôi chẳng hiểu tại sao phải quan trọng hóa chuyện này lên!” Rosette hét lên. “Có gì khác biệt đâu! Các ông không có việc gì hay hơn để làm ngoài việc cố xác định xem cái áo khoác màu đen hay màu vàng à?”
Mangan quay lại nói với cô. “Rất khác nhau đấy, và em biết điều đó. Anh không bị ảo giác. Không, và anh tin bà ấy cũng vậy! Nhưng chỉ có một người nói đúng thôi. Mặc dù anh thừa nhận có lẽ Annie không biết. Chúa ơi! Anh không biết gì cả!”
“Đúng đấy,” Burnaby nói.
“ Xuống địa ngục đi,” Mangan nói. “Ông có phiền không?”
Hadley sải bước ra đứng giữa hai người và nói nhỏ nhưng đi thẳng vào chủ đề. Burnaby, mặt đã hơi trắng đi, lại ngồi xuống ghế. Bầu không khí trong phòng căng thẳng và kích động thấy rõ, mọi người đều muốn giữ im lặng khi cô Annie xuất hiện. Annie là một cô gái ít nói, mũi cao, cực kì nghiêm túc, và không phải là người ăn nói hay hành động tùy tiện. Cô trông rất tháo vát, và cũng rất chăm chỉ. Cô đứng khom lưng ở ngưỡng cửa, đội cái mũ chỉn chu đến mức ta cảm tưởng như nó đã bị dính chặt vào đầu của cô. Cô ấy nhìn Hadley với đôi mắt nâu điềm đạm. Cô hơi bối rối một chút, nhưng không hề lo lắng.
“Một điều tôi quên chưa hỏi cô về chuyện tối qua… ờ,” ngài chánh thanh tra cấp cao nói, cũng không dễ dàng gì. “Hừm! Cô đã mở cửa cho cậu Mangan vào đúng không?”
“Đúng, thưa ngài.”
“Lúc đó khoảng mấy giờ?”
“Tôi không nói chắc được, thưa ngài.” Cô ấy có vẻ lúng túng. “Có lẽ là khoảng nửa tiếng trước bữa tối. Tôi không thể nói chính xác.”
“Cô có thấy cậu ấy treo áo khoác và mũ không?”
“Có, thưa ngài! Cậu ấy không bao giờ chịu đưa nó cho tôi, không thì tất nhiên tôi sẽ…”
“Nhưng cô có nhìn vào tủ quần áo chứ?”
“Ô, tôi hiểu rồi… có thưa ngài, tôi có nhìn! Ngài thấy đấy, khi tôi cho cậu ấy vào, tôi quay lại phòng ăn ngay, nhưng tôi nhớ ra phải đi xuống bếp ở tầng dưới. Nên tôi quay lại chỗ sảnh chính. Và tôi để ý thấy cậu ấy đã đi nhưng vẫn chưa tắt đèn trong tủ quần áo, nên tôi đi vào tắt nó…”
Hadley rướn người về phía trước. “Giờ hãy thận trọng nhé! Cô biết cái áo vải tuýt màu sáng được tìm thấy trong tủ quần áo sáng nay không? Cô biết chuyện đó rồi phải không? Tốt! Cô có nhớ nó được treo vào cái móc nào không?”
“Có, thưa ngài.” Môi của cô gái khép chặt lại. “Tôi ở sảnh chính sáng nay khi ông Burnaby phát hiện ra nó, và khi những người khác đến. Anh Mills bảo chúng tôi phải giữ nguyên hiện trường, vì trên cái áo có máu, vì cảnh sát…”
“Chính xác. Annie, tôi muốn hỏi về màu của cái áo đó? Tối qua khi cô nhìn vào tủ quần áo, thì cái áo khoác màu nâu nhạt hay màu đen? Cô có nhớ không?”
Cô gái nhìn Hadley chằm chằm. “Có, thưa ngài, tôi có nh… nâu nhạt hay đen hả thưa ngài? Ngài muốn hỏi tôi chuyện đó thật à? Chà, thưa ngài, nói cho chính xác thì cả hai đều không phải. Vì trên cái móc đó không hề treo cái áo nào cả.”
Căn phòng trở nên ồn ào và xôn xao: Mangan nổi cáu, Rosette cười chế giễu như điên, Burnaby thì thích thú. Chỉ có Ernestine Dumont vẫn im lặng với vẻ mệt mỏi và khinh khỉnh. Hadley quan sát khuôn mặt cương quyết của nhân chứng trong một phút: hai tay của Annie ghì chặt vào nhau, còn cổ thì nghển ra. Hadley di chuyển về phía cửa sổ một cách hung hăng thấy rõ, nhưng không nói gì.
Rồi tiến sĩ Fell cười khục khục.
“Thôi nào, tươi tỉnh lên mọi người,” ông kêu gọi. “ít ra thì nó không đổi sang màu khác. Và tôi phải nhấn mạnh là chi tiết này cho ta thấy rất nhiều điều đấy, dù rằng nói điều đó ra khiến tôi có nguy cơ bị ai đó ném chiếc ghế kia vào đầu. Hừm! Hà! Đúng rồi. Đi nào, Hadley. Chúng ta cần ăn trưa. Ăn trưa!”