← Quay lại trang sách

- XVIII - Cái ống khói

Trong phòng khách lại có ba người đang đứng đợi với vẻ mặt căng thẳng và lo lắng. Ngay cả Stuart Mills, người đang đứng quay lưng về phía lò sưởi, cũng liên tục hắng giọng làm cho Rosette gần như phát điên. Ernestine Dumont ngồi im lặng bên ngọn lửa khi Mangan dẫn tiến sĩ Fell, Hadley, Pettis và Rampole đi vào. Đèn trong phòng đã tắt, chỉ còn ánh sáng ảm đạm của một buổi chiều tuyết rơi trắng trời len qua những tấm rèm đăng ten nặng nề, và cái bóng của Mills đã che mất ngọn lửa lập lòe uể oải. Burnaby đã đi đâu mất.

“Các ông không gặp ông ấy được đâu,” bà Dumont nói, ánh mắt dán về phía cái bóng của Mills. “Bác sĩ đang ở cùng ông ấy. Mọi thứ diễn ra dồn dập. Có lẽ ông ấy điên rồi.”

Rosette khoanh tay đi đi lại lại với sự uyển chuyển như mèo của riêng mình. Cô ta quay mặt lại nhìn những người mới đến, rồi đột ngột nói.

“Tôi không thể chịu nổi, các ông ạ. Sao chuyện này có thể kéo dài đến thế được… Các ông có biết chuyện gì đã xảy ra không? Các ông có biết cha tôi bị giết như thế nào, hay ai đã giết ông ấy không? Vì Chúa, hãy nói gì đó đi, kết tội tôi cũng được!”

“Với điều kiện cô kể cho chúng tôi nghe chính xác những gì đã xảy ra với ông Drayman,” Hadley lặng lẽ nói, “và thời điểm nó xảy ra. Tình trạng ông ấy có nghiêm trọng không?”

Bà Dumont nhún vai. “Có thể. Tim ông ấy… tôi không biết. Ông ấy ngã quỵ. Giờ ông ấy mê man rồi. Tôi cũng không biết liệu ông ấy có tỉnh dậy được không nữa. Về chuyện xảy ra với ông ấy, chúng tôi không biết là do nguyên nhân gì…”

Mills lại hắng giọng. Đầu anh ta ngẩng lên, và nụ cười không đổi của anh trông có vẻ nhợt nhạt. Anh ta nói:

“Thưa ngài, nếu ngài nghĩ là… ừm… có ai đó mưu hại, hay nghi ngờ rằng ông ấy bị ám sát, thì hãy bỏ suy nghĩ đó đi. Và, thật kì lạ, chúng tôi có thể làm chứng… nói thế nào nhỉ… theo cặp? Cũng chính những người ở cùng nhau đêm qua đã ngồi với nhau chiều nay. Bà Đồng và tôi,” anh ta cúi đầu nghiêm trang về phía Ernestine Dumont, “ngồi với nhau trên tầng trong phòng làm việc của tôi. Tôi cũng được biết rằng cô Grimaud và cậu Mangan ở dưới này…”

Rosette lắc đầu. “Tốt hơn là các ông nên nghe từ đầu. Boyd đã nói với các ông rằng ông Drayman đã xuống đây trước tiên không?”

“Không, anh chưa nói gì với họ cả,” Mangan trả lời bằng giọng đau khổ. “Sau chuyện cái áo khoác, tôi muốn có ai đó ngồi cùng tôi để làm chứng phòng khi có chuyện gì.” Anh ta quay người, cơ trên thái dương co lại. “Chuyện xảy ra khoảng nửa tiếng trước. Rosette và tôi đang ngồi đây một mình. Tôi vừa cãi nhau với Burnaby… chuyện thường ngày ấy mà. Mọi người gào thét và cãi nhau về chuyện cái áo khoác, rồi mỗi người về một chỗ. Bumaby đã đi đâu đó. Tôi không thấy ông Drayman đâu cả, ông ấy đã ru rú trong phòng của mình cả buổi sáng. Sau đó, Drayman bước vào đây và hỏi tôi cách để liên lạc với các ông.”

“Ý cậu là ông ấy đã phát hiện ra gì đó?”

Rosette hít vào. “Hoặc muốn chúng tôi nghĩ như thế. Rất bí hiểm. Ông ấy lập cập đi vào như thường ngày, và như Boyd nói, hỏi cách để liên hệ với các ông. Boyd hỏi ông ấy có chuyện gì…”

“Ông ấy có cư xử như thể… ông ấy đã tìm thấy thứ gì quan trọng không?”

“Có. Cả hai chúng tôi gần như nhảy dựng lên…”

“Vì sao?”

“Ông cũng sẽ thế,” Rosette bình tĩnh nói, “nếu ông vô tội.” Cô ta co hai vai lại, tay vẫn khoanh chặt như thể đang bị lạnh. “Nên chúng tôi hỏi, ‘Có chuyện gì chứ?’ Ông ấy run rẩy một chút rồi nói, ‘Tôi đã tìm thấy thứ bị mất trong phòng mình, và nó khiến tôi nhớ ra điều tôi đã quên tối qua.’ Rồi sau đó ông ấy lảm nhảm cái gì đó về trí nhớ tiềm thức, mặc dù không rõ ràng lắm. Cuối cùng ông ấy nói là lúc đang nằm trên giường sau khi uống thuốc ngủ, ông ấy đã gặp ảo giác rằng có ai đó đã vào phòng ông ấy.”

“Trước lúc xảy ra vụ án?”

“Đúng.”

“Ai đã vào phòng ông ấy?”

“Ông ấy chỉ nói có thế thôi! Hoặc là ông ấy không biết, hoặc là không muốn nói, hoặc đó chỉ là một giấc mơ. Tất nhiên có thể có khả năng đó. Tôi sẽ không đưa ra,” Rosette vẫn bình tĩnh nói, “giả thuyết nào khác. Khi chúng tôi hỏi, ông ấy chỉ gõ vào đầu và đánh trống lảng, nói rằng, ‘Tôi thật sự không thể nói được,’ theo cái kiểu khiến người ta điên tiết lên… Chúa ơi! Tôi ghét những người úp úp mở mở quá! Cả hai chúng tôi đều thấy khó chịu…”

“Cũng không có gì đâu,” Mangan nói, càng ngày càng trở nên lo lắng. “Chỉ là, khỉ thật, nếu tôi đã không nói như thế…”

“Nói gì?” Hadley hỏi rất nhanh.

Mangan khom vai lại và ủ rũ nhìn vào lò sưởi. “Tôi nói, ‘Chà, nếu ông có phát hiện động trời thế, thì sao không lên hiện trường vụ án để xem có tìm ra được thêm gì không?’ Vâng. Lúc đó tôi rất tức tối. Nhưng ông ấy lại nghe lời tôi. Ông ấy nhìn tôi một phút rồi nói: ‘Đúng, tôi nghĩ mình nên làm vậy. Tôi phải đảm bảo chắc chắn.’ Và thế là ông ấy đi mất! Khoảng 20 phút sau chúng tôi nghe thấy tiếng động như thể có ai đó bị ngã ở tầng dưới này… Ông thấy đấy, chúng tôi vẫn ngồi yên trong phòng, mặc dù…” Bỗng nhiên anh ta dừng lại.

“Anh nên tiếp tục với họ,” Rosette nói với vẻ thờ ơ lạ thường. “Tôi không quan tâm là ai biết. Tôi muốn bí mật đi theo và quan sát ông ấy. Nhưng chúng tôi không làm vậy. Sau khoảng 20 phút, chúng tôi nghe tiếng ông ấy mò mẫm đi xuống dưới. Sau đó, có vẻ như khi ông ấy xuống đến bậc thang cuối cùng, chúng tôi nghe thấy có tiếng nấc nghẹn và tiếng huỵch. Boyd ra mở cửa, và thấy ông ấy đang nằm co quắp. Mặt ông ấy sung huyết, và những mạch máu trên trán đã chuyển sang màu xanh, thật kinh khủng! Tất nhiên chúng tôi gọi ngay bác sĩ đến. Ông ấy không nói gì ngoài việc mê sảng những từ như ‘ống khói’ hay ‘pháo hoa’.”

Ernestine Dumont vẫn ngồi dửng dưng, ánh mắt không rời khỏi ngọn lửa. Mills nhảy một bước nhỏ về phía trước.

“Nếu cô cho phép tôi tường thuật tiếp câu chuyện,” anh ta nói, nghiêng đầu, “tôi nghĩ mình có thể kể phần còn thiếu. Đó là, tất nhiên, nếu được sự cho phép của Bà Đồng…”

“A!” bà Dumont rít lên. Khuôn mặt của bà ở trong bóng tối khi bà ngước lên, người bà cứng nhắc như xương cá voi, nhưng Rampole ngạc nhiên khi thấy ánh mắt bà lóe lên. “Cậu lúc nào cũng phải tỏ ra là một thằng ngốc, phải không? Bà Đồng thế nọ, Bà Đồng thế kia. Được thôi, tôi nói với cậu thế này. Tôi thần giao cách cảm đủ để biết cậu không thích ông già Drayman tội nghiệp, và Rosette bé nhỏ của tôi cũng vậy. Chúa ơi! Tôi nào biết gì về đàn ông hay sự cảm thông nhưng… Drayman là một người tốt, mặc dù ông ấy hơi hâm một chút. Có lẽ ông ấy đã nhầm. Có lẽ ông ấy đã uống cả đống thuốc. Nhưng bản chất ông ấy là người tốt, và nếu ông ấy mất, tôi sẽ cầu nguyện cho linh hồn của ông ấy.”

“Tôi… ờm… nói tiếp được không?” Mills quan sát bà, không chút nao núng.

“Được, cậu có thể nói tiếp,” bà ta nhại lại rồi im lặng.

“Bà Đồng và tôi đang ngồi ở phòng làm việc của tôi ở tầng trên, đối diện với phòng làm việc của tiến sĩ Grimaud, như các vị biết. Và một lần nữa, cửa được mở. Tôi đang soạn lại giấy tờ, và tôi để ý thấy ông Drayman bước lên và bước vào phòng làm việc…”

“Anh có biết ông ta làm gì ở đó không?” Hadley hỏi.

“Rất tiếc là không, ông ấy đóng cửa. Tôi thậm chí không dám suy đoán xem ông ấy định làm gì vì tôi không nghe thấy gì cả. Một lúc sau ông ấy đi ra trong trạng thái mà tôi chỉ có thể diễn tả là không ổn định và thở hổn hển…”

“Ý anh là sao?”

Mills nhíu mày. “Thưa ngài, rất tiếc là tôi không thể mô tả chính xác hơn. Tôi chỉ có thể nói là tôi có cảm giác ông ấy đã làm việc gì đó quá sức. Không nghi ngờ gì nữa, đó chính là nguyên nhân dẫn đến cơn đột quỵ của ông ấy, vì có bằng chứng rõ ràng là ông ấy bị tai biến mạch máu não. Nếu tôi có thể sửa lại lời của Bà Đồng, thì nó không liên quan gì đến tim của ông ấy cả. Ngoài ra tôi xin bổ sung một điểm chưa thấy ai nhắc tới. Khi người ta nhấc ông ấy lên sau cơn tai biến, tôi quan sát thấy bàn tay và tay áo của ông ấy dính đầy bồ hóng.”

“Lại cái ống khói,” Pettis thì thầm nho nhỏ, và Hadley quay mặt về phía tiến sĩ Fell. Rampole sửng sốt khi phát hiện ra vị tiến sĩ không còn ở trong phòng nữa. Một người to lớn đẫy đà như vị tiến sĩ rất khó có thể biến mất một cách bí ẩn được, nhưng rõ ràng ông đã bốc hơi đi đâu đó, và Rampole nghĩ mình biết ông ấy đi đâu.

“Đi theo ông ấy lên tầng trên,” Hadley nói nhanh với anh chàng người Mỹ. “Và đảm bảo rằng ông ta không diễn lại cái trò bí hiểm khỉ gió đó. Giờ, anh Mills…”

Rampole nghe thấy tiếng Hadley tra hỏi nhân chứng trong lúc đi ra hành lang tối tăm. Ngôi nhà rất yên tĩnh – yên tĩnh đến nỗi khi anh bước lên cầu thang, tiếng điện thoại bất thần kêu đinh tai nhức óc ở đại sảnh dưới khiến anh hơi giật mình. Đi qua phòng của Drayman trên tầng hai, anh nghe thấy tiếng thở khàn khàn bên trong, và tiếng ai đó đi nhón chân nhè nhẹ quanh phòng. Qua cánh cửa anh thấy cặp đựng thuốc và mũ của bác sĩ trên ghế. Tầng trên không thắp đèn và tĩnh mịch đến nỗi anh có thể nghe tiếng Annie trả lời điện thoại ở dưới.

Phòng làm việc của Grimaud mờ mờ tối. Dù cho có một chút tuyết rơi, ánh sáng màu đỏ và cam ảm đạm của hoàng hôn vẫn le lói xuyên qua cửa sổ. Ánh sáng làm căn phòng như bật sáng, khiến cho màu của cái khiên huy hiệu ngời lên, lấp lánh trên hai thanh liễu kiếm bắt chéo nhau phía trên lò sưởi, và làm cho những bức tượng bán thân trắng hắt những cái bóng lớn lên tủ sách. Hình thù của Charles Grimaud, vừa trí thức vừa man rợ y hệt căn phòng, dường như vẫn chuyển động và cười khục khục trong phòng, dù cho Charles Grimaud đã chết. Khoảng trống lớn trên tường nơi định treo bức tranh như đang chế nhạo Rampole. Và đứng yên bất động bên cửa sổ trong tấm áo choàng đen là tiến sĩ Fell. Ông đang dựa vào gậy và nhìn chăm chú về phía hoàng hôn.

Tiếng cửa mở cót két không khuấy động nổi ông. Rampole nói, giọng của anh vang vọng khắp phòng: “Có phải ông…?” Tiến sĩ Fell chớp mắt quay lại. Ông thở hắt ra một cách mệt mỏi, hơi thở biến thành khói trong không khí giá buốt. “Sao? Ồ. Có phải tôi đã sao?”

“Tìm được gì đó.”

“Chà, tôi nghĩ mình biết sự thật. Tôi nghĩ mình biết sự thật,” ông trả lời, trầm ngâm một cách ương bướng, “và tối nay tôi có thể chứng minh được nó. Hừm. Hà. Đúng. Cậu thấy đấy, tôi đang đứng đây suy ngẫm xem nên làm gì với sự thật. Đó là vấn đề muôn thuở, chàng trai trẻ, và càng trở nên khó khăn hơn theo năm tháng: khi ta già đi, khi chiếc ghế cũ ngày một thoải mái hơn, và có lẽ khi trái tim con người…” Ông đưa tay lên vuốt trán. “Công lí là gì? Tôi luôn đặt ra câu hỏi đó vào cuối mỗi vụ án mình tham gia. Tôi thấy những khuôn mặt nổi lên, những linh hồn tội lỗi, những cơn ác mộng… Đừng để ý. Chúng ta đi xuống nhé?”

“Nhưng còn lò sưởi thì sao?” Rampole cố nài ép. Anh đi đến chỗ lò sưởi, chăm chú quan sát nó, gõ vào nó, nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì đặc biệt. Một chút bồ hóng rải rác trước lò sưởi, và có một vệt bồ hóng dài ngoằn ngoèo trên bức tường phía trong lò sưởi. “Cái gì thế này? Chẳng lẽ có một lối đi bí mật thật sao?”

“Ồ không. Nó không có vấn đề gì như cậu nghĩ đâu. Chẳng ai trèo lên đó cả. Không,” ông bổ sung, trong lúc Rampole đặt tay lên cái ống khói và mò mẫm. “Tôi e là cậu đang phí thời gian, trên đó không có gì để tìm đâu.”

“Nhưng,” Rampole nói với giọng tuyệt vọng, “nếu như gã Henri…”

“Đúng,” một giọng nói nặng nề vang lên từ phía ngưỡng cửa. “gã Henri.”

Giọng nói này khác với giọng thường ngày của Hadley đến nỗi trong một thoáng không ai nhận ra được ông. Hadley đứng ở bậc cửa, với một tờ giấy nhàu nát trong tay và khuôn mặt khuất trong bóng tối, nhưng trong giọng nói của ông có cái gì đó lặng lẽ thẫn thờ mà Rampole nhận ra là sự tuyệt vọng. Nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại sau lưng, Hadley đứng trong bóng tối và bình tĩnh nói tiếp:

“Đây là lỗi của chúng ta, tôi biết, vì đã để một giả thuyết mê hoặc. Nó khiến chúng ta đi sai hướng – và giò chúng ta phải bắt đầu lại từ con số không. Fell, sáng nay khi ông nói vụ án đã bị đảo ngược hoàn toàn, tôi nghĩ ông không biết nó đúng thế nào đâu. Không chỉ là đảo ngược, mà mọi cơ sử suy đoán của chúng ta đều bị bác bỏ hết. Cái… khốn nạn, bất khả thi…!” Ông nhìn chằm chằm vào tờ giấy cứ như muốn vo tròn lấy nó.” Có một cuộc điện thoại vừa gọi đến từ Sở Cảnh sát. Bên Bucharest đã liên lạc.”

“Tôi e là mình biết ông sắp nói gì,” tiến sĩ Fell gật đầu. “Ông sắp nói rằng gã Henri…”

“Không có gã Henri nào cả,” Hadley nói. “Người thứ ba trong ba anh em nhà Horváth đã chết hơn 30 năm trước.”

Ánh sáng đỏ nhạt nhòa ảm đạm trở nên tối dần. Trong căn phòng làm việc lạnh lẽo và yên tĩnh họ có thể nghe thấy vẳng từ xa tới tiếng rì rầm của thành phố London về đêm đang thức giấc. Bước về phía bàn làm việc lớn, Hadley trải tờ giấy nhàu nát ra để tất cả cùng đọc. Cái bóng của con trâu bằng hoàng ngọc hắt xuống tờ giấy một cách đầy nhạo báng. Bên kia căn phòng họ có thể nhìn thấy những vết rạch trên bức tranh ba ngôi mộ.

“Không thể có sai sót gì được,” Hadley nói tiếp. “Có vẻ như vụ này được nhiều người biết đến. Bức điện tín họ gửi đến rất dài, nhưng tôi đã chép lại những phần quan trọng đúng nguyên văn những gì họ đọc trên điện thoại. Nhìn xem.”

“Không khó để thu nhập thông tin mà phía các ngài mong muốn. Hai người đang làm việc cho tôi trước đây đã từng làm quản ngục cho nhà tù Siebenturmen vào năm 1900, và đã xác nhận thông tin này. Sự thật: Károly Grimaud Horváth, Pierre Fley Horváth và Nicholas Revéi Horváth là con trai của giáo sư Károly Horváth (ở Đại học Klausenburg) và Cecile Fley Horváth (người Pháp), vợ của ông. Vào tháng Một năm 1899, ba anh em bị kết án 20 năm tù khổ sai vì tội cướp ngân hàng Kunar ở Brasso vào tháng mười một năm 1898. Người bảo vệ ngân hàng đã chết vì chấn thương, khối tài sản bị cướp không được tìm thấy và được cho là đã bị giấu kín. Trong dịch bệnh tháng Tám năm 1900, cả ba anh em, với sự trợ giúp của bác sĩ nhà tù, đã liều lĩnh tìm cách trốn thoát bằng cách giả vờ chết và được chôn ở bãi tha ma dành cho người chết bị dịch. J. Lahner và R. Görgei, hai quản ngục quay lại nấm mồ khoảng một tiếng sau để đặt thánh giá gỗ, đã để ý thấy khoảng đất phía trên nấm mồ của Károly Horváth có dấu hiệu bị đào bới. Điều tra cho thấy quan tài đã được mở và bên trong trống rỗng. Đào hai ngôi mộ còn lại, quản ngục phát hiện Pierre Horváth máu me và bất tỉnh, nhưng vẫn còn sống. Nicholas Horváth đã chết vì ngạt thở.

Nicholas đã được mai táng lại sau khi người ta đảm bảo chắc chắn rằng hắn đã chết, còn Pierre bị đưa trở lại vào nhà tù. Vụ lùm xùm đã bị bưng bít, không ai truy lùng kẻ chạy trốn, và không ai phát hiện ra câu chuyện này cho đến cuối chiến tranh. Sau vụ này, Pierre Fley Horváth bị tâm thần. Hắn được trả tự do vào tháng Một năm 1919 sau khi hết hạn tù. Xin đảm bảo với ngài rằng gâ thứ ba đã chết.

Alexander Cuza

Giám đốc Cảnh sát, Bucharest.”

“Đúng rồi,” Hadley nói, khi họ đã đọc xong. “Bức điện tín này khẳng định phần lớn câu chuyện chúng ta đã chắp nối lại, trừ một chi tiết nho nhỏ là kẻ giết người chúng ta đang truy đuổi là một hồn ma. Gã Henri (hay đúng ra là gã Nicholas) không bao giờ ra được khỏi nấm mồ. Và toàn bộ giả thuyết…”

Tiến sĩ Fell gõ nắm tay chầm chậm lên tờ giấy. “Đó là lỗi của tôi, Hadley,” ông thừa nhận. “Sáng nay tôi đã bảo ông rằng suýt nữa tôi đã mắc phải sai lầm lớn nhất đời mình. Tôi đã bị gã Henri làm cho mê muội! Tôi không thể nghĩ đến điều gì khác. Bây giờ ông đã thấy vì sao chúng ta lại biết ít đến thế về người thứ ba trong ba anh em, quá ít để tôi với sự kiêu ngạo đáng nguyền rủa của mình đã đặt tất cả những suy luận hoang đường vào kẻ đó?”

“Chà, thừa nhận sai lầm cũng chẳng giúp ích gì cho chúng ta dâu. Bây giờ làm thế quái nào chúng ta có thể giải thích được những lời điên cuồng của Fley đây? Nợ máu trả bằng máu! Báo thù! Giờ tất cả giả thuyết đều đã bị loại bỏ, chúng ta chẳng có manh mối nào để điều tra nữa. Không một manh mối nào! Và nếu ông loại bỏ động cơ trả thù cả Grimaud và Fley, thì còn lại gì nữa?”

Tiến sĩ Fell cầm cái gậy chỉ trỏ một cách dữ dội. “Ông không thấy sao?” ông gầm lên. “Ồng không thấy cách giải thích cho hai vụ án mạng mà giờ ta phải chấp nhận sao, không thì vào nhà thương điên cho rồi?”

“Ý ông là có kẻ nào đó đã dựng lên toàn bộ sự việc này để khiến nó trông giống như một cuộc trả thù của ai đó? Bây giờ thì,” ngài chánh thanh tra cấp cao nói, “tôi có thể tin vào bất cứ điều gì. Nhưng liệu có cần phải mưu sâu kế hiểm thế không. Làm sao hung thủ thực sự biết được là chúng ta có thể đào sâu vào quá khứ đến thế? Chúng ta sẽ không bao giờ làm thế nếu không có – xin ông thứ lỗi – một vài may mắn. Làm sao hung thủ thực sự có thể biết ta sẽ tìm được mối liên hệ giữa giáo sư Grimaud và một tên tội phạm người Hungary, hay là mối liên hệ giữa ông ta với Fley hoặc với bất kì chi tiết nào khác trong vụ này? Tôi cảm thấy hắn đã giấu quá kĩ hướng điều tra mà hắn muốn lừa chúng ta đi theo.” Ông đi đi lại lại, xoáy nắm đấm tay nọ vào lòng bàn tay kia. “Ngoài ra, càng nghĩ tôi càng thấy khó hiểu! Chúng ta đã có lí do đầy thuyết phục để tin rằng người anh em thứ ba đã giết hai người kia, và càng nghĩ về khả năng đó, tôi càng nghi ngờ việc gã Nicholas đã chết. Grimaud nói đứa em trai thứ ba đã bắn ông ta, và một người đang hấp hối, biết mình đang hấp hối, thì việc quái gì phải nói dối? Hay… dừng lại một chút! Hay ý ông là ông ta muốn nói đến Fley? Ông cho rằng Fley đã đến đây, bắn Grimaud và sau đó một người nào khác đã bắn Fley? Như thế sẽ giải thích được rất nhiều vấn đề…”

“Nhưng,” Rampole nói, “xin thứ lỗi vì đã chen ngang, nhưng nó không thể giải thích được vì sao Fley cứ liên tục nhắc đến người anh em thứ ba! Henri chỉ có thể sống hoặc chết. Nếu hắn đã chết, tại sao cả hai nạn nhân đều nói dối về hắn từ đầu? Nếu hắn thật sự đã chết, thì chắc hẳn hồn ma của hắn phải rất năng động.”

Hadley lắc cặp tài liệu. “Tôi biết. Đó cũng chính là điều khiến tôi băn khoăn! Ta phải tin lời của ai đó, và có vẻ việc tin lời của hai người đã bị hắn bắn thì hợp lí hơn là lời của một bức điện tín có thể đã bị viết sai một cách vô tình hay cố ý. Cứ cho là hắn đã chết thật đi, nhưng biết đâu hung thủ làm ra vẻ như gã em trai đã chết sống lại thì sao?” Ông dừng lại, gật đầu, và nhìn xa xăm ra ngoài cửa sổ.

“Tôi nghĩ chúng ta sắp tiến gần tới sự thật rồi. Như thế sẽ giải thích được hết tất cả những điểm không thống nhất, đúng không? Kẻ sát nhân đóng giả một người mà cả hai anh em kia đều chưa từng nhìn thấy trong gần 30 năm? Và khi các vụ giết người được thực hiện, và chúng ta lần theo hắn – nếu chúng ta làm được như thế – chúng ta sẽ quy nguyên nhân là do trả thù. Thế nào. Fell?”

Tiến sĩ Fell đi cà nhắc quanh bàn với vẻ mặt cau có. “Không tồi, không tồi, ý tưởng đóng giả đó. Nhưng còn động cơ thật sự để giết Grimaud và Fley thì sao?”

“Ý ông là sao?”

“Phải có mối liên hệ nào đó giữa hai vụ giết người chứ? Có nhiều động cư rõ như ban ngày và có cả động cơ ngầm không ai biết đến để một người rắp tâm hại chết Grimaud. Mills hay Dumont hay Burnaby, đúng, bất kì ai cũng có thể giết Grimaud. Ngoài ra, ai cũng có thể giết Fley: nhưng tôi phải chỉ ra là không ai trong số những người thân quen của Grimaud có thể giết Fley. Tại sao một người thân của Grimaud phải giết Fley, nếu ta giả thiết rằng chưa ai trong số họ từng gặp hắn bao giờ? Nếu hai vụ án mạng này đều do một kẻ gây ra, thì mối liên hệ ở đâu? Một giáo sư đáng kính ở Bloomsbury và một gã ảo thuật gia lang thang từng vào tù ra tội. Động cơ nào liên kết hai người này trong đầu của hung thủ, trừ mối liên hệ trong quá khứ?”

“Tôi biết một người có liên hệ với cả hai người đó trong quá khứ,” Hadley nói rõ ràng.

“Ai? Ý ông là bà Dumont?”

“Đúng.”

“Vậy thì ai là người đóng giả gã Henri? Dù ông nghi ngờ ai thì cũng phải loại trừ bà ấy ra. Không, ông bạn ạ. Nghi ngờ Dumont không chỉ là sai lầm, mà còn là phi lí.”

“Tôi không thấy thế. Nghe này, lí do ông nghĩ Dumont không giết Grimaud là vì ông tin rằng bà ta yêu Grimaud. Không biện hộ được, Fell, không biện hộ được đâu! Hãy nhớ là bà ta đã kể câu chuyện cổ tích đó…”

“Cùng với Mills,” tiến sĩ Fell rống lên với một cái liếc mắt mỉa mai. “Ông có nghĩ ra cặp đôi nào cọc cạch hơn để móc ngoặc với nhau lừa bịp cảnh sát với câu chuyện hoang đường của họ không? Có thể bà ấy đeo mặt nạ, ý tôi là mặt nạ theo nghĩa bóng. Có thể Mills cũng đeo mặt nạ. Nhưng việc cả hai cùng đóng kịch, xét trên cách hành xử của họ, thì quá khó xảy ra. Tôi thích cái mặt nạ theo nghĩa đen hơn. Ngoài ra, hãy nhớ rằng nếu có hai hung thủ thì Ernestine Dumont cũng không thể là một trong số chúng được. Tại sao? Bởi trong lúc Fley bị giết, có đến ba người tốt làm chứng cho bà ta: lúc ấy bà ta đang ở cùng chúng ta, trong căn phòng này.” Ông cân nhắc một chút, và vẻ châm biếm lại hiện lên trong mắt. “Hay ông định kéo cả thế hệ thứ hai vào? Rosette là con gái của Grimaud, và ông cho rằng Stuart Mills bí ẩn thật ra là con trai của người anh em đã chết Henri?”

Đang định trả lời thì Hadley khựng lại và chăm chú quan sát tiến sĩ Fell. Ông ngồi xuống góc bàn.

“Tôi biết giọng điệu này rồi. Tôi biết quá rõ,” ông nói với giọng của một người đang thừa nhận rằng một dự cảm không lành đã thành sự thật. “Giọng điệu này là khởi đầu của những trò bí hiểm khỉ gió đó nữa, và giờ thì tôi mất công tranh cãi với ông cũng chẳng được gì. Tại sao ông lại muốn chúng tôi tin vào câu chuyện này đến thế?”

“Thứ nhất,” tiến sĩ Fell nói, “là vì tôi muốn ông đóng đinh vào đầu rằng Mills đã nói sự thật…”

“Ý ông là để sau đó chứng minh rằng anh ta đã nói dối, theo đúng cái trò bí hiểm của ông? Cái trò lừa gạt rẻ tiền của ông với tôi trong vụ Đồng Hồ Giết Người?”

Vị tiến sĩ phớt lờ câu đó bằng một tiếng gừ phật ý. “Và thứ hai, là vì tôi biết hung thủ thật sự là ai.”

“Một người chúng ta đã gặp và nói chuyện?”

“Đúng, chính thế.”

“Và chúng ta đã có cơ hội…?”

Tiến sĩ Fell, nhìn chằm chằm vào cái bàn một lúc với vẻ mặt trống rỗng, dữ tợn, và gần như thương xót.

“Đúng, Chúa giúp tất cả chúng ta,” ông nói, giọng rất kì lạ, “Tôi nghĩ là ông đã có cơ hội. Trong lúc đó, tôi sẽ về nhà…”

“Nhà?”

“Để áp dụng thí nghiệm Gross,” tiến sĩ Fell nói.

Ông quay người, nhưng chưa vội đi ngay. Khi ánh sáng xám xịt đã chuyển sang màu tím, và những cái bóng mờ mịt màu cát bụi đã khỏa lấp cả căn phòng, ông đứng yên một lúc lâu nhìn vào bức tranh đã bị rạch nát dưới những tia sáng cuối ngày, và cả ba cỗ quan tài cuối cùng cũng đều đã có người nằm.