- XVII - Bài giảng về phòng kín
Cà phê đã được dọn, rượu đã cạn và xì gà đã được châm. Hadley, Pettis, Rampole, và tiến sĩ Fell ngồi xung quanh một chiếc đèn bàn có chụp đèn màu đỏ trong phòng ăn rộng lớn và âm u ở khách sạn của Pettis. Họ là những người ở lại lâu nhất – chỉ còn vài người ngồi ở các bàn khác trong buổi chiều mùa đông no nê và uể oải này, khi ngọn lửa trong lò sưởi đang tỏa hơi ấm dễ chịu nhất và những bông tuyết bắt đầu rơi lất phất ngoài cửa sổ. Trong ánh phản chiếu lập lòe của những bộ giáp sắt và huy hiệu, tiến sĩ Fell trông giống một nam tước phong kiến hơn bao giờ hết. Ông liếc nhìn cốc cà phê bé xíu với ánh mắt khinh rẻ, làm người ta có cảm tưởng rằng ông sẽ nuốt chửng cái cốc đó luôn. Ông khoát rộng cánh tay cầm xì gà để làm mọi người im lặng. Ông hắng giọng.
“Giờ tôi sẽ thuyết trình,” vị tiến sĩ tuyên bố, giọng hòa nhã nhưng chắc nịch, “về nguyên lí chung và sự phát triển của tình huống được biết tới trong các tiểu thuyết trinh thám với cái tên ‘căn phòng không có lối thoát’.”
Hadley rên lên. “Để lúc khác đi,” ông đề nghị. “Chúng tôi không muốn nghe thuyết giảng sau một bữa trưa ngon miệng thế này, nhất là khi còn việc phải làm nữa. Giờ, như tôi đang nói lúc nãy…”
“Giờ tôi sẽ thuyết trình,” tiến sĩ Fell nói, không thể bị lay chuyển, “về nguyên lí chung và sự phát triển của tình huống được biết tới trong các tiểu thuyết trinh thám với cái tên ‘căn phòng không có lối thoát’. Hừm. Những ai phản đối có thể bỏ qua chương này. Hừm. Hãy bắt đầu nào các quý ông! Qua bốn mươi năm tự nâng cao tri thức của bản thân bằng các tiểu thuyết giật gân, tôi có thể nói…”
“Nhưng nếu ông định phân tích một tình huống bất khả thi,” Pettis ngắt lời, “tại sao lại nói tới tiểu thuyết trinh thám?”
“Bởi,” vị tiến sĩ nói rất thẳng thắn, “chúng ta đang ở trong một câu chuyện trinh thám, và chúng ta không lừa gạt độc giả bằng cách làm ra vẻ như chúng ta không ở trong một câu chuyện trinh thám. Xin miễn việc bịa ra các lí do phức tạp để lôi truyện trinh thám vào cuộc thảo luận. Hãy thẳng thắn hãnh diện với những mục đích cao quý nhất mà các nhân vật trong một cuốn sách có thể theo đuổi.
“Nhưng để tiếp tục: trong lúc thảo luận truyện trinh thám, thưa các quý ông, tôi sẽ không bắt đầu tranh luận bằng việc cố đua ra những quy tắc. Tôi sẽ hoàn toàn phát biểu theo sở thích của chính mình. Chúng ta có thể bắt chước Kipling: ‘Có sáu mươi chín cách để lập kế hoạch giết người và cách nào cũng đúng.’ Giờ nếu tôi nói rằng đối với tôi, tất cả các cách đó đều thú vị như nhau, thì có lẽ – nói theo cách lịch sự nhất có thể – tôi là một gã dối trá không biết ngượng mồm. Nhưng đó không phải là vấn đề ở đây. Khi tôi nói rằng chuyện về căn phòng không có lối thoát là chuyện thú vị nhất trong các tiểu thuyết trinh thám, thì đó chỉ là quan điểm của cá nhân tôi thôi. Tôi muốn các vụ giết người phải diễn ra liên tục, máu me và kinh sợ. Tôi muốn cốt truyện phải toát lên được sự sinh động của màu sắc và trí tưởng tượng, bởi một câu chuyện nếu chỉ ở mức có thể xảy ra được thì không có gì hấp dẫn cả. Tôi không quan tâm đến những chuyện xảy ra trong cuộc sống thường ngày, tôi thích nghe tiếng cười khục khục của Hanaud vĩ đại hay tiếng chuông chết chóc ở nhà thờ Fenchurch St Paul hơn. Tất cả những điều này, tôi xin thừa nhận, đều là những định kiến tốt, vui vẻ, hợp lí, và không hàm ý phê bình các tác phẩm nhạt nhẽo (hoặc xuất sắc) hơn.
“Nhưng tôi phải khẳng định điều này, bởi có một số ít người không thích những câu chuyện hơi ghê rợn một chút, nhưng lại cứ khăng khăng coi sở thích (hay không thích) của mình là quy luật. Để chê bai, họ dùng cụm từ ‘bất khả thi’. Bằng cách này, họ lừa bịp những người nhẹ dạ tin rằng ‘bất khả thi’ có nghĩa là ‘tệ’.
“Có vẻ như đây là lúc thích hợp để chỉ ra rằng ‘bất khả thi’ là cụm từ không nên dùng để báng bổ một tác phẩm trinh thám trong bất cứ trường hợp nào. Chúng ta thích các tiểu thuyết trinh thám đa phần là vì chúng ta thích tính bất khả thi của nó. Khi A bị giết, và B, C là những người bị tình nghi số một, thật khó có khả năng là D, người có vẻ như vô tội, lại là thủ phạm. Nhưng sự thật là vậy. Nếu G có một chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo, được mọi nhân chứng có tên là những chữ cái còn lại trong bảng chữ cái thế thốt làm chứng, thì rất khó có khả năng G là kẻ phạm tội. Nhưng sự thật là vậy. Khi vị thám tử phát hiện một nhúm bụi than trên bờ biển, thật khó có khả năng là thứ tưởng chừng tầm thường đó lại có ý nghĩa gì đặc biệt. Nhưng rồi sẽ có. Nói tóm lại, việc dùng cụm từ ‘bất khả thi’ để giễu cợt là việc làm vô nghĩa. Mọi thứ đều có thể xảy ra cho đến cuối câu chuyện. Và nếu ông muốn đổ tội giết người cho một kẻ không ai ngờ đến (như những người cổ hủ chúng tôi thường làm), thì ông cũng không thể phàn nàn rằng động cơ của hắn thiếu thuyết phục hoặc không rõ ràng bằng những người bị tình nghi đầu tiên.
“Khi ông kêu than ‘Điều này không thể xảy ra được!’, khi ông phàn nàn về những kẻ giết người tâm thần để lại danh thiếp, ông chỉ cần nói là: ‘Tôi không thích truyện kiểu thế này.’ Thế là đủ. Nếu ông không thích nó, ông hoàn toàn có quyền nói như thế. Nhưng khi ông bóp méo sở thích của riêng mình thành một quy tắc chung để đánh giá chất lượng hay tính khả thi của câu chuyện, thì chẳng khác gì nói rằng: ‘Chuỗi sự kiện này không thể xảy ra được, bởi tôi không thích.’
“Chân lí trong vấn đề này là gì? Ta có thể kiểm chứng nó bằng cách lấy tình huống phòng kín không có lối thoát làm ví dụ, bởi tình huống này thường bị chỉ trích là thiếu thuyết phục hơn tất cả các tình huống khác.
“Hầu hết mọi người – tôi rất mừng khi tuyên bố – đều yêu thích tình huống phòng kín. Nhưng, khó khăn là ở chỗ này, ngay cả những người thích tình huống này cũng rất hay nghi ngờ nó. Tôi xin vui vẻ thừa nhận rằng tôi là một trong số những người như thế. Nên lúc này, hãy cùng đứng về một phía và xem ta phát hiện được gì. Tại sao chúng ta lại nghi ngờ những lời giải thích cho những vụ án trong phòng kín? Không phải bởi chúng ra là những kẻ đa nghi, mà đơn giản là vì trên một phương diện mơ hồ nào đó, chúng ta thất vọng. Dĩ nhiên, sự thất vọng đó khiến chúng ta phản ứng quá đà và gọi vụ án đó là phi lí, hay bất khả thi, hay hoàn toàn nhảm nhí.
“Nói tóm lại,” tiến sĩ Fell kêu lên trong khi dùng điếu xì gà chỉ trỏ, “đây chính là điều mà O’Rourke đã nói với chúng ta hôm nay – về những màn ảo thuật được thực hiện ngoài đời thực. Chúa ơi! Các ông ơi, một câu chuyện tưởng tượng có cơ hội nào không khi chúng ta còn chế giễu những việc xảy ra trước mắt ta? Việc màn ảo thuật thành công, và nhà ảo thuật không bị lật mặt, khiến cho sự lừa gạt còn tồi tệ hơn. Khi nó xảy ra trong truyện trinh thám, ta gọi đó là phi thường. Khi nó xảy ra ngoài đời thực, và ta bị ép phải công nhận nó, chúng ta lại chê bai rằng lời giải thích đó là đáng thất vọng. Và lí do của cả hai sự thất vọng trên đều là một: chúng ta kì vọng quá nhiều.
“Các ông thấy đấy, hiệu ứng nhiệm mầu đến nỗi ta mong đợi rằng nguyên nhân gây ra hiệu ứng cũng phải là phép thuật. Khi ta biết là không phải, ta gọi đó là trò ngớ ngẩn. Như thế thật không công bằng. Chúng ta chỉ nên than thở về cách hành xử bất thường của kẻ giết người khi chúng ta chẳng còn gì để làm. Câu hỏi quan trọng nhất vẫn là, vụ án đó có thể thực hiện được không? Nếu có, thì chẳng ai thèm quan tâm đến câu hỏi liệu có nên làm điều đó không. Một người trốn thoát từ một căn phòng kín? Vì hắn dường như đã vi phạm các quy luật tự nhiên để mua vui cho chúng ta, nên chúng ta cũng có thể cho phép hắn vi phạm các nguyên tắc hành xử thông thường! Khi một người đề nghị được lộn đầu trồng cây chuối, ta khó có thể ra điều kiện là chân người đó phải ở trên mặt đất khi làm thế. Thưa các ông xin hãy nhớ điều đó khi các ông buông lời phán xét. Cứ cho kết quả là không hay nếu các ông muốn, hoặc những điều khác liên quan đến sở thích riêng. Nhưng hãy thật cẩn thận khi đưa ra những tuyên bố vô lí như điều đó bất khả thi hoặc khó tin.”
“Được rồi, được rồi,” Hadley nói, xoay mình trên ghế. “Tôi cũng không phải là người có quan điểm cực đoan như thế. Nhưng nếu ông cứ khăng khăng thuyết giảng, thì chắc là vì nó có thể áp dụng vào vụ án này?”
“Đúng.”
“Vậy sao lại nói về căn phòng không có lối thoát? Chính ông đã nói rằng vụ giết Grimaud không phải là vấn đề lớn nhất của chúng ta. Rắc rối lớn nhất là chuyện một người bị bắn chết ngay giữa một con phố vắng vẻ…”
“Vụ đó à?” tiến sĩ Fell nói, vẫy tay một cách khinh thường đến nỗi Hadley phải nhìn chằm chằm vào ông. “Chuyện đó à? Tỏi biết ngay lời giải lúc tôi nghe thấy tiếng chuông nhà thờ. Xin thứ lỗi cho ngôn từ của tôi. Nhưng tôi nghiêm túc đấy. Chính vụ trong phòng kín mới khiến tôi đau đầu. Và vì chúng ta không thể tìm ra manh mối nào, tôi sẽ diễn giải đại khái một vài trong số rất nhiều cách giết người trong phòng kín, được phân loại cụ thể. Vụ này cũng nằm trong số đó. Chắc chắn phải thế! Dù cho các trường hợp thực tế có đa dạng đến đâu, thì chúng cũng chỉ là biến thể của một số ít những phương pháp chính.
“Ha! Một căn phòng kín là một cái hộp với một cửa chính, một cửa sổ, và những bức tường vững chắc. Khi bàn về những cách thoát ra khỏi căn phòng đó khi cả cửa chính và cửa sổ đều khóa, tôi sẽ không nhắc tới trường hợp có lối đi bí mật trong phòng kín (và hiện nay trường hợp này cũng rất hiếm gặp). Trò lối đi bí mật khó ưa đến mức một nhà văn biết tự trọng không cần phải nói rằng trong tác phẩm của ông ta không hề có trò này. Chúng ta cũng sẽ bỏ luôn các biến thể của trò vớ vẩn này, ví dụ như: có một ô trên cửa đủ lớn để đút bàn tay qua hay có một lỗ đã bị bít trên trần nhà từ đó có thể thả dao xuống, miếng bít bị tháo ra rồi lắp lại mà không ai phát hiện ra, và sàn tầng áp mái được phủ bụi để tạo cảm giác như không có ai bước trên đó. Tất cả chỉ là phiên bản thu nhỏ của trò lối đi bí mật. Việc lối thông bí mật nhỏ như cái đê khâu hay lớn bằng cái cửa chuồng bò đều áp dụng cùng một quy tắc mà thôi… Còn về cách thoát ra khỏi phòng bị khóa kín thật sự… có lẽ ông nên ghi chép lại, ông Pettis…”
“Phải rồi,” Pettis vừa nói vừa nhăn răng cười. “Ông nói tiếp đi.”
“Đầu tiên là loại tội ác được gây ra trong một căn phòng kín thực sự, không có một khe hở nào, nhưng kẻ thủ ác không trốn ra khỏi phòng, bởi vì hắn chưa từng có mặt trong phòng. Có nhiều cách giải thích như sau:
“1. Đó không phải là một vụ án mạng, mà là một loạt những sự trùng hợp ngẫu nhiên cuối cùng dẫn đến một vụ tai nạn có hiện trường trông giống như một vụ án mạng. Trước khi căn phòng bị khóa đã có một vụ cướp, một vụ tấn công, hoặc một vết thương, hoặc bàn ghế bị hư hỏng khiến ta nghĩ là đã có một cuộc vật lộn trước khi nạn nhân bị giết. Sau đó nạn nhân hoặc là chết, hoặc là bị bất tỉnh vì tai nạn trong phòng kín, và tất cả những sự việc trên được hiểu nhầm là xảy ra vào cùng một thời điểm. Trong những vụ thế này, nguyên nhân tử vong thường là chấn thương sọ não được cho là bởi dùi cui, nhưng thật ra là do nạn nhân đập đầu vào một đồ vật nào đó trong phòng. Có thể là góc bàn hay cạnh sắc của ghế, nhưng vật phổ biến nhất là thanh chắn bằng sắt trước lò sưởi. Nhân tiện xin nói thêm, thanh chắn này đã giết rất nhiều người và để lại hiện trường trông giống như hiện trường của một vụ án mạng, từ thời Sherlock Holmes với vụ Người đàn ông dị dạng. Cách giải thích thuyết phục nhất cho trường hợp này có thể tìm thấy trong truyện Bí ẩn căn phòng vàng của Gaston Leroux, tác phẩm trinh thám hay nhất mọi thời đại.
“2. Đó là một vụ án mạng, nhưng nạn nhân bị buộc phải tự vẫn hay chết vì tai nạn. Nguyên nhân có thể là căn phòng đó bị ma ám, hay có người gợi ý hoặc ép buộc nạn nhân, nhưng thường là do có khí ga bơm từ bên ngoài vào. Khí ga hay chất độc này khiến nạn nhân phát cuồng, đập phá căn phòng khiến người ta tưởng là đã có một cuộc vật lộn xảy ra, và chết bởi một vết dao đâm do chính nạn nhân gây ra. Trong một số biến thể khác, nạn nhân tự đâm những que nhọn của đèn trần vào dầu, treo cổ bằng một cuộn dây, hoặc thậm chí tự bóp cổ chính mình.
“3. Đó là một vụ giết người bằng một loại máy móc đã được đặt trong phòng từ trước, và được giấu trong những đồ đạc tưởng như vô hại trong phòng. Đây có thể là cái bẫy của người xưa để lại, tự kích hoạt hoặc được kẻ giết người cài đặt. Có thể là một thứ đồ quỷ quái áp dụng khoa học hiện đại. Ví dụ, chúng ta có một loại súng được giấu trong ống nghe điện thoại, nó bắn vào đầu nạn nhân khi ông ta nhấc ống nghe lên. Chúng ta có một khẩu súng mà cò súng được nối với dây, và dây được kéo thả vào nước, khi nước đóng băng và co lại sẽ kéo cò. Chúng ta có một cái đồng hồ bắn đạn khi ta vặn kim cho nó, và (đồng hồ rất được ưa thích) chúng ta có một cái đồng hồ đứng được thiết kế rất tinh xảo, ở trên đỉnh có một cái chuông đinh tai nhức óc, và khi ta với tay để tắt nó thì một lưỡi dao sẽ bật ra chém thẳng vào bụng. Chúng ta có quả nặng được thả rơi từ trần nhà, hoặc quả nặng được gắn vào lưng ghế có thể đập vỡ đầu người ngồi. Có một cái giường khi có hơi ấm của cơ thể có thể phát ra khí ga chết người, hoặc kim độc không để lại dấu vết,…
“Các vị thấy đấy,” tiến sĩ Fell nói, vung vẩy điếu xì gà mỗi khi ông đưa ra một ví dụ, “khi bàn về những loại máy móc này, ta đã đi sang cả chủ đề về những ‘vụ án bất khả thi’ chứ không còn gói gọn trong chủ đề về các ‘vụ án trong phòng kín’ nữa. Chúng ta có thể nói liên tu bất tận về các cỗ máy có thể dùng điện để giật chết người. Một cái dây buộc một tập ảnh được nối điện. Một bàn cờ được nối điện. Đến cả găng tay cũng nối điện được. Đồ vật nào trong phòng cũng có thể dùng làm hung khí giết người, kể cả ấm trà. Nhưng có vẻ những vật này không thể áp dụng vào trường hợp của chúng ta, nên tôi xin tiếp tục với:
“4. Đó là một vụ tự tử, nhưng cố tình làm giống một vụ án mạng. Một người tự tử bằng một cọc băng nhọn, cọc băng tan, và vì không thể tìm thấy hung khí trong căn phòng kín, nên người ta cho là đã xảy ra một vụ giết người. Một người tự bắn mình bằng một khẩu súng được buộc vào một sợi dây cao su, ngay khi anh ta thả khẩu súng ra, sợi dây cao su sẽ kéo nó lên ống khói để không ai nhìn thấy. Biến thể của cách thức này (không trong phòng kín) là khẩu súng được buộc vào một quả nặng, được đẩy qua thành cầu và chìm xuống nước sau khi bắn, và cũng theo nguyên tắc tương tự, một khẩu súng được kéo qua cửa sổ rơi xuống đống tuyết.
“5. Đó là một vụ giết người mà hung thủ đóng giả nạn nhân và lừa gạt nhân chứng. Nạn nhân, vẫn được cho là còn sống, thực ra là đã chết ở trong căn phòng có cửa chính được theo dõi nghiêm ngặt. Hung thủ hoặc là đóng giả làm nạn nhân, hoặc là nhìn từ phía sau dễ lầm tưởng là nạn nhân, vội vã đi vào. Hắn quay lại, tháo bỏ lớp hóa trang, trở về hình dạng cũ và ngay lập tức ra khỏi phòng. Nhân chứng bị đánh lừa, họ cho rằng hắn đi ra vừa lúc nạn nhân đi vào. Do đó hắn có chứng cứ ngoại phạm vì cái xác được phát hiện sau đó, và vụ án mạng được cho là xảy ra sau khi ‘nạn nhân’(giả) bước vào phòng.
“6. Đó là một vụ án mạng mà được hung thủ gây ra từ bên ngoài căn phòng, nhưng lại trông như thể hung thủ gây ra nó từ bên trong.”
“Để giải thích cách thức này,” tiến sĩ Fell nói, ngắt mạch thuyết trình, “tôi sẽ phân loại những vụ án mạng kiểu này dưới cái tên là Án mạng Từ xa hay Án mạng Băng, vì nó thường là biến thể của cách giết người bằng cọc băng nhọn. Tôi đã nói về cọc băng nhọn, các vị hiểu nó diễn ra thế nào rồi đấy. Cửa chính khóa, cửa sổ quá nhỏ để hung thủ có thể chui vào, vậy mà nạn nhân vẫn bị đâm trong phòng mà không thể tìm ra hung khí. Cọc băng đã được bắn từ bên ngoài vào bằng súng – chúng ta sẽ không bàn về tính khả thi của cách gây án này, cũng như của loại khí ga bí ẩn trên giường trước đó – và cọc băng tan chảy mà không để lại dấu vết nào. Tôi tin rằng Anna Katharine Green là người đầu tiên sử dụng cách này trong văn học trinh thám, trong tác phẩm có tên Chỉ cần tên viết tắt.
“(Tiện đây tôi xin nói thêm, bà là người đã khởi đầu một số truyền thống. Trong tác phẩm trinh thám đầu tiên của mình, xuất bản hơn 50 năm trước, bà là người đầu tiên dựng lên một vụ giết người mà kẻ thủ ác là thư kí còn nạn nhân là ông chủ, và tôi nghĩ cho đến nay con số thống kê chỉ ra rằng thư kí vẫn là kẻ giết người thường gặp nhất trong truyện trinh thám. Quản gia đã lỗi thời từ lâu, người tàn tật ngồi xe lăn thì quá đáng nghi, và người đàn bà trung niên không chồng từ lâu đã bỏ ham muốn giết người để trở thành thám tử. Bác sĩ bây giờ cũng hiền hơn rồi, trừ khi họ quá giỏi và biến thành Nhà Khoa học Điên. Luật sư, mặc dù vẫn gian manh, nhưng chỉ thỉnh thoảng mới trở nên nguy hiểm thật sự. Nhưng xu hướng trong văn học cũng xoay vòng như thời trang! Edgar Allan Poe 80 năm trước đã làm lộ hung thủ bằng cách gọi hắn là Goodfellow (“người tốt”), và nhà văn trinh thám hiện đại đình đám nhất hiện nay cũng làm điều tương tự khi gọi kẻ ác nhân là Goodman (“người đàn ông tốt”). Mặc dù vậy, thư kí vẫn là những kẻ nguy hiểm nhất ở trong nhà.)
“Để tiếp tục câu chuyện về cọc băng nhọn: nó được cho là đã được nhà Medici sử dụng, và một trong những câu chuyện về thám tử Fleming Stone đã trích dẫn một bài thơ trào phúng của Martial, cho thấy cọc băng nhọn có nguồn gốc từ Rome hồi thế kỉ đầu tiên sau Công Nguyên. Cọc băng đã được quăng, ném, hay được bắn bằng nỏ như trong một cuộc phiêu lưu của thám tử Hamilton Cleek (với biệt danh ‘Người có bốn mươi khuôn mặt’). Kiểu đạn có thể hòa tan được này còn có những biến thể như đạn bằng đá muối, thậm chí đạn bằng máu đông.
“Nhưng nó chỉ là một ví dụ minh họa cho ý của tôi về những vụ giết người trong phòng kín do người ở ngoài căn phòng thực hiện. Ngoài ra còn có nhiều cách khác. Nạn nhân có thể bị đâm bằng một thanh kiếm rất mỏng xuyên giữa những ván gỗ ép của một căn nhà nghỉ mùa hè, hoặc nạn nhân có thể bị đâm bởi một lưỡi kiếm mỏng đến nỗi không hề biết là mình đã bị đâm, anh ta đi sang phòng khác trước khi đột ngột gục xuống chết. Hoặc nạn nhân bị dụ nhìn ra ngoài cửa sổ mà từ dưới không trèo lên được, nhưng bị anh bạn băng giá quen thuộc của chúng ta rơi thẳng từ trên xuống, khiến nạn nhân bị vỡ đầu nhưng không tìm thấy hung khí vì nó đã tan đi.
“Trong mục này (mặc dù những vụ này cũng có thể thuộc mục 3) ta có thể liệt kê những vụ án mạng được gây ra bởi rắn độc hay trùng độc. Rắn không chỉ có thể trốn trong rương và két, nó còn khéo léo ẩn mình trong chậu hoa, sách, đèn trần, và gậy chống. Tôi vẫn còn nhớ một cái tẩu thuốc xinh xắn với phần chân bằng hổ phách có khắc hình một con bọ cạp ghê tởm, và ngay khi nạn nhân chuẩn bị ngậm vào mồm thì nó hiện nguyên hình là một con bọ cạp sống. Còn về vụ giết người trong phòng kín được thực hiện từ xa vĩ đại nhất, thưa các ông, tôi xin giới thiệu một trong những truyện trinh thám ngắn xuất sắc nhất trong lịch sử. (Thật ra, nó chia sẻ vị trí ‘truyện trinh thám tuyệt vời nhất không gì sánh nổi’ với các tác phẩm Bàn tay của Ottermole của Thomas Burke, Người đàn ông nơi lối đi của Chesterton và Vấn đề trong Buồng giam 13 của Jacques Futrelle.) Đó là truyện Bí ẩn Doomdorf của Melville Davisson Post. Trong truyện, sát thủ từ xa của chúng ta chính là mặt trời. Mặt trời chiếu qua cửa sổ phòng kín, biến chai rượu trắng mà Doomdorf đặt trên bàn thành thấu kính hội tụ và châm ngòi kíp nổ của khẩu súng đang treo trên tường và bắn thẳng vào ngực của nạn nhân lúc đó đang nằm trên giường. Tuy nhiên, chúng ta có…
“Khoan! Tốt hơn tôi không nên lạc đề. Tôi nên kết thúc bảng phân loại này bằng mục cuối cùng:
“7. Đó là một vụ án mạng, nhưng ngược lại hoàn toàn với mục 5. Đó là nạn nhân được cho là đã chết rất lâu trước khi chết thực sự. Nạn nhân bị đánh thuốc mê và ngủ trong phòng kín. Gõ cửa không thể gọi dậy được. Hung thủ giả vờ hoảng loạn, phá cửa, xông vào phòng trước và giết nạn nhân bằng cách đâm dao hoặc cắt cổ, rồi đánh lừa những nhân chứng khác rằng nạn nhân đã chết từ trước đó. Người phát kiến ra cách giết người này là Israel Zangwill, và từ đó nó đã được sử dụng theo nhiều hình thức khác nhau. Nó đã được thực hiện (thường là với dao để đâm nạn nhân) trên thuyền, trong nhà bỏ hoang, trong nhà kính, trên tầng áp mái, thậm chí ngay cả ở ngoài trời, khi nạn nhân trượt chân và bất tỉnh trước khi sát thủ ra tay. Nên…”
“Từ từ! Đợi chút!” Hadley chen vào, đập tay thình thình xuống bàn để gây chú ý. Tiến sĩ Fell, càng lúc càng diễn thuyết trơn tru và hùng hồn hơn, tươi cười quay lại nhìn ông. Hadley nói tiếp: “Rất tuyệt. Ông đã thuyết trình tất cả các vụ án trong phòng kín…”
“Tất cả?” tiến sĩ Fell khụt khịt mũi và mở to mắt. “Đương nhiên là chưa rồi. Tôi còn chưa nói đến từng cách thức trong từng hạng mục, những gì tôi vừa nói chỉ là những nét chính tôi nghĩ đến đâu nói đến đấy thôi, nhưng cứ để nó đấy. Tôi đang định nói về các cách phân loại khác: những mánh khóe để cửa chính và cửa sổ có thể bị khóa trong. Nên, thưa các vị, tôi xin tiếp tục…”
“Không được,” ngài chánh thanh tra cấp cao nói một cách cương quyết. ”Tôi sẽ phản biện lại những gì ông vừa đưa ra. Ông nói chúng ta có thể tìm được manh mối bằng việc nêu lên các cách giết người trong phòng kín. Ông đã nêu ra 7 mục, nhưng áp dụng vào trường hợp này, tất cả đều phải bị loại bỏ. Ông có hẳn một mục với tựa đề là ‘Kẻ giết người không trốn thoát ra khỏi căn phòng vì hắn không hề ở trong phòng vào thời điểm xảy ra vụ án’. Thế là đi tong hết! Điều duy nhất chúng ta biết đích xác, trừ khi Mills và bà Dumont nói dối, là hung thủ đã thực sự ở trong căn phòng! Ông giải thích thế nào?”
Pettis đang ngồi chúi mình về phía trước chăm chú ghi chép, ánh sáng từ ngọn đèn đỏ lấp lánh phản chiếu lên cái đầu hói. Ông ta vốn đang dùng một cây bút vàng để nắn nót ghi chú. Nhưng giờ ông ta ngước đôi mắt lồi lên, khiến nó trông lại càng lồi hơn nữa và có vẻ hơi hoảng hốt.
“Đúng,” ông ta nói và ho ngắn. “Nhưng mục số 5 có thể là gợi ý cho chúng ta. Bị đánh lừa! Nhỡ Mills và bà Dumont không thật sự thấy người nào đi vào, rằng bằng cách nào đó họ bị lừa hoặc tất cả mọi thứ chỉ là một hình ảnh không thực do đèn chiếu ma thuật tạo ra?”
“Lừa gạt cái khỉ gió,” Hadley nói. “Xin lỗi! Tôi củng đã nghĩ đến khả năng đó rồi. Tối qua, tôi đã tra hỏi Mills về chuyện đó, và sáng nay tôi cũng đã trao đổi đôi lời với anh ta. Dù kẻ giết người là ai, hắn không phải là ảo ảnh và hắn thật sự đã đi qua cánh cửa đó. Hắn đủ thật để tỏa bóng xuống sàn và khiến hành lang rung động khi hắn bước đi. Hắn đủ thật để nói chuyện và gõ cửa được. Ông đồng ý với điều đó chứ Fell?”
Vị tiến sĩ gật đầu một cách chán chường. Ông hít những hơi khói còn lại từ điếu xì gà đã tắt.
“Đúng, tôi đồng ý. Hắn đúng là có thật, và đã vào nhà.”
“Và thậm chí,” Hadley tiếp tục, trong khi Pettis gọi phục vụ lấy thêm cà phê, “cứ cho là những điều chúng ta biết đều không đúng. Cứ cho là một cái đèn chiếu ma thuật đã tạo nên những gì họ thấy, nhưng đèn chiếu ma thuật không thể giết Grimaud được, cần có một bàn tay thật sự cầm một khẩu súng thật sự. Và với những mục còn lại. Chúa biết rằng Grimaud không bị bắn bởi một loại máy móc thiết bị nào. Hơn thế nữa, ông ta không tự tử và giấu khẩu súng lên ống khói như trong ví dụ của ông. Thứ nhất, một người không thể tự bắn chính mình từ cách xa vài mét. Và thứ hai, khẩu súng không thể bay lên ống khói và lướt theo mái nhà đến phố Cagliostro, bắn Fley rồi rơi xuống đất khi xong việc. Dẹp nó đi. Fell, cách nói của tôi cũng bắt đầu giống ông rồi đấy! Tôi đã nhiễm phải quá nhiều lối suy nghĩ của ông. Tôi đang đợi một cuộc gọi từ văn phòng trong vài phút nữa, và tôi cần phải tỉnh táo lại. Ông bị làm sao thế hả?”
Đôi mắt nhỏ của tiến sĩ Fell mở to, nhìn chằm chằm vào ngọn đèn, và ông chầm chậm đấm tay xuống bàn.
“Ống khói!” Ông nói. “ống khói! Chà! Nếu như…? Chúa ơi! Hadley, tôi đúng là đồ ngu!”
“Ống khói thì sao?” ngài chánh thanh tra cấp cao hỏi. “Ta đã chứng minh được rằng hung thủ không thể thoát ra ngoài qua đường ống khói được.”
“Đúng, tất nhiên rồi, nhưng ý tôi không phải như vậy. Tôi bắt đầu có ý tưởng này, dù nó còn rất mơ hồ. Tôi phải quay lại xem xét cái ống khói thêm một lần nữa.”
Pettis chặc lưỡi, gõ cái bút vàng lên đống giấy tờ ghi chép. “Dù sao thì,” ông ta gợi ý, “chúng ta nên tổng kết cuộc thảo luận này. Tôi đồng ý với ngài chánh thanh tra cấp cao về một điều. Có lẽ ông nên liệt kê ra những gì có liên quan đến cửa chính, cửa sổ và ống khói.”
“Ống khói, tôi rất tiếc phải nói,” tiến sĩ Fell tiếp tục, sự lơ đãng bay biến nhường lại chỗ cho sự phấn khích, “tôi rất tiếc khi phải nói rằng ống khói không phải là chỗ thoát hiểm được ưa thích trong các tác phẩm trinh thám, trừ khi, tất nhiên, có lối đi bí mật. Nếu có lối đi bí mật thì ống khói rất quan trọng. Có một ống khói rỗng với căn phòng bí mật phía sau, lò sưởi mở ra hai bên như một tấm màn, thậm chí có cả một căn phòng bên dưới đá lát lò sưởi. Hơn thế nữa, đủ thứ trên đời có thể được thả xuống ống khói, nhất là những thứ có độc. Nhưng rất hiếm có trường hợp kẻ giết người thoát thân qua ống khói. Việc trèo lên ống khói là gần như không thể. Hơn nữa, tìm cách leo trèo qua cửa sổ hay cửa chính thì dễ dàng hơn nhiều. Ở hai mục chính trong phân loại của tôi, cửa chính và cửa sổ, thì cửa chính phổ biến hơn nhiều, và chúng ta sẽ liệt kê ra vài cách để sao cho nó trông như bị khóa từ bên trong:
“1. Thủ thuật với chìa khóa vẫn còn nằm trong ổ. Đây là cách lỗi thời được nhiều tác giả ưa thích, nhưng các biến thể của nó hiện giờ đã được biết đến quá rộng rãi nên không ai thèm sử dụng nó một cách nghiêm túc nữa. Ta có thể dùng kìm kẹp và xoay chìa khóa từ bên ngoài, giống như cách chúng ta mở cửa văn phòng của Grimaud. Trong thực tế, có một thủ thuật nho nhỏ để làm trò này: nó sử dụng một thanh kim loại mỏng dài khoảng 5 cm gắn vào một đoạn dây chắc chắn. Trước khi rời khỏi phòng, thanh kim loại được nhét vào cái lỗ trên chìa khóa, một đầu ở trên, một đầu ở dưới, để nó hoạt động như đòn bẩy. Dây được thả xuống dưới cửa và kéo ra ngoài. Cửa được đóng từ bên ngoài. Ta chỉ cần kéo dây, và đòn bẩy làm xoay ổ khóa, sau đó lắc hoặc kéo thanh kim loại ra khỏi chìa, khi nó rơi xuống thì chỉ cần rút ra ngoài. Có rất nhiều phương pháp ứng dụng nguyên tắc này, tất cả đều sử dụng dây.
“2. Đơn giản chỉ là tháo bản lề cửa mà không động chạm gì đến khóa hay chốt. Một chiêu rất khôn khéo, được hầu hết đám trẻ con sử dụng khi chúng muốn mở một cái tủ bị khóa, nhưng tất nhiên bản lề phải ở bên ngoài cửa.
“3. Thủ thuật với chốt cửa. Vẫn dùng dây: lần này là với ghim và kim để mạng quần áo. Dùng cách này ta có thể chốt cửa từ bên ngoài bằng cách dùng ghim để đẩy chốt và kéo dây qua lỗ khóa. Philo Vance, người mà tôi phải ngả mũ kính phục, đã cho chúng ta thấy ứng dụng hay nhất của thủ thuật này. Những cách chỉ sử dụng một sợi dây thì đơn giản hơn, nhưng không hiệu quả bằng. Có một loại nút thắt tên là ‘tomfool’ mà chỉ cần giật mạnh một cái là sẽ tháo ra được. Ta thắt một nút như thế vào một sợi dây dài. Sau đó nó được buộc vào chốt cửa và luồn xuống dưới ra ngoài. Cửa sau đó được đóng lại, và bằng cách đung đưa sợi dây qua trái và phải, chốt sẽ sập vào. Giật mạnh một cái là cái nút được tháo ra, và sợi dây được rút ra ngoài. Ellery Queen cho chúng ta thấy một cách khác, lần này sử dụng chính người chết, nhưng một tuyên bố lộ liễu thế này, nếu không có ngữ cảnh thích hợp, sẽ nghe điên rồ đến nỗi thật không công bằng cho quý ông xuất sắc đó.
“4. Thủ thuật với chốt cửa đứng. Cách này thường bao gồm chèn thứ gì đó dưới chốt, sau khi cửa được đóng từ bên ngoài, vật chèn được rút ra để chốt rơi xuống. Cách tốt nhất là dùng cục nước đá vô cùng hữu dụng của chúng ta: chèn một cục nước đá vào chốt cửa, khi nó tan đi, chốt sẽ sập xuống. Có một trường hợp mà chỉ cần đóng sập cửa cũng là đủ để thanh chốt rơi xuống.
“5. Dùng cách đánh lừa, đơn giản nhưng hiệu quả. Hung thủ, sau khi thực hiện xong tội ác, khóa cửa từ bên ngoài và giữ chìa. Người ta nhầm tưởng rằng khóa vẫn nằm trong ổ ở bên trong. Hung thủ, người đầu tiên báo động và tìm thấy tử thi, phá ô kính phía trên cửa, cho tay đã giấu sẵn chìa khóa qua và mở khóa từ bên trong. Cách này cũng được sử dụng với cửa gỗ thông thường: chỉ cần phá một ô ván gỗ trên cửa.
“Có rất nhiều cách khác nhau, ví dụ như khóa cửa từ bên ngoài và trả chìa khóa vào trong phòng bằng dây, nhưng các ông có thể tự thấy được rằng nó không thể áp dụng vào trường hợp này. Chúng ta thấy cửa bị khóa từ bên trong. Chà, có rất nhiều cách để làm được điều đó, nhưng không thể, vì Mills đã đứng canh cửa trong suốt thời gian đó. Căn phòng không chỉ bị khóa theo đúng nghĩa đen, nó còn luôn bị theo dõi, và như thế tất cả mọi giả thuyết đều tiêu tan hết.”
“Tôi không muốn nhắc lại những câu danh ngôn,” Pettis nói, trán nhăn lại, “nhưng trong trường hợp này, câu nói này có vẻ khá hợp lí: ‘Khi ta loại bỏ hết những điều không thể thì những gì còn lại, dù khó xảy ra đến đâu, cũng vẫn là sự thật.’ Ông đã loại bỏ cửa chính, tôi cho rằng ông cũng loại bỏ luôn cả ống khói?”
“Đúng,” tiến sĩ Fell gầm gừ.
“Vậy thì chúng ta phải quay lại với cửa sổ thôi, phải không?” Hadley gặng hỏi. “Ông cứ nói tràng giang đại hải về những cách mà rõ ràng không thể áp dụng vào vụ này. Nhưng trong bài phân loại về những truyện giật gân này, ông đã không đề cập đến lối thoát duy nhất mà hung thủ có thể sử dụng…”
“Bởi cái cửa sổ đó không được khóa, ông không hiểu sao?” tiến sĩ Fell kêu to. “Tôi có thể kể cho ông nhiều thủ thuật với cửa sổ nếu nó bị khóa. Từ những cách cổ xưa sử dụng đinh giả đến những trò ma mãnh mới nhất với cửa chớp bằng thép. Ông có thể đập vỡ khung kính, cẩn thận cài chốt để khóa nó, và khi rời đi, thay vào một khung kính mới hoàn toàn và dán nó lại, khiến cho nó trông giống hệt như cũ nhưng với cánh cửa sổ giờ đã bị khóa ở trong. Nhưng cánh cửa sổ của chúng ta không những không bị khóa, mà còn không bị đóng, chỉ đơn giản là không thể thoát xuống bằng đường đó.”
“Tôi đã đọc ở đâu đó về người bay…” Pettis gợi ý.
Tiến sĩ Fell lắc đầu. “Chúng ta không thảo luận về việc người bay có thể đi trên tường trơn hay không. Vì tôi đã vui vẻ chấp nhận nhiều thứ rồi, có thể tôi cũng đã tin rằng cách đó là khả thi đấy nếu người bay có chỗ đậu. Tức là hắn phải cất cánh từ đâu đó và đáp xuống ở đâu đó. Nhưng ở trên mái nhà cũng không và dưới đất cũng không…” Tiến sĩ Fell nện hai nắm đấm lên thái dương. “Dù sao thì nếu ông muốn một vài gợi ý về khả năng đó, tôi sẽ kể…”
Ông dừng lại, ngẩng đầu lên. Ở phía cuối phòng ăn im ắng giờ đã thưa người là dãy cửa sổ chiếu ánh sáng nhợt nhạt, lập lòe ánh tuyết từ bên ngoài vào. Một người vừa xộc vào, rọi bóng xuống họ, ngập ngừng, nhìn từ bên nọ qua bên kia, rồi sau đó vội vã đi về phía họ. Hadley phát ra một vài tiếng kêu nghẹn khi nhận ra đó là Mangan. Mặt Mangan tái nhợt.
“Không phải đã xảy ra chuyện gì chứ?” Hadley hỏi, cố tỏ ra điềm tĩnh hết sức. Ông đẩy ghế ra sau lưng. “Có gì khác về áo khoác đổi màu hay…”
“Không,” Mangan nói. Anh ta dừng lại bên bàn, thở hổn hển. “Nhưng các ông phải đến đó ngay. Đã có chuyện gì đó xảy ra với Drayman, tai biến mạch máu não hay gì đó. Không, ông ấy chưa chết. Nhưng tình trạng của ông ấy đang rất tệ. Ông ấy đang cố liên lạc với ngài thì lên cơn đột quỵ… Ông ấy cứ nói điên cuồng về ai đó trong phòng ông ấy, pháo hoa và ống khói.”