- XIX - Người vô hình
Đêm hôm đó tiến sĩ Fell nhốt mình trong một cái phòng nhỏ ở ngoài thư viện, nơi ông dành cho cái gọi là thí nghiệm khoa học, và bà Fell gọi là “nơi vọc vạch kinh khủng”. Nhưng thích vọc vạch là một trong những nét tính cách tốt đẹp nhất ở con người, nên cả Rampole và Dorothy đều xin được làm phụ tá. Nhưng vị tiến sĩ trông có vẻ quá nghiêm túc và phiền muộn một cách bất thường đến nỗi họ có cái cảm giác khó chịu rằng giờ mà pha trò sẽ rất vô duyên, nên đành thôi không xin nữa. Hadley vẫn không hề mệt mỏi và đã đi kiểm tra chứng cứ ngoại phạm. Trước lúc đi nghỉ, Rampole chỉ còn một câu hỏi duy nhất.
“Tôi biết ông đang cố đọc những lá thư bị cháy đó,” anh nói, “và tôi biết ông nghĩ nó rất quan trọng. Nhưng ông hi vọng sẽ tìm thấy được điều gì?”
“Điều tồi tệ nhất,” tiến sĩ Fell trả lời. “Điều đã có thể biến tôi thành kẻ ngốc đêm qua.”
Và với một cái lắc đầu uể oải, ông đóng cửa lại.
Rampole và Dorothy ngồi ở hai bên lò sưởi nhìn nhau. Tuyết đang quay cuồng bên ngoài, và đây không phải là một đêm thích hợp để ra ngoài chơi. Ban đầu Rampole có ý định mời Mangan đến ăn tối để hàn huyên chuyện cũ, nhưng khi gọi điện, Mangan nói rằng Rosette không có tâm trạng đi đâu cả, và anh ta nên ở lại cùng cô. Bà Fell đang ở nhà thờ, nên hai vợ chồng độc chiếm cả thư viện để bàn luận.
“Kể từ đêm qua,” người chồng bình luận, “anh đã nghe về phương pháp Gross dùng để đọc những lá thư bị cháy. Nhưng có vẻ như không ai biết thực hư thế nào. Hình như là phải kết hợp các hóa chất gì đó nhỉ?”
“Em biết đấy,” Dorothy nói, giọng hoan hỉ. “Chiều nay khi các anh đi điều tra em đã tìm hiểu nó. Và hơn thế nữa, em cá là nó sẽ không có tác dụng dù cho nó đơn giản thế nào. Em dám đánh cược bất cứ thứ gì là nó sẽ không có tác dụng!”
“Em đã đọc sách của Gross à?”
“Vầng, em đọc bằng tiếng Anh. Cũng khá đơn giản. Sách nói thế này. Sách nói rằng bất cứ ai từng ném thư vào lửa đều thấy những dòng chữ trên những mảnh đã cháy thành than hiện lên khá rõ, thường là màu trắng hay xám trên nền đen, nhưng đôi khi màu sắc cũng đảo ngược. Anh có bao giờ để ý không?”
“Chắc là chưa lần nào. Nhưng anh rất ít thấy lò sưởi mở trước khi đến nước Anh. Có thật không?”
Cô nhăn mặt. “Với những hộp giấy bìa cứng có chữ in trên đó thì có, hoặc với hộp bột giặt hay những thứ tương tự như vậy. Nhưng chữ viết tay thông thường… Dù sao thì đây là điều cần phải làm. Phải mua nhiều giấy can trong suốt và gắn nó lên một bảng vẽ. Với mỗi mảnh giấy bị cháy, lấy gôm quét lên trên giấy can, rồi ấn mảnh giấy cháy lên trên nó…”
“Khi nó đang nát như thế? Chẳng phải nó sẽ vụn ra mất sao?”
“Ha! Thủ thuật là ở đó, Gross nói. Anh phải làm mềm chúng trước. Anh phải đặt giấy can lên một cái khung vẽ cao khoảng 5 đến 7 cm. Sau đó anh trải một miếng vải ướt đã được gấp lại nhiều lần lên trên. Như thế mảnh giấy sẽ được đặt trong môi trường ẩm và sẽ phẳng ra. Khi mảnh giấy đã được làm phẳng và giữ cố định, anh cắt giấy can theo hình dạng của từng mảnh giấy. Rồi sau đó anh ghép các mảnh giấy lại trên một tấm kính. Như chơi ghép hình vậy. Tiếp theo, anh ép tấm kính thứ hai lên trên, buộc các góc lại, và soi dưới ánh sáng. Nhung em dám cá là…”
“Chúng ta sẽ thử,” Rampole nói, có vẻ ấn tượng và nóng lòng muốn thứ ý tưởng này.
Thử nghiệm đốt giấy thì không thành công lắm. Đầu tiên, anh lấy một lá thư cũ từ trong túi ra và châm lửa. Mặc dù đã cố hết sức, nhưng lá thư cứ bốc cháy bừng bừng, trở nên rúm ró, trượt ra khỏi tay, và co lại chí còn một nhúm đen bé tí cuộn lại như cái ô. Họ quỳ mọp xuống đất và xem xét kĩ lưỡng từ mọi góc độ, nhưng đều không nhìn thấy chữ nào cả.
Rampole đốt thêm nhiều mảnh giấy nữa, tất cả đều cháy rụi thành tro. Thế là anh nổi cáu lên và đốt tất cả mọi thứ nằm trong tầm với. Và càng cáu thì anh càng tin rằng thủ thuật này có thể thành công nếu anh thực hiện nó đúng cách. Anh cũng thử với chữ đánh máy, anh đánh dòng chữ “Giờ là thời điểm tốt để những người tốt chung tay hỗ trợ đảng” nhiều lần trên máy đánh chữ của tiến sĩ Fell. Giờ thì trên thảm đã đầy những mẩu than.
“Ngoài ra,” anh lập luận, trong khi áp má xuống sàn và nhắm một mắt để nhìn thật kĩ, “những mảnh giấy này đâu có cháy dở… chúng đã thành than rồi. Như thế là không đáp ứng điều kiện đề ra. Đây rồi! Anh có thể thấy chữ “đảng” rõ như ban ngày. Nó nhỏ hơn nhiều so với chữ đánh máy, và có vẻ như nó bị lõm vào, nhưng nó đây rồi. Em có phát hiện được gì từ lá thư viết tay kia không?”
Sự háo hức của Dorothy cũng dâng cao khi cô nhìn thấy được một vài chữ. Cụm từ “Tây phố 11” màu xám nổi bật trên giấy. Mặc dù những mẩu giấy mỏng manh rã ra rất nhiều, nhưng với sự thận trọng của mình, cuối cùng họ cũng đọc ra được những từ “tối thứ bảy”, “quần lót”, “cơn choáng váng sau khi say xỉn”, và “rượu gin”. Rampole đứng dậy với vẻ thỏa mãn.
“Nếu có thể làm phẳng mấy mẩu giấy bằng hơi ẩm thì trò này sẽ có hiệu quả!” anh tuyên bố. “Vấn đề duy nhất là liệu có thể đọc được đủ số từ ngữ trong thư để hiểu được nội dung của nó không thôi. Ngoài ra, chúng ta chỉ là dân nghiệp dư, nếu là Gross thì có thể đọc được tất cả. Nhưng tiến sĩ Fell mong đợi tìm thấy điều gì chứ?”
Đây là chủ đề của cuộc tranh luận kéo dài đến tận đêm khuya.
“Và với vụ án bị đảo ngược hoàn toàn như thế,” Rampole chỉ ra, “thì động cơ là gì? Đó là mấu chốt của toàn bộ vấn đề. Không có động cơ nào để liên hệ Grimaud và Fley với kẻ giết người! Nhân tiện, giả thuyết điên rồ tối qua của em giờ sao rồi, cái giả thuyết rằng kẻ có tội phải là Pettis hoặc Burnaby ấy?”
“Hoặc cô ả tóc vàng có gương mặt kì quặc đó,” cô chỉnh lại anh, nhấn mạnh vào từng từ một. “Theo em thì điều khiến em băn khoăn nhất chính là cái áo khoác đổi màu và biến mất. Nó khiến chúng ta tập trung vào những người trong nhà, đúng không?” Cô tư lự. “Không, em đổi ý rồi. Em không nghĩ Pettis hay Burnaby có liên quan gì đến vụ này. Thậm chí cả cô tóc vàng đó cũng không. Giờ em chắc chắn, chỉ có thể có 2 nghi phạm.”
“Là ai?”
“Drayman hoặc O’Rourke,” cô nói một cách chắc nịch, và bổ sung thêm. “Anh hãy nhớ lấy lời em nói.”
Rampole kiềm chế không phản pháo lại quá mãnh liệt. “Đúng, anh đã nghĩ đến O’Rourke,” anh thừa nhận. “Nhưng em chọn ông ấy chỉ vì hai lí do. Thứ nhất là vì ông ấy là nghệ sĩ nhào lộn, và em cho đó là cách mà ông ấy trốn thoát khỏi ngôi nhà. Nhưng, cho đến giờ theo như anh quan sát, thì việc đó không thể thực hiện nổi. Thứ hai và quan trọng hơn, em chọn ông ấy vì ông ấy dường như không có mối liên hệ nào đến vụ án này, rằng ông ấy chẳng có lí do gì dể có mặt ở đó cả, và đó luôn là một dấu hiệu đáng nghi ngờ. Có phải thế không?”
“Có thể.”
“Đến lượt Drayman… đúng, Drayman có lẽ là người duy nhất có quan hệ với cả Grimaud và Fley trong quá khứ. Đó là điểm rất có lí! Hừm. Ngoài ra, không ai thấy ông ấy cả buổi tối, từ lúc ăn tối đến hơn 11 giờ đêm. Nhưng anh không nghĩ ông ấy có tội. Thế này nhé: hãy lập một thời gian biểu sơ bộ về những sự việc xảy ra đêm qua để chúng ta có thể nhìn nhận rõ ràng hơn. Chúng ta sẽ đưa vào tất cả những gì mình biết, kể từ lúc bắt đầu bữa tối. Các mốc thời gian này chỉ đúng ở mức tương đối, và những chi tiết nhỏ thì ta bắt buộc phải đoán thôi. Chúng ta không biết gì chính xác trừ thời điểm xảy ra vụ giết người và một vài lời khai trước lúc đó, nhưng hãy thử làm xem. Khoảng thời gian trước bữa tối cũng rất mơ hồ. Nhưng cho rằng…”
Anh lấy ra một cái phong bì và viết rất nhanh.
“Khoảng 6 giờ 45, Mangan đến, treo áo lên tủ quần áo ở trong sảnh và thấy một cái áo khoác màu đen treo trong đó.
“Khoảng 6 giờ 48 (cho cô ấy ba phút) Annie từ phòng ăn đi ra, tắt đèn trong tủ quần áo mà Mangan quên tắt, và không nhìn thấy cái áo khoác nào cả.
“Khoảng 6 giờ 55 (mốc thời gian không cụ thể, nhưng ta biết là trước bữa tối) bà Dumont nhìn vào tủ quần áo và nhìn thấy một cái áo khoác màu vàng.”
“Anh viết như thế,” Rampole nói, “với giả thuyết rằng trong khoảng thời gian rất ngắn sau khi Mangan treo áo của mình và đi ra chỗ khác mà vẫn để đèn sáng, bà Dumont không chạy ra xem có gì trong tủ trước khi Annie đi ra tắt đèn.”
Mắt của Dorothy nheo lại. “Đợi đã! Làm sao anh biết được? Ý em là, nếu đèn không bật, làm sao bà ấy thấy cái áo màu vàng được?”
Họ im lặng nhìn nhau một lúc. Rồi Rampole nói:
“Bắt đầu thú vị rồi đây. Và nhân nói đến chuyện đó, bà ấy nhìn vào tủ làm gì? Vấn đề là thế này: nếu sự việc diễn ra theo đúng trình tự được nêu trong thời gian biểu này, thì điều đó là vô lí. Đầu tiên trong tủ có một cái áo đen mà Mangan nhìn thấy. Rồi ai đó đã lấy nó đi, vì lí do gì chúng ta chưa biết, và Annie vào sau không thấy gì cả. Sau đó hắn lại thay cái áo khoác đó vào bằng một cái áo vải tuýt. Nghe có vẻ ổn đấy. Nhưng,” anh hô lên, cầm cái bút chì chỉ trỏ, “nếu ngược lại, thì hoặc là ai đó đã nói dối, hoặc toàn bộ sự việc là phi lí. Trong trường hợp đó thì Mangan đến lúc mấy giờ không còn quan trọng nữa, vì tất cả mọi chuyện chỉ xảy ra trong vài phút hay thậm chí vài giây. Em hiểu không? Boyd đến, treo áo lên, và đi mất. Dumont đi ra, nhìn vào tủ, và đi mất. Ngay sau đó, Annie đến tắt đèn và cũng đi mất. Trong chớp mắt cái áo từ đen biến thành vàng rồi biến mất. Điều đó là không thể xảy ra được.”
“Giỏi lắm!” Dorothy tươi cười nói. “Vậy thì người nào nói dối? Em cho là anh sẽ khăng khăng rằng không phải là bạn của anh…”
“Chắc chắn rồi. Là bà Dumont đó. Anh dám cá với em bất cứ thứ gì!”
“Nhưng bà ấy không có tội. Điều đó đã dược chứng minh. Hơn nữa, em thích bà ấy.”
“Đừng làm anh rối trí,” Rampole khẩn khoản. “Hãy tiếp tục lập thời gian biểu và xem chúng ta có phát hiện được gì thêm không. Ha! Đến đâu rồi nhỉ? Đúng. Bữa tối bắt đầu lúc 7 giờ, vì chúng ta biết nó kết thúc lúc 7 rưỡi. Kể từ đây…
“7 giờ 30: Rosette Grimaud và Mangan sang phòng khách.
“7 giờ 30: Drayman về phòng mình ở tầng trên.
“7 giờ 30: Ernestine Dumont đi đâu không biết, nhưng chắc chắn vẫn ở trong nhà.
“7 giờ 30: Mills di xuống thư viện ở tầng dưới.
“7 giờ 30: Grimaud đi xuống chỗ Mills, bảo anh ta lên nhà lúc 9 giờ 30, vì ông ấy có hẹn lúc đó.
“Chà! Rắc rối rồi đây. Anh định viết là Grimaud đi vào phòng khách và bảo Mangan rằng khách dự kiến sẽ đến lúc 10 giờ. Nhưng thế không được, vì Rosette không biết gì về chuyện đó, và lúc đó cô ấy đang ngồi cùng với Mangan! Vấn đề là, Boyd không nói chính xác là Grimaud đã báo với anh ấy vào lúc nào. Nhưng điều đó không quan trọng – có thể Grimaud đã gọi riêng anh ấy ra chẳng hạn. Tương tự, chúng ta không biết Grimaud nói với bà Dumont khách sẽ đến lúc 9 rưỡi vào lúc nào, có lẽ là trước đó. Trước hay sau không quan trọng lắm.”
“Anh chắc không?” Dorothy vừa hỏi vừa tìm bao thuốc lá. “Hừm! Tiếp tục đi.”
“(Khoảng) 7 giờ 35: Grimaud lên phòng làm việc.
“Từ 7 giờ 35 đến 9 giờ 30: Không có diễn biến gì. Không ai rời khỏi chỗ của mình. Tuyết rơi nặng hạt.
“(Khoảng) 9 giờ 30: Tuyết ngừng rơi.
“(Khoảng) 9 giờ 30: E. Dumont lên nhà để lấy khay cà phê trong phòng làm việc của Grimaud. Grimaud nói là có lẽ tối nay khách sẽ không đến. E. Dumont rời khỏi đó đúng lúc…
“(9 giờ 30) Mills đi lên trên nhà.”
“Anh không nghĩ là có gì đáng chú ý xảy ra trong khoảng thời gian ngắn sau đó. Mills vẫn ở trên nhà, Drayman trong phòng mình, còn Rosette và Boyd ở phòng khách mở đài… Đợi đã! Anh quên mất một chuyện. Trước khi chuông cửa rung lên, Rosette nghe thấy một tiếng thịch ở đâu đó ngoài đường, cứ như là có ai rơi từ trên cao xuống…”
“Sao cô ta nghe được nếu đài vẫn đang mở?”
“Có vẻ như nó không đủ to để… Không, đài mở đủ to chứ. Cái đài om sòm đến nỗi họ hầu như không nghe thấy tiếng của Pettis giả. Nhưng sắp xếp theo thứ tự nhé:
“9 giờ 45: Chuông cửa rung ỉên.
“Từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50: E. Dumont mở cửa, nói chuyện với khách (không nhận ra giọng ai). Bà ấy nhận danh thiếp, đóng cửa, đọc danh thiếp và phát hiện ra nó trống trơn, do dự, và đi lên trên nhà…
“Từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50: Sau khi bà E. Dumont đi lên tầng trên, vị khách lẻn vào bằng cách nào đó, khóa cửa nhốt Rosette và Boyd trong phòng khách, đáp lại lời chào của họ bằng cách giả giọng Pettis…”
“Em không muốn ngắt lời anh liên tục,” Dorothy chen vào. “Nhưng họ có vẻ mất hơi nhiều thời gian để gọi ra hỏi xem ai ở ngoài đó nhỉ? Ý em là, có ai đợi lâu đến thế không? Nếu em đang mong khách đến, em biết mình sẽ kêu lên, ‘Xin chào! Ai đấy?’ ngay khi em nghe thấy tiếng cửa mở.”
“Em định chứng minh điều gì? Không gì cả? Có chắc không? Đừng chi li với cô gái đó thế! Hãy nhớ là họ được báo là khách đến lúc 10 giờ – và em khịt mũi như thế chứng tỏ em có định kiến với cô ta đấy. Hãy tiếp tục nào, vẫn trong khoảng thời gian từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50, sau khi X vào nhà và trước khi hắn vào phòng làm việc của Grimaud:
“Từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50: Khách đi theo E. Dumont lên trên nhà, đi vượt qua bà ấy ở hành lang trên. Hắn tháo mũ và kéo cổ áo xuống, nhưng không tháo mặt nạ. Grimaud ra mở cửa, nhưng không nhận ra khách. Khách nhảy vào trong và đóng sầm cửa lại. (Điều này đã được cả Dumont và Mills chứng thực.)
“Từ 9 giờ 50 đến 10 giờ 10: Mills theo dõi cửa từ cuối hành lang, Dumont cũng làm việc tương tự, nhưng từ đầu cầu thang.
“10 giờ 10: Tiếng súng vang lên.
“Từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 12: Mangan ở phòng khách phát hiện cửa vào sảnh đã bị khóa.
“Từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 12: Ernestine Dumont choáng váng hoặc khó chịu, và đi về phòng mình. (Bổ sung: Drayman vẫn đang ngủ trong phòng, không nghe thấy tiếng súng.)
“Từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 12: Mangan phát hiện cửa ra sảnh đã bị khóa, thử phá cửa nhưng không được. Sau đó anh ấy nhảy qua cửa sổ, đúng lúc…
“10 giờ 12: Bọn anh đến nơi, cửa chính không khóa, bọn anh đi lên văn phòng.
“Từ 10 giờ 12 đến 10 giờ 15: Mở cửa bằng kìm, phát hiện ra Grimaud đã bị bắn.
“Từ 10 giờ 15 đến 10 giờ 20: Điều tra và gọi cấp cứu.
“10 giờ 20: Xe cấp cứu đến đưa Grimaud đi. Rosette đi cùng trên xe. Mangan, theo lệnh của Hadley, xuống tầng gọi cảnh sát.”
“Điều này,” Rampole hài lòng chỉ ra, “chứng tỏ cả Rosette và Boyd hoàn toàn vô tội. Đến lúc này anh không cần đặt mốc thời gian nữa. Nhân viên cứu thương lên trên nhà, bác sĩ khám, Grimaud được đưa vào xe cấp cứu, tất cả những việc đó phải mất ít nhất 5 phút nếu họ đủ nhanh để trượt cáng cứu thương xuống theo lan can cầu thang. Chúa ơi! Khi viết ra thì thấy rõ như ban ngày! Và sẽ mất nhiều thời gian hơn thế để đến nhà dưỡng lão, vậy mà Fley đã bị bắn trên phố Cagliostro vào lúc 10 giờ 25! Rosette đi cùng xe cứu thương. Boyd vẫn ở trong nhà khi xe cứu thương tới, vì anh ấy lên và xuống cùng họ. Đó là chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo.”
“Anh không cần phải nghĩ em mong kết tội gì họ đâu! Nhất là Boyd, dù chưa gặp nhiều nhưng em thấy anh ấy khá tử tế.” Cô cau mày. “Nhưng vẫn có khả năng xe cứu thương đến trước lúc 10 giờ 20.”
Rampole nhún vai. “Nếu thế,” anh chỉ ra, “thì nó phải bay từ phố Guilford tới. Vì mãi đến 10 giờ 15 mới gọi cấp cứu, và họ đến được nhà Grimaud trong có 5 phút cũng là điều thần kì rồi. Không, ta phải loại Boyd và Rosette ra. Ngoài ra, bây giờ anh mới nhớ, cô ấy vẫn ở trong nhà dưỡng lão, có nhân chứng xung quanh, vào lúc cô ấy thấy ánh đèn ở cửa sổ căn hộ của Burnaby lúc 10 rưỡi. Hãy ghi lại những diễn biến còn lại và loại bỏ những nghi phạm khác nếu có thể.
“Từ 10 giờ 20 đến 10 giờ 25: Xe cấp cứu đến và đưa Grimaud đi.
“10 giờ 25: Fley bị bắn ở phố Cagliostro.
“Từ 10 giờ 20 đến (ít nhất) 10 giờ 30: Stuart Mills ở với bọn anh trong văn phòng, trả lời thẩm vấn.
“10 giờ 25: Bà Dumont vào văn phòng.
“10 giờ 30: Rosette, lúc này đang ở nhà dưỡng lão, nhìn thấy ánh đèn trong căn hộ của Burnaby.
“Từ 10 giờ 25 đến 10 giờ 40: Bà Dumont vẫn ở cùng bọn anh trong văn phòng.
“10 giờ 40: Rosette từ nhà dưỡng lão trở về.
“10 giờ 40: Cảnh sát đến theo lệnh của Hadley.”
Rampole ngồi ngả lưng trên ghế đọc lại những dòng chữ nguệch ngoạc, rồi chấm hết một cách bay bướm bên dưới mục cuối cùng.
“Như thế ta không chỉ hoàn thành thời gian biểu về những sự việc đã xảy ra,” anh nói, “mà không nghi ngờ gì nữa đã thêm hai người khác vào danh sách vô tội. Mills và Dumont đã bị loại. Rosette và Boyd đã bị loại. Thế là đã loại dược tất cả những người trong nhà ngoại trừ Drayman.”
“Nhưng,” Dorothy phản kháng, sau khi dừng lại một chút, “như thế mọi việc càng trở nên rối rắm hơn. Còn ý tưởng tuyệt vời của anh về cái áo khoác thì sao? Anh giả thuyết là có ai đó đã nói dối. Chỉ có thể là một trong hai người Boyd Mangan hoặc Ernestine Dumont, và hai người đều được cho là vô tội. Trừ cô gái đó, Annie… nhưng không thể là cô ấy được nhỉ?”
Họ lại nhìn nhau. Rampole cười méo xẹo rồi gấp cái danh sách lại và cho vào túi. Bên ngoài gió mạnh thổi từng cơn, và họ có thể nghe thấy tiếng tiến sĩ Fell đang lục đục trong cái phòng nhỏ của ông ấy phía sau cánh cửa đóng kín.
Hôm sau Rampole dậy muộn, một phần là do kiệt sức và một phần là do thời tiết âm u đến nỗi mãi hơn 10 giờ anh mới mở được mắt. Trời không những tối đến nỗi phải bật đèn mà còn lạnh cóng. Tối hôm qua anh không gặp tiến sĩ Fell lần nào nữa, và khi anh đi xuống ăn sáng ở phòng ăn nhỏ đằng sau, cô hầu gái tỏ ra phẫn nộ khi dọn trứng và thịt xông khói cho anh.
“Tiến sĩ vừa lên nhà để rửa mặt mũi chân tay, thưa ngài,” Vida nói. “Ngài ấy thức cả đêm làm thí nghiệm, và lúc 8 giờ sáng nay tôi phát hiện ra ngài ấy ngủ gật trên ghế trong phòng. Tôi không biết phu nhân Fell sẽ nói gì, quả thực như vậy. Ngài chánh thanh tra cấp cao Hadley cũng vừa đến. Ngài ấy đang ở trong thư viện.”
Hadley, người đang sốt ruột gõ ngón chân vào tấm chắn lò sưởi cứ như cào lên sàn, nôn nóng hỏi han tình hình.
“Cậu đã gặp Fell chưa?” ông hỏi. “Ông ấy có nghiên cứu nhũng là thư đó không? Và nếu có…?”
Rampole kể lại mọi chuyện. “Ông có tin gì mới không?”
“Có, tin rất quan trọng. Cả Pettis và Burnaby đều bị loại. Họ có chứng cứ ngoại phạm vững như bàn thạch.”
Gió rít dọc theo phố Adelphi Terrace, và những cửa sổ cao rung lên bần bật. Hadley tiếp tục cào vào tấm thảm lò sưởi. Ông nói tiếp: “Đêm qua tôi đã gặp ba người bạn chơi bài của Burnaby. Hơn nữa, một người là thẩm phán ở Old Bailey, sẽ rất khó để đưa một người ra tòa nếu có một thẩm phán làm chứng cho sự vô tội của ông ta. Burnaby đã chơi poker vào tối thứ bảy từ 8 giờ đến gần 11 rưỡi. Và sáng nay Betts đã đến nhà hát nơi Pettis nói là đã đến xem kịch đêm đó. Đúng như vậy thật. Một trong những người phục vụ quầy bar ở nhà hát biết mặt ông ta. Có vẻ như hồi thứ hai của vở kịch kết thúc vào lúc 10 giờ 5 phút. Người phục vụ này sẵn sàng thề rằng đã dọn cho Pettis một li whisky và soda trong quán bar vài phút sau đó trong lúc nghỉ giải lao. Nói cách khác, ông ta đang uống rượu vào đúng thời điểm mà Grimaud bị bắn ở cách đó gần một dặm.”
“Tôi cũng lường trước như thế rồi,” Rampole nói, sau một lúc im lặng. “Vậy mà, khi nghe xác nhận… tôi muốn ông xem cái nay.”
Anh đưa cái thời gian biểu đã viết tối qua. Hadley liếc qua nó.
“Ồ, phải. Tôi cũng đã thảo ra một bản của mình. Cái bảng này có vẻ khá hợp lí, nhất là chi tiết liên quan đến cô gái và Mangan, mặc dù chúng ta không thể đưa ra mốc thời gian chính xác. Nhưng tôi nghĩ là nó đúng.” Ông gõ cái phong thư vào lòng bàn tay. “Thu hẹp phạm vi nghi ngờ lại, tôi thừa nhận. Chúng ta sẽ thử với Drayman một lần nữa. Sáng nay tôi đã gọi điện đến nhà Grimaud. Mọi người đều đang xúc động vì thi thể của Grimaud đã được đưa về nhà. Và tôi không thể hỏi Rosette được gì nhiều trừ việc Drayman vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn và vẫn phải dùng morphine. Chúng ta…”
Ông dừng lại khi nghe thấy tiếng bước chân ì ạch và tiếng gậy gõ xuống sàn quen thuộc của tiến sĩ Fell. Có vẻ như vị tiến sĩ đã khựng lại ngoài cửa khi nghe thấy tiếng Hadley. Rồi ông đẩy cửa vào. Ánh mắt của ông không còn sự lấp lánh vui vẻ nữa. Trông ông cũng ủ rũ như thời tiết sáng nay, và cảm giác có điều gì đó tồi tệ sẽ đến làm bầu không khí càng nặng nề.
“Thế nào?” Hadley thúc giục, “ông đã tìm được thứ ông muốn trong những lá thư đó chưa?”
Tiến sĩ Fell mò mẫm trong người tìm cái tẩu đen và châm thuốc. Trước khi trả lời, ông lắc lư bước tới lò sưởi và ném que diêm vào ngọn lửa. Cuối cùng ông cũng cười, nhưng rất nhăn nhó.
“Có, tôi đã tìm thấy điều tôi muốn biết. Hadley, giả thuyết của tôi vào đêm thứ bảy đã hai lần dẫn ông đi sai hướng. Nó sai lầm đến chết người và ngớ ngẩn đến choáng váng, đến nỗi nếu tôi không cứu lấy lòng tự tôn của mình bằng cách tìm ra sự thật hôm qua, thì tôi lẽ ra đã phải chịu hình phạt nặng nề nhất dành cho những kẻ ngu ngốc. Mặc dù vậy, đây không chỉ đơn thuần là lỗi của tôi. Sự tình cờ và hoàn cảnh còn mắc lỗi nặng hơn, và tất cả gộp lại khiến cho một vụ giết người bình thường, xấu xí, không đáng để ý trở thành một câu đố kinh khủng và không thể lí giải nổi. Ồ, tất nhiên kẻ sát nhân cũng rất xảo quyệt nữa, tôi thừa nhận. Nhưng, đúng, tôi đã tìm thấy điều tôi muốn biết.”
“Thì sao? Thế còn nội dung trên những tờ giấy? Trên đó có gì?”
“Chẳng có gì cả,” tiến sĩ Fell nói.
Có gì đó kì quặc trong cách ông từ tốn và nặng nề trả lời câu hỏi.
“Ý ông là,” Hadley hét lên, “thí nghiệm đã thất bại?”
“Không, ý tôi là thí nghiệm đã thành công. Ý tôi là trên những tờ giấy đó chả có gì cả,” giọng tiến sĩ Fell vang lên trầm trầm. “Chẳng có một dòng hay một mẩu chữ viết tay nào cả, chưa nói gì đến những bí mật chết người mà tôi nói có thể tìm thấy vào hôm thứ bảy. Ý tôi là thế đấy. Trừ việc, đúng. Có một vài mẩu giấy nặng hơn, giống như bìa cứng dày, với một hai chữ cái in trên đó.”
“Nhưng tại sao phải đốt trừ khi…?”
“Vì đó không phải là thư từ gì cả. Thế thôi, chúng ta đã sai lầm ở chỗ đó. Ông vẫn chưa nhận ra nó là gì à?… Chà, Hadley, ta nên giải quyết việc này thật nhanh cho nhẹ đầu. Ông muốn gặp tên giết người vô hình, đúng không? Ông muốn gặp kẻ vô hình dễ sợ đã ám ảnh những giấc mơ của chúng ta phải không? Tốt lắm, tôi sẽ giới thiệu hắn cho ông. Có xe chứ? Vậy thì đi thôi. Tôi sẽ cố lấy được một lời tự thú.”
“Từ…?”
“Từ một người trong nhà của Grimaud. Đi nào.” Rampole thấy cái kết đã lờ mờ hiện ra, và bỗng nhiên cảm thấy lo sợ một cách vô cứ.
Hadley phải khởi động cái động cơ gần như đã đóng băng để xe chạy. Họ gặp phải vài chỗ tắc đường, nhưng Hadley thậm chí không chửi thề một lần nào. Và người lặng lẽ nhất lại chính là tiến sĩ Fell.
Tất cả màn cửa của ngôi nhà trên quảng trường Russell đều đã được buông xuống.
Trông nó còn ảm đạm hơn đêm qua, vì cái chết đã vào nhà. Căn nhà yên ắng đến nỗi họ có thể nghe thấy tiếng chuông cửa rung lên khi tiến sĩ Fell nhấn chuông. Một lúc lâu sau, Annie, không đội mũ hay đeo tạp dề, ra mở cửa. Cô trông xanh xao và cáng thẳng, nhưng vẫn bình tĩnh. “Chúng tôi muốn gặp bà Dumont,” tiến sĩ Fell nói. Hadley giật mình quay lại nhìn, mặc dù vẫn tỏ ra điềm tĩnh. Annie dường như nói vọng ra từ trong bóng tối trong sảnh khi cô lùi lại.
“Bà ấy ở với… bà ấy ở trong đó,” cô gái trả lời, và chỉ về phía cửa phòng khách. “Tôi sẽ gọi…” cô nuốt nước bọt.
Tiến sĩ Fell lắc đầu. Ông đi tới nhẹ nhàng một cách đáng ngạc nhiên rồi mở cửa phòng khách.
Những tấm màn cửa màu nâu đã được kéo xuống, và những tấm rèm đăng ten dày làm giảm bớt chút ánh sáng còn lọt qua được. Mặc dù căn phòng trông rộng hơn, tất cả đồ nội thất đã chìm trong bóng tối, chỉ trừ một thứ bằng kim loại đen bóng viền vải satin trắng. Đó là một cỗ quan tài mở. Những ngọn nến mảnh được đốt quanh nó. Ở nơi mình đang đứng, Rampole chỉ thấy chóp mũi của người đã khuất. Nhưng chỉ cần những ngọn nến đó thôi, hay cái mùi hoa và trầm hương thoang thoảng trong không khí, cũng đủ để đưa họ từ London âm u đến những vách đá cheo leo lộng gió giữa núi rừng Hungary: nơi thánh giá vàng bảo vệ con người khỏi quỷ dữ, và vòng tỏi trắng ngăn chặn lũ ma cà rồng đang rình mò.
Vậy mà đó không phải là điều đầu tiên họ để ý đến. Ernestine Dumont ngồi bên quan tài, tay nắm chặt một góc. Ngọn nến dài và mảnh đặt trên cao khiến cho mái tóc đang bạc đi vàng lên, làm dịu đi dáng ngồi co quắp khi rũ vai xuống. Khi bà ta từ từ quay đầu lại họ nhìn thấy mắt của bà đã hõm xuống và mờ đi, mặc dù bà không khóc được. Ngực bà phập phồng. Nhưng trên vai bà lại choàng một tấm khăn màu vàng sặc sỡ có tua dài, đính kim tuyến đỏ và hạt cườm như cháy lên lấp lánh dưới ánh nến. Điều đó càng làm cho khung cảnh thêm man rợ.
Rồi bà ta thấy họ. Hai tay của bà ta bỗng nhiên nắm chặt lấy góc quan tài như muốn che chở cho người đã chết. Bà ta vẫn như một cái bóng, với một tay dang rộng ra, dưới ánh sáng leo lét của những ngọn nến.
“Sẽ tốt cho bà, thưa bà, nếu bà thú nhận,” tiến sĩ Fell nói, rất nhẹ nhàng. “Tin tôi đi, như thế sẽ tốt cho bà.”
Trong một giây, Rampole tưởng như bà Dumont đã ngừng thở. Rồi bà ta phát ra một âm thanh nghe giống tiếng ho khan, trước khi bật cười điên loạn.
“Thú nhận?” bà nói. “Vậy đây là điều các ông nghĩ à, lũ ngốc? Chà, tôi không quan tâm. Thú nhận! Thú nhận tôi đã giết người à?”
“Không,” tiến sĩ Fell nói.
Cái giọng đều đều nhỏ nhẹ của ông tạo nên âm điệu nặng nề trong phòng. Và bây giờ bà ta chằm chằm nhìn ông – lần đầu tiên bà ta chằm chằm nhìn ông với vẻ hoảng sợ khi ông tiến lại gần.
“Không,” tiến sĩ Fell nói. “Bà không phải là kẻ giết người. Để tôi nói cho bà nghe bà thực sự là ai.”
Lúc này ông đứng sừng sững trước mặt bà, che khuất ánh nến, nhưng ông vẫn nói rất nhẹ nhàng.
“Hôm qua, bà thấy đấy, một người tên là O’Rourke đã kể với chúng tôi một số điều. Một trong số đó là: một màn ảo thuật dù ở trong hay ngoài sân khấu, muốn thành công đều cần phải có sự giúp đỡ của một trợ lí. Vụ án này cũng không phải là ngoại lệ. Bà là trợ lí của ảo thuật gia cũng như kẻ giết người.”
“Người vô hình,” Ernestine Dumont nói, và bỗng nhiên phá ra cười điên dại.
“Người vô hình,” tiến sĩ Fell nói, và lặng lẽ quay sang Hadley, “theo đúng nghĩa đen. Cái tên ‘người vô hình’ là một sự chế nhạo đầy mỉa mai và tồi tệ, dù chúng ta không biết điều này, bởi đó chính là sự thật. Đấy chính là thứ ghê sợ, và theo cách nào đó cũng là nỗi ô nhục. Ông có muốn gặp kẻ giết người mà chúng ta đã săn đuổi trong suốt vụ án này không? Kẻ giết người nằm đây này,” tiến sĩ Fell nói, “nhưng Chúa không cho phép chúng ta xét xử hắn nữa rồi.”
Và ông chầm chậm chỉ vào khuôn mặt trắng bệch không còn sự sống với đôi môi mím chặt của tiến sĩ Charles Grimaud.
Đêm hôm đó tiến sĩ Fell nhốt mình trong một cái phòng nhỏ ở ngoài thư viện, nơi ông dành cho cái gọi là thí nghiệm khoa học, và bà Fell gọi là “nơi vọc vạch kinh khủng”. Nhưng thích vọc vạch là một trong những nét tính cách tốt đẹp nhất ở con người, nên cả Rampole và Dorothy đều xin được làm phụ tá. Nhưng vị tiến sĩ trông có vẻ quá nghiêm túc và phiền muộn một cách bất thường đến nỗi họ có cái cảm giác khó chịu rằng giờ mà pha trò sẽ rất vô duyên, nên đành thôi không xin nữa. Hadley vẫn không hề mệt mỏi và đã đi kiểm tra chứng cứ ngoại phạm. Trước lúc đi nghỉ, Rampole chỉ còn một câu hỏi duy nhất.
“Tôi biết ông đang cố đọc những lá thư bị cháy đó,” anh nói, “và tôi biết ông nghĩ nó rất quan trọng. Nhưng ông hi vọng sẽ tìm thấy được điều gì?”
“Điều tồi tệ nhất,” tiến sĩ Fell trả lời. “Điều đã có thể biến tôi thành kẻ ngốc đêm qua.”
Và với một cái lắc đầu uể oải, ông đóng cửa lại.
Rampole và Dorothy ngồi ở hai bên lò sưởi nhìn nhau. Tuyết đang quay cuồng bên ngoài, và đây không phải là một đêm thích hợp để ra ngoài chơi. Ban đầu Rampole có ý định mời Mangan đến ăn tối để hàn huyên chuyện cũ, nhưng khi gọi điện, Mangan nói rằng Rosette không có tâm trạng đi đâu cả, và anh ta nên ở lại cùng cô. Bà Fell đang ở nhà thờ, nên hai vợ chồng độc chiếm cả thư viện để bàn luận.
“Kể từ đêm qua,” người chồng bình luận, “anh đã nghe về phương pháp Gross dùng để đọc những lá thư bị cháy. Nhưng có vẻ như không ai biết thực hư thế nào. Hình như là phải kết hợp các hóa chất gì đó nhỉ?”
“Em biết đấy,” Dorothy nói, giọng hoan hỉ. “Chiều nay khi các anh đi điều tra em đã tìm hiểu nó. Và hơn thế nữa, em cá là nó sẽ không có tác dụng dù cho nó đơn giản thế nào. Em dám đánh cược bất cứ thứ gì là nó sẽ không có tác dụng!”
“Em đã đọc sách của Gross à?”
“Vầng, em đọc bằng tiếng Anh. Cũng khá đơn giản. Sách nói thế này. Sách nói rằng bất cứ ai từng ném thư vào lửa đều thấy những dòng chữ trên những mảnh đã cháy thành than hiện lên khá rõ, thường là màu trắng hay xám trên nền đen, nhưng đôi khi màu sắc cũng đảo ngược. Anh có bao giờ để ý không?”
“Chắc là chưa lần nào. Nhưng anh rất ít thấy lò sưởi mở trước khi đến nước Anh. Có thật không?”
Cô nhăn mặt. “Với những hộp giấy bìa cứng có chữ in trên đó thì có, hoặc với hộp bột giặt hay những thứ tương tự như vậy. Nhưng chữ viết tay thông thường… Dù sao thì đây là điều cần phải làm. Phải mua nhiều giấy can trong suốt và gắn nó lên một bảng vẽ. Với mỗi mảnh giấy bị cháy, lấy gôm quét lên trên giấy can, rồi ấn mảnh giấy cháy lên trên nó…”
“Khi nó đang nát như thế? Chẳng phải nó sẽ vụn ra mất sao?”
“Ha! Thủ thuật là ở đó, Gross nói. Anh phải làm mềm chúng trước. Anh phải đặt giấy can lên một cái khung vẽ cao khoảng 5 đến 7 cm. Sau đó anh trải một miếng vải ướt đã được gấp lại nhiều lần lên trên. Như thế mảnh giấy sẽ được đặt trong môi trường ẩm và sẽ phẳng ra. Khi mảnh giấy đã được làm phẳng và giữ cố định, anh cắt giấy can theo hình dạng của từng mảnh giấy. Rồi sau đó anh ghép các mảnh giấy lại trên một tấm kính. Như chơi ghép hình vậy. Tiếp theo, anh ép tấm kính thứ hai lên trên, buộc các góc lại, và soi dưới ánh sáng. Nhung em dám cá là…”
“Chúng ta sẽ thử,” Rampole nói, có vẻ ấn tượng và nóng lòng muốn thứ ý tưởng này.
Thử nghiệm đốt giấy thì không thành công lắm. Đầu tiên, anh lấy một lá thư cũ từ trong túi ra và châm lửa. Mặc dù đã cố hết sức, nhưng lá thư cứ bốc cháy bừng bừng, trở nên rúm ró, trượt ra khỏi tay, và co lại chí còn một nhúm đen bé tí cuộn lại như cái ô. Họ quỳ mọp xuống đất và xem xét kĩ lưỡng từ mọi góc độ, nhưng đều không nhìn thấy chữ nào cả.
Rampole đốt thêm nhiều mảnh giấy nữa, tất cả đều cháy rụi thành tro. Thế là anh nổi cáu lên và đốt tất cả mọi thứ nằm trong tầm với. Và càng cáu thì anh càng tin rằng thủ thuật này có thể thành công nếu anh thực hiện nó đúng cách. Anh cũng thử với chữ đánh máy, anh đánh dòng chữ “Giờ là thời điểm tốt để những người tốt chung tay hỗ trợ đảng” nhiều lần trên máy đánh chữ của tiến sĩ Fell. Giờ thì trên thảm đã đầy những mẩu than.
“Ngoài ra,” anh lập luận, trong khi áp má xuống sàn và nhắm một mắt để nhìn thật kĩ, “những mảnh giấy này đâu có cháy dở… chúng đã thành than rồi. Như thế là không đáp ứng điều kiện đề ra. Đây rồi! Anh có thể thấy chữ “đảng” rõ như ban ngày. Nó nhỏ hơn nhiều so với chữ đánh máy, và có vẻ như nó bị lõm vào, nhưng nó đây rồi. Em có phát hiện được gì từ lá thư viết tay kia không?”
Sự háo hức của Dorothy cũng dâng cao khi cô nhìn thấy được một vài chữ. Cụm từ “Tây phố 11” màu xám nổi bật trên giấy. Mặc dù những mẩu giấy mỏng manh rã ra rất nhiều, nhưng với sự thận trọng của mình, cuối cùng họ cũng đọc ra được những từ “tối thứ bảy”, “quần lót”, “cơn choáng váng sau khi say xỉn”, và “rượu gin”. Rampole đứng dậy với vẻ thỏa mãn.
“Nếu có thể làm phẳng mấy mẩu giấy bằng hơi ẩm thì trò này sẽ có hiệu quả!” anh tuyên bố. “Vấn đề duy nhất là liệu có thể đọc được đủ số từ ngữ trong thư để hiểu được nội dung của nó không thôi. Ngoài ra, chúng ta chỉ là dân nghiệp dư, nếu là Gross thì có thể đọc được tất cả. Nhưng tiến sĩ Fell mong đợi tìm thấy điều gì chứ?”
Đây là chủ đề của cuộc tranh luận kéo dài đến tận đêm khuya.
“Và với vụ án bị đảo ngược hoàn toàn như thế,” Rampole chỉ ra, “thì động cơ là gì? Đó là mấu chốt của toàn bộ vấn đề. Không có động cơ nào để liên hệ Grimaud và Fley với kẻ giết người! Nhân tiện, giả thuyết điên rồ tối qua của em giờ sao rồi, cái giả thuyết rằng kẻ có tội phải là Pettis hoặc Burnaby ấy?”
“Hoặc cô ả tóc vàng có gương mặt kì quặc đó,” cô chỉnh lại anh, nhấn mạnh vào từng từ một. “Theo em thì điều khiến em băn khoăn nhất chính là cái áo khoác đổi màu và biến mất. Nó khiến chúng ta tập trung vào những người trong nhà, đúng không?” Cô tư lự. “Không, em đổi ý rồi. Em không nghĩ Pettis hay Burnaby có liên quan gì đến vụ này. Thậm chí cả cô tóc vàng đó cũng không. Giờ em chắc chắn, chỉ có thể có 2 nghi phạm.”
“Là ai?”
“Drayman hoặc O’Rourke,” cô nói một cách chắc nịch, và bổ sung thêm. “Anh hãy nhớ lấy lời em nói.”
Rampole kiềm chế không phản pháo lại quá mãnh liệt. “Đúng, anh đã nghĩ đến O’Rourke,” anh thừa nhận. “Nhưng em chọn ông ấy chỉ vì hai lí do. Thứ nhất là vì ông ấy là nghệ sĩ nhào lộn, và em cho đó là cách mà ông ấy trốn thoát khỏi ngôi nhà. Nhưng, cho đến giờ theo như anh quan sát, thì việc đó không thể thực hiện nổi. Thứ hai và quan trọng hơn, em chọn ông ấy vì ông ấy dường như không có mối liên hệ nào đến vụ án này, rằng ông ấy chẳng có lí do gì dể có mặt ở đó cả, và đó luôn là một dấu hiệu đáng nghi ngờ. Có phải thế không?”
“Có thể.”
“Đến lượt Drayman… đúng, Drayman có lẽ là người duy nhất có quan hệ với cả Grimaud và Fley trong quá khứ. Đó là điểm rất có lí! Hừm. Ngoài ra, không ai thấy ông ấy cả buổi tối, từ lúc ăn tối đến hơn 11 giờ đêm. Nhưng anh không nghĩ ông ấy có tội. Thế này nhé: hãy lập một thời gian biểu sơ bộ về những sự việc xảy ra đêm qua để chúng ta có thể nhìn nhận rõ ràng hơn. Chúng ta sẽ đưa vào tất cả những gì mình biết, kể từ lúc bắt đầu bữa tối. Các mốc thời gian này chỉ đúng ở mức tương đối, và những chi tiết nhỏ thì ta bắt buộc phải đoán thôi. Chúng ta không biết gì chính xác trừ thời điểm xảy ra vụ giết người và một vài lời khai trước lúc đó, nhưng hãy thử làm xem. Khoảng thời gian trước bữa tối cũng rất mơ hồ. Nhưng cho rằng…”
Anh lấy ra một cái phong bì và viết rất nhanh.
“Khoảng 6 giờ 45, Mangan đến, treo áo lên tủ quần áo ở trong sảnh và thấy một cái áo khoác màu đen treo trong đó.
“Khoảng 6 giờ 48 (cho cô ấy ba phút) Annie từ phòng ăn đi ra, tắt đèn trong tủ quần áo mà Mangan quên tắt, và không nhìn thấy cái áo khoác nào cả.
“Khoảng 6 giờ 55 (mốc thời gian không cụ thể, nhưng ta biết là trước bữa tối) bà Dumont nhìn vào tủ quần áo và nhìn thấy một cái áo khoác màu vàng.”
“Anh viết như thế,” Rampole nói, “với giả thuyết rằng trong khoảng thời gian rất ngắn sau khi Mangan treo áo của mình và đi ra chỗ khác mà vẫn để đèn sáng, bà Dumont không chạy ra xem có gì trong tủ trước khi Annie đi ra tắt đèn.”
Mắt của Dorothy nheo lại. “Đợi đã! Làm sao anh biết được? Ý em là, nếu đèn không bật, làm sao bà ấy thấy cái áo màu vàng được?”
Họ im lặng nhìn nhau một lúc. Rồi Rampole nói:
“Bắt đầu thú vị rồi đây. Và nhân nói đến chuyện đó, bà ấy nhìn vào tủ làm gì? Vấn đề là thế này: nếu sự việc diễn ra theo đúng trình tự được nêu trong thời gian biểu này, thì điều đó là vô lí. Đầu tiên trong tủ có một cái áo đen mà Mangan nhìn thấy. Rồi ai đó đã lấy nó đi, vì lí do gì chúng ta chưa biết, và Annie vào sau không thấy gì cả. Sau đó hắn lại thay cái áo khoác đó vào bằng một cái áo vải tuýt. Nghe có vẻ ổn đấy. Nhưng,” anh hô lên, cầm cái bút chì chỉ trỏ, “nếu ngược lại, thì hoặc là ai đó đã nói dối, hoặc toàn bộ sự việc là phi lí. Trong trường hợp đó thì Mangan đến lúc mấy giờ không còn quan trọng nữa, vì tất cả mọi chuyện chỉ xảy ra trong vài phút hay thậm chí vài giây. Em hiểu không? Boyd đến, treo áo lên, và đi mất. Dumont đi ra, nhìn vào tủ, và đi mất. Ngay sau đó, Annie đến tắt đèn và cũng đi mất. Trong chớp mắt cái áo từ đen biến thành vàng rồi biến mất. Điều đó là không thể xảy ra được.”
“Giỏi lắm!” Dorothy tươi cười nói. “Vậy thì người nào nói dối? Em cho là anh sẽ khăng khăng rằng không phải là bạn của anh…”
“Chắc chắn rồi. Là bà Dumont đó. Anh dám cá với em bất cứ thứ gì!”
“Nhưng bà ấy không có tội. Điều đó đã dược chứng minh. Hơn nữa, em thích bà ấy.”
“Đừng làm anh rối trí,” Rampole khẩn khoản. “Hãy tiếp tục lập thời gian biểu và xem chúng ta có phát hiện được gì thêm không. Ha! Đến đâu rồi nhỉ? Đúng. Bữa tối bắt đầu lúc 7 giờ, vì chúng ta biết nó kết thúc lúc 7 rưỡi. Kể từ đây…
“7 giờ 30: Rosette Grimaud và Mangan sang phòng khách.
“7 giờ 30: Drayman về phòng mình ở tầng trên.
“7 giờ 30: Ernestine Dumont đi đâu không biết, nhưng chắc chắn vẫn ở trong nhà.
“7 giờ 30: Mills di xuống thư viện ở tầng dưới.
“7 giờ 30: Grimaud đi xuống chỗ Mills, bảo anh ta lên nhà lúc 9 giờ 30, vì ông ấy có hẹn lúc đó.
“Chà! Rắc rối rồi đây. Anh định viết là Grimaud đi vào phòng khách và bảo Mangan rằng khách dự kiến sẽ đến lúc 10 giờ. Nhưng thế không được, vì Rosette không biết gì về chuyện đó, và lúc đó cô ấy đang ngồi cùng với Mangan! Vấn đề là, Boyd không nói chính xác là Grimaud đã báo với anh ấy vào lúc nào. Nhưng điều đó không quan trọng – có thể Grimaud đã gọi riêng anh ấy ra chẳng hạn. Tương tự, chúng ta không biết Grimaud nói với bà Dumont khách sẽ đến lúc 9 rưỡi vào lúc nào, có lẽ là trước đó. Trước hay sau không quan trọng lắm.”
“Anh chắc không?” Dorothy vừa hỏi vừa tìm bao thuốc lá. “Hừm! Tiếp tục đi.”
“(Khoảng) 7 giờ 35: Grimaud lên phòng làm việc.
“Từ 7 giờ 35 đến 9 giờ 30: Không có diễn biến gì. Không ai rời khỏi chỗ của mình. Tuyết rơi nặng hạt.
“(Khoảng) 9 giờ 30: Tuyết ngừng rơi.
“(Khoảng) 9 giờ 30: E. Dumont lên nhà để lấy khay cà phê trong phòng làm việc của Grimaud. Grimaud nói là có lẽ tối nay khách sẽ không đến. E. Dumont rời khỏi đó đúng lúc…
“(9 giờ 30) Mills đi lên trên nhà.”
“Anh không nghĩ là có gì đáng chú ý xảy ra trong khoảng thời gian ngắn sau đó. Mills vẫn ở trên nhà, Drayman trong phòng mình, còn Rosette và Boyd ở phòng khách mở đài… Đợi đã! Anh quên mất một chuyện. Trước khi chuông cửa rung lên, Rosette nghe thấy một tiếng thịch ở đâu đó ngoài đường, cứ như là có ai rơi từ trên cao xuống…”
“Sao cô ta nghe được nếu đài vẫn đang mở?”
“Có vẻ như nó không đủ to để… Không, đài mở đủ to chứ. Cái đài om sòm đến nỗi họ hầu như không nghe thấy tiếng của Pettis giả. Nhưng sắp xếp theo thứ tự nhé:
“9 giờ 45: Chuông cửa rung ỉên.
“Từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50: E. Dumont mở cửa, nói chuyện với khách (không nhận ra giọng ai). Bà ấy nhận danh thiếp, đóng cửa, đọc danh thiếp và phát hiện ra nó trống trơn, do dự, và đi lên trên nhà…
“Từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50: Sau khi bà E. Dumont đi lên tầng trên, vị khách lẻn vào bằng cách nào đó, khóa cửa nhốt Rosette và Boyd trong phòng khách, đáp lại lời chào của họ bằng cách giả giọng Pettis…”
“Em không muốn ngắt lời anh liên tục,” Dorothy chen vào. “Nhưng họ có vẻ mất hơi nhiều thời gian để gọi ra hỏi xem ai ở ngoài đó nhỉ? Ý em là, có ai đợi lâu đến thế không? Nếu em đang mong khách đến, em biết mình sẽ kêu lên, ‘Xin chào! Ai đấy?’ ngay khi em nghe thấy tiếng cửa mở.”
“Em định chứng minh điều gì? Không gì cả? Có chắc không? Đừng chi li với cô gái đó thế! Hãy nhớ là họ được báo là khách đến lúc 10 giờ – và em khịt mũi như thế chứng tỏ em có định kiến với cô ta đấy. Hãy tiếp tục nào, vẫn trong khoảng thời gian từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50, sau khi X vào nhà và trước khi hắn vào phòng làm việc của Grimaud:
“Từ 9 giờ 45 đến 9 giờ 50: Khách đi theo E. Dumont lên trên nhà, đi vượt qua bà ấy ở hành lang trên. Hắn tháo mũ và kéo cổ áo xuống, nhưng không tháo mặt nạ. Grimaud ra mở cửa, nhưng không nhận ra khách. Khách nhảy vào trong và đóng sầm cửa lại. (Điều này đã được cả Dumont và Mills chứng thực.)
“Từ 9 giờ 50 đến 10 giờ 10: Mills theo dõi cửa từ cuối hành lang, Dumont cũng làm việc tương tự, nhưng từ đầu cầu thang.
“10 giờ 10: Tiếng súng vang lên.
“Từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 12: Mangan ở phòng khách phát hiện cửa vào sảnh đã bị khóa.
“Từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 12: Ernestine Dumont choáng váng hoặc khó chịu, và đi về phòng mình. (Bổ sung: Drayman vẫn đang ngủ trong phòng, không nghe thấy tiếng súng.)
“Từ 10 giờ 10 đến 10 giờ 12: Mangan phát hiện cửa ra sảnh đã bị khóa, thử phá cửa nhưng không được. Sau đó anh ấy nhảy qua cửa sổ, đúng lúc…
“10 giờ 12: Bọn anh đến nơi, cửa chính không khóa, bọn anh đi lên văn phòng.
“Từ 10 giờ 12 đến 10 giờ 15: Mở cửa bằng kìm, phát hiện ra Grimaud đã bị bắn.
“Từ 10 giờ 15 đến 10 giờ 20: Điều tra và gọi cấp cứu.
“10 giờ 20: Xe cấp cứu đến đưa Grimaud đi. Rosette đi cùng trên xe. Mangan, theo lệnh của Hadley, xuống tầng gọi cảnh sát.”
“Điều này,” Rampole hài lòng chỉ ra, “chứng tỏ cả Rosette và Boyd hoàn toàn vô tội. Đến lúc này anh không cần đặt mốc thời gian nữa. Nhân viên cứu thương lên trên nhà, bác sĩ khám, Grimaud được đưa vào xe cấp cứu, tất cả những việc đó phải mất ít nhất 5 phút nếu họ đủ nhanh để trượt cáng cứu thương xuống theo lan can cầu thang. Chúa ơi! Khi viết ra thì thấy rõ như ban ngày! Và sẽ mất nhiều thời gian hơn thế để đến nhà dưỡng lão, vậy mà Fley đã bị bắn trên phố Cagliostro vào lúc 10 giờ 25! Rosette đi cùng xe cứu thương. Boyd vẫn ở trong nhà khi xe cứu thương tới, vì anh ấy lên và xuống cùng họ. Đó là chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo.”
“Anh không cần phải nghĩ em mong kết tội gì họ đâu! Nhất là Boyd, dù chưa gặp nhiều nhưng em thấy anh ấy khá tử tế.” Cô cau mày. “Nhưng vẫn có khả năng xe cứu thương đến trước lúc 10 giờ 20.”
Rampole nhún vai. “Nếu thế,” anh chỉ ra, “thì nó phải bay từ phố Guilford tới. Vì mãi đến 10 giờ 15 mới gọi cấp cứu, và họ đến được nhà Grimaud trong có 5 phút cũng là điều thần kì rồi. Không, ta phải loại Boyd và Rosette ra. Ngoài ra, bây giờ anh mới nhớ, cô ấy vẫn ở trong nhà dưỡng lão, có nhân chứng xung quanh, vào lúc cô ấy thấy ánh đèn ở cửa sổ căn hộ của Burnaby lúc 10 rưỡi. Hãy ghi lại những diễn biến còn lại và loại bỏ những nghi phạm khác nếu có thể.
“Từ 10 giờ 20 đến 10 giờ 25: Xe cấp cứu đến và đưa Grimaud đi.
“10 giờ 25: Fley bị bắn ở phố Cagliostro.
“Từ 10 giờ 20 đến (ít nhất) 10 giờ 30: Stuart Mills ở với bọn anh trong văn phòng, trả lời thẩm vấn.
“10 giờ 25: Bà Dumont vào văn phòng.
“10 giờ 30: Rosette, lúc này đang ở nhà dưỡng lão, nhìn thấy ánh đèn trong căn hộ của Burnaby.
“Từ 10 giờ 25 đến 10 giờ 40: Bà Dumont vẫn ở cùng bọn anh trong văn phòng.
“10 giờ 40: Rosette từ nhà dưỡng lão trở về.
“10 giờ 40: Cảnh sát đến theo lệnh của Hadley.”
Rampole ngồi ngả lưng trên ghế đọc lại những dòng chữ nguệch ngoạc, rồi chấm hết một cách bay bướm bên dưới mục cuối cùng.
“Như thế ta không chỉ hoàn thành thời gian biểu về những sự việc đã xảy ra,” anh nói, “mà không nghi ngờ gì nữa đã thêm hai người khác vào danh sách vô tội. Mills và Dumont đã bị loại. Rosette và Boyd đã bị loại. Thế là đã loại dược tất cả những người trong nhà ngoại trừ Drayman.”
“Nhưng,” Dorothy phản kháng, sau khi dừng lại một chút, “như thế mọi việc càng trở nên rối rắm hơn. Còn ý tưởng tuyệt vời của anh về cái áo khoác thì sao? Anh giả thuyết là có ai đó đã nói dối. Chỉ có thể là một trong hai người Boyd Mangan hoặc Ernestine Dumont, và hai người đều được cho là vô tội. Trừ cô gái đó, Annie… nhưng không thể là cô ấy được nhỉ?”
Họ lại nhìn nhau. Rampole cười méo xẹo rồi gấp cái danh sách lại và cho vào túi. Bên ngoài gió mạnh thổi từng cơn, và họ có thể nghe thấy tiếng tiến sĩ Fell đang lục đục trong cái phòng nhỏ của ông ấy phía sau cánh cửa đóng kín.
Hôm sau Rampole dậy muộn, một phần là do kiệt sức và một phần là do thời tiết âm u đến nỗi mãi hơn 10 giờ anh mới mở được mắt. Trời không những tối đến nỗi phải bật đèn mà còn lạnh cóng. Tối hôm qua anh không gặp tiến sĩ Fell lần nào nữa, và khi anh đi xuống ăn sáng ở phòng ăn nhỏ đằng sau, cô hầu gái tỏ ra phẫn nộ khi dọn trứng và thịt xông khói cho anh.
“Tiến sĩ vừa lên nhà để rửa mặt mũi chân tay, thưa ngài,” Vida nói. “Ngài ấy thức cả đêm làm thí nghiệm, và lúc 8 giờ sáng nay tôi phát hiện ra ngài ấy ngủ gật trên ghế trong phòng. Tôi không biết phu nhân Fell sẽ nói gì, quả thực như vậy. Ngài chánh thanh tra cấp cao Hadley cũng vừa đến. Ngài ấy đang ở trong thư viện.”
Hadley, người đang sốt ruột gõ ngón chân vào tấm chắn lò sưởi cứ như cào lên sàn, nôn nóng hỏi han tình hình.
“Cậu đã gặp Fell chưa?” ông hỏi. “Ông ấy có nghiên cứu nhũng là thư đó không? Và nếu có…?”
Rampole kể lại mọi chuyện. “Ông có tin gì mới không?”
“Có, tin rất quan trọng. Cả Pettis và Burnaby đều bị loại. Họ có chứng cứ ngoại phạm vững như bàn thạch.”
Gió rít dọc theo phố Adelphi Terrace, và những cửa sổ cao rung lên bần bật. Hadley tiếp tục cào vào tấm thảm lò sưởi. Ông nói tiếp: “Đêm qua tôi đã gặp ba người bạn chơi bài của Burnaby. Hơn nữa, một người là thẩm phán ở Old Bailey, sẽ rất khó để đưa một người ra tòa nếu có một thẩm phán làm chứng cho sự vô tội của ông ta. Burnaby đã chơi poker vào tối thứ bảy từ 8 giờ đến gần 11 rưỡi. Và sáng nay Betts đã đến nhà hát nơi Pettis nói là đã đến xem kịch đêm đó. Đúng như vậy thật. Một trong những người phục vụ quầy bar ở nhà hát biết mặt ông ta. Có vẻ như hồi thứ hai của vở kịch kết thúc vào lúc 10 giờ 5 phút. Người phục vụ này sẵn sàng thề rằng đã dọn cho Pettis một li whisky và soda trong quán bar vài phút sau đó trong lúc nghỉ giải lao. Nói cách khác, ông ta đang uống rượu vào đúng thời điểm mà Grimaud bị bắn ở cách đó gần một dặm.”
“Tôi cũng lường trước như thế rồi,” Rampole nói, sau một lúc im lặng. “Vậy mà, khi nghe xác nhận… tôi muốn ông xem cái nay.”
Anh đưa cái thời gian biểu đã viết tối qua. Hadley liếc qua nó.
“Ồ, phải. Tôi cũng đã thảo ra một bản của mình. Cái bảng này có vẻ khá hợp lí, nhất là chi tiết liên quan đến cô gái và Mangan, mặc dù chúng ta không thể đưa ra mốc thời gian chính xác. Nhưng tôi nghĩ là nó đúng.” Ông gõ cái phong thư vào lòng bàn tay. “Thu hẹp phạm vi nghi ngờ lại, tôi thừa nhận. Chúng ta sẽ thử với Drayman một lần nữa. Sáng nay tôi đã gọi điện đến nhà Grimaud. Mọi người đều đang xúc động vì thi thể của Grimaud đã được đưa về nhà. Và tôi không thể hỏi Rosette được gì nhiều trừ việc Drayman vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn và vẫn phải dùng morphine. Chúng ta…”
Ông dừng lại khi nghe thấy tiếng bước chân ì ạch và tiếng gậy gõ xuống sàn quen thuộc của tiến sĩ Fell. Có vẻ như vị tiến sĩ đã khựng lại ngoài cửa khi nghe thấy tiếng Hadley. Rồi ông đẩy cửa vào. Ánh mắt của ông không còn sự lấp lánh vui vẻ nữa. Trông ông cũng ủ rũ như thời tiết sáng nay, và cảm giác có điều gì đó tồi tệ sẽ đến làm bầu không khí càng nặng nề.
“Thế nào?” Hadley thúc giục, “ông đã tìm được thứ ông muốn trong những lá thư đó chưa?”
Tiến sĩ Fell mò mẫm trong người tìm cái tẩu đen và châm thuốc. Trước khi trả lời, ông lắc lư bước tới lò sưởi và ném que diêm vào ngọn lửa. Cuối cùng ông cũng cười, nhưng rất nhăn nhó.
“Có, tôi đã tìm thấy điều tôi muốn biết. Hadley, giả thuyết của tôi vào đêm thứ bảy đã hai lần dẫn ông đi sai hướng. Nó sai lầm đến chết người và ngớ ngẩn đến choáng váng, đến nỗi nếu tôi không cứu lấy lòng tự tôn của mình bằng cách tìm ra sự thật hôm qua, thì tôi lẽ ra đã phải chịu hình phạt nặng nề nhất dành cho những kẻ ngu ng?