← Quay lại trang sách

Chương 8

Năm ba mươi tuổi tôi cưới Alberta Small và bắt đầu theo học Đại học Brooklyn để lấy bằng thạc sĩ văn chương Anh, học vị sẽ giúp tôi thăng tiến trong đời, được nể trọng và tăng đồng lương thầy giáo còm cõi của tôi.

Cho luận án thạc sĩ tôi chọn đề tài về Oliver St. John Gogarty, bác sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch, nhà văn, một đầu óc lớn, vận động viên thể thao, nhà uống rượu vô địch ở Oxford, nhà viết hồi ký, thành viên ban giám đại học, bạn (một thời gian ngắn) của James Joyce, là người đã biến ông thành nổi tiếng khắp thế giới và bất tử qua nhân vật Buck Mulligan trong tác phẩm Ulysses .

Đề tài của tôi là “Oliver St.John Gogarthy: một nghiên cứu mang tính phê phán”. Nhưng chẳng có phê phán gì cả. Tôi chọn Gogarthy vì thán phục ông. Tôi nghĩ nếu mình đọc và viết về ông, chắc chắn một chút mê hoặc, tài năng và sở học của ông sẽ nhuốm sang tôi. Có thể tôi sẽ nhiễm được tí chút nghị lực, sự nhạy bén và vẻ hoa mỹ của ông. Ông là một người Dublin độc đáo và tôi hy vọng có thể trở thành một người Ireland phóng khoáng, uống rượu như hũ chìm và có tâm hồn thi sĩ như ông. Tôi sẽ trở thành một con người New York độc đáo. Tôi sẽ làm cho mọi bàn nhậu cười ồ, sẽ chinh phục được các quán rượu ở Greenwich Village bằng lời ca tiếng hát và kể chuyện dí dỏm. Trong quán Đầu Sư tử tôi uống tràn Whisky để nói năng cho hoạt bát, sinh động. Mấy tay phục vụ quầy khuyên tôi từ từ thôi. Bạn bè bảo rằng họ chẳng hiểu một chữ nào từ mồm tôi cả. Họ khiêng tôi ra khỏi quán, tống vào taxi, trả tiền rồi bảo tài xế cứ lái một mạch tới trước cửa nhà tôi ở Brooklyn. Tôi cố bắt chước Gogarty dí dỏm với Alberta, nhưng nàng bảo lạy Chúa anh nên im đi. Thế là mọi cố gắng bắt chước Gogarty chỉ còn là một dư vị khổ sở đến nỗi tôi quỳ ngay xuống, xin Chúa nhận tôi về với Người phứt cho xong.

Giáo sư Julian Kaye chấp nhận luận văn của tôi, “dù văn phong đơn điệu và một sự trang nghiêm mâu thuẫn với đối tượng, là Gogarty”.

Giáo sư ưa thích đầu tiên của tôi ở Đại học Brooklyn là ông Morton Irving Seiden, chuyên gia về Yeats [69] . Ông đeo nơ và có thể thao thao giảng liền ba tiếng đồng hồ về biên niên của dân Anglo-Saxon [70] hay Chaucer [71] hoặc Matthew Arnold [72] , mọi thứ được xếp đặt lớp lang trật tự trong đầu ông. Trong lớp ông chỉ giảng bài, đổ kiến thức vào những cái đầu trống rỗng, còn ai có gì muốn hỏi thì đến gặp ông trong văn phòng. Ông không muốn phí phạm thì giờ trong lúc lên lớp.

Ông đã làm luận án tiến sĩ ở Đại học Columbia về Yeats và đã trước tác quyển Paradox of Hate – Nghịch lý của lòng thù hận – trong đó ông biện luận rằng nỗi sợ trước bản năng tình dục của người Do Thái là một trong những lý do chính đáng Do Thái ở Đức.

Tôi theo học ông một năm ròng về lịch sử văn học Anh, từ Beowulf tới Virginia Woolf, nghĩa là từ tráng sĩ tới “chán” sĩ [73] . Qua đó ta có thể thấy ông muốn sinh viên hiểu văn học Anh đã phát triển và cùng với đó là ngôn ngữ như thế nào. Ông đòi hỏi chúng tôi phải thông hiểu văn học như một thầy thuốc rành rẽ cơ thể con người.

Mọi điều ông giảng đều mới đối với tôi, ngốc nghếch và ít học kể cũng là một lợi điểm. Tôi có biết chút này chút kia của văn học Anh. Song thật vô cùng hào hứng khi nghe ông Seiden giảng, thao thao bất tuyệt từ nhà văn này tới nhà văn nọ, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, Christopher Marlowe [74] , John Dryden [75] , về thời Khai sáng, thời Lãng mạn, thời Victoria [76] , tới tận thế kỷ XX, ông luôn trích đọc những đoạn văn để thuyết minh về sự phát triển của tiếng Anh từ thời Anglo-Saxon qua thời trung cổ đến thời hiện đại.

Sau khi nghe những bài giảng này tôi lấy làm tội nghiệp cho những người trong xe điện ngầm vì họ không được biết những điều tôi biết và tôi hăm hở trở lại lớp của tôi để giảng cho học trò về tiếng Anh đã thay đổi như thế nào qua bao thế kỷ. Tôi thử dẫn chứng bằng cách đọc vài đoạn trong truyện Beowulf nhưng chúng bảo, Không phải, đó đâu phải là tiếng Anh. Thầy tưởng chúng em ngốc ư?

Tôi thử bắt chước phong thái tao nhã của ô Seiden trước đám học trò thợ thiếc, thợ điện, thợ sửa xe của mình, nhưng chúng nhìn tôi như thể tôi mất trí.

Các giáo sư tha hồ đứng trên bục giảng thao thao bất tuyệt không sợ bị phản bác hay lý sự cùn. Thật là một cuộc sống đáng ganh tị. Họ chẳng bao giờ phải bảo ai ngồi xuống, mở vở ra, hay là, không, em không được phép đi ra ngoài. Họ không bao giờ phải can thiện vào những vụ ẩu đả. Bài làm phải nộp đúng thời hạn. Không viện cớ gì hết, thưa các anh các chị, đây không phải là trường trung học. Nếu anh chị nào thấy khó theo nổi thì nên bỏ ngang khóa học này. Viện cớ này cớ nọ là để cho con nít.

Tôi ganh tị với ông Seiden và các giáo sư đại học nói chung, vì mỗi tuần họ chỉ dạy bốn hay năm tiết thôi. Tôi có tới hai mươi lăm tiết. Họ sẵn uy quyền tuyệt đối. Còn tôi phải cố gắng mới có được. Tôi nói với nhà tôi, Tại sao tôi lại phải đánh vật với đám thiếu niên chán học trong khi có thể thoải mái sống đời một giáo sư đại học? Chẳng phải sướng hơn sao khi ta thờ ơ bước vào giảng đường, gật đầu chào đám sinh viên có mặt, giảng bài cho bức tường sau lưng hay cái cây ngoài cửa sổ, nguệch ngoạc lên bảng vài ba ghi chú không ai đọc nổi, ra bài làm cho lần tới, các anh chị hãy viết bảy trăm từ về ý nghĩa tượng trưng của đồng tiền trong tác phẩm Bleak House (Ngôi nhà Hoang vắng) của Dickens. Không phàn nàn, không phản đối, không viện cớ này cớ nọ.

Alberta bảo, Thôi, anh đừng than thở nữa. Chịu khó đi học thêm kiếm cái bằng tiến sĩ thì anh có thể trở thành một ông giáo sư đại học nhỏ bé dễ thương đấy. Tha hồ mà tán nhăng tán cuội các nữ sinh viên.

Khi Alberta thi lấy bằng sư phạm, nàng gặp R’lene Dahlberg và mời cô tới nhà ăn tối. R’lene hất văng giày rồi ngồi trên đi văng, vừa uống rượu vang vừa kể với chúng tôi về cuộc đời cô và anh chồng tên Edward. Họ sống ở Majorca [77] nhưng thỉnh thoảng cô vẫn quay về Mỹ dạy học kiếm tiền để hai vợ chồng có thể tiếp tục sống ở Tây Ban Nha. Cô bảo rằng Edward khá nổi tiếng, tôi không nói gì vì tôi nhớ tình cờ thấy tên anh ta có mỗi một lần trong một bài luận văn ngắn của Edmund Wilson về các nhà văn vô sản. R’lene nói rằng ít tháng nữa anh ta sẽ từ Tây Ban Nha trở lại đây và sẽ mời chúng tôi tới chơi.

Ngay từ phút đầu tiên gặp Edward Dahlberg tôi thật không ưa nổi hắn, song cũng có thể chỉ vì tôi hồi hộp được gặp một con người của chữ nghĩa, bước đầu được làm quen với giới giao du của văn học Mỹ.

Tối hôm ấy, khi Alberta Dahlberg tôi thật không ưa nổi hắn, song cũng có thể chỉ vì tôi hồi hộp được gặp một con người của chữ nghĩa, bước đầu được làm quen với giới giao du của văn học Mỹ.

Tối hôm ấy, khi Alberta và tôi đến chơi, hắn ngồi trong một cái ghế cao có tay dựa ở một góc bên cửa sổ đối diện những kẻ ái mộ đứng quây thành hình bán nguyệt. Họ đang trò chuyện về sách. Họ hỏi hắn về nhiều văn sĩ khác nhau. Hắn xua tay, trừ hắn ra, hắn coi thường mọi văn sĩ của thế kỷ XX: Hemingway viết “lảm nhảm lời của con nít”, Faulkner “tầm phào”. Ulysses của Joyce là “một sự lê bước trong bãi phân của Dublin”. Hắn bảo mọi người nên về nhà đọc những tác giả tôi chưa từng nghe: Seutonius, Anaxagoras, Sir Thomas Brown, Eusebius, the Desert Fathers (các vị ẩn tu sa mạc), Flavius Josephus, Randolph Bourne.

R’lene giới thiệu tôi. Đây là Frank McCourt từ Ireland. Anh ấy dạy tiếng Anh ở trường trung học.

Tôi chìa tay nhưng hắn không thèm bắt. Ô, vẫn còn là cậu học trò trung học, phỏng?

Tôi không biết phải trả lời sao. Tôi muốn tống cho cái gã khốn kiếp thô lỗ ấy một cú, nhưng lại chẳng làm gì cả. Hắn cười hỏi R’lene, Bạn em dạy tiếng Anh cho người câm điếc hay sao? Trong thế giới của tay Dahlberg này dạy học là việc dành riêng cho đàn bà.

Tôi về lại ghế ngồi mà đầu óc hoang mang.

Dahlberg có cái sọ to tướng với mấy lọn tóc muối tiêu chải vắt ngang cái đầu hói. Một mắt nằm chết trong hốc, con mắt kia đảo như bi, làm việc cho cả hai con mắt luôn. Hắn có cái mũi to và bộ ria khêu gợi, khi hắn cười thì hàm răng giả sáng lóe lên, lách cách.

Hắn chưa nói xong. Hắn hướng con mắt nọ vào tôi. Cậu học trò trung học của chúng ta có đọc không nhỉ? Đọc những gì nào?

Tôi moi trong đầu những gì mới vừa đọc đây, thứ gì đặc biệt để mong hắn hài lòng.

Tôi đang đọc tự truyện của Sean O’Casey.

Hắn để tôi đau khổ một lúc, đưa tay vuốt mặt, lầm bầm, Sean O’Casey à. Anh vui lòng trích dẫn vài câu nghe chơi.

Tim tôi muốn nhảy khỏi lồng ngực. Nửa vòng tròn những kẻ ái mộ hắn chờ đợi. Dahlberg hất đầu như muốn hỏi được chứ? Miệng tôi khô khốc. Tôi chẳng nghĩ ra được câu nào của Sean O’Casey xứng với những đoạn tuyệt hay mà Dahlberg đã trích dẫn từ các bậc thầy cổ điển. Tôi lẩm bẩm, ờ thì tôi ngưỡng mộ O’Casey vì cách viết tự nhiên của ông về thời ông trưởng thành ở Dublin.

Hắn lại để tôi phải đau khổ nữa trong lúc hắn mỉm cười với những kẻ ái mộ hắn. Hắn gật đầu với tôi. Vì cách viết tự nhiên của ông ta, anh bạn Ireland của chúng ta nói. Nếu anh ngưỡng mộ cái gọi là cách viết tự nhiên thì anh luôn có thể nghiên cứu kỹ lưỡng các bức tường nhà vệ sinh công cộng được đấy.

Những kẻ ái mộ hắn cười ồ. Mặt tôi nóng bừng và tôi buột miệng, O’Casey đã ngoi lên nổi từ những khu nhà ổ chuột của Dublin. Ông ta bị lòa. Ông ta là… một… một… người đấu tranh cho thợ thuyền… Ông ta đâu thua kém gì ông. Cả thế giới biết Sean O’Casey. Còn ai biết ông nào?

Hắn lắc đầu nhìn đám người ái mộ, họ liền lắc đầu theo. Hắn gọi R’lene, Bảo cậu học trò trung học của em biến đi cho khuất mắt. Gã không đáng được chào mừng ở đây, ngược hẳn với cô vợ dễ thương của gã.

Tôi theo R’lene vào phòng ngủ để lấy áo khoác. Tôi bảo cô tôi rất tiếc đã gây chuyện không vui vừ tự thống trách mình vì lỗi lầm này nhưng cô chỉ cúi đầu im lặng. Trong phòng sinh hoạt Dahlberg đang vỗ vai Alberta, nói hắn tin chắc nàng là một cô giáo giỏi và mong rằng nàng sẽ lại đến chơi.

Chúng tôi lặng lẽ đi xe điện ngầm về Brooklyn. Tôi hoang mang không hiểu sao tay Dahlberg này lại có thái độ như thế. Hắn nhất định phải hạ nhục một người lạ chăng? Vì sao tôi lại phải chịu đựng chứ?

Vì tôi chẳng có được chút tự tin nào. Hắn sáu mươi tuổi, tôi ba mươi. Tôi giống như một kẻ đến từ một vùng mọi rợ. Tôi sẽ chwarng bao giờ thoải mái nổi trong giới văn học. Tầm hiểu biết của tôi quá thấp kém, quá ngu dốt, không đáng đứng chung với đám người ái mộ hắn, chỉ họ mới có thể đối đáp nổi với Dahlberg về văn chương chữ nghĩa.

Tôi đờ người, xấu hổ với chính mình và thề sẽ không bao giờ gặp lại nữa. Tôi sẽ bỏ sự nghiệp nhà giáo không lối thoát chẳng đem lại chút danh giá này, kiếm một công việc làm nửa ngày, thì giờ còn lại vào thư viện đọc sách, rồi đến dự những buổi gặp gỡ kiểu này, tha hồ trích dẫn kể lể, chẳng thua kém những kẻ như Dahlberg và bọn người ái mộ hắn. R’lene lại mời chúng tôi trở lại, nhưng lần này Dahlberg lễ độ, còn tôi cảnh giác và đủ khôn ngoan để chiều theo, đóng vai thủ túc phục tùng hắn. Hắn luôn hỏi tôi đang đọc gì, tôi giữ bầu không khí hòa bình bằng cách khoe ra những tên nhà văn Hy Lạp, La Mã, những vị thần khai sáng Giáo hội Công giáo, Miguel Cervantes [78] , quyển Anatomy of Melancholy – Giải phẫu nỗi u sầu – của Burton, Emerson [79] , Thoreau [80] và, tất nhiên rồi, Edward Dahlberg, như thể hiện nay tôi chẳng làm gì khác ngoài chuyện đặt mông ngồi cả ngày trong ghế bành mải miết đọc rồi chờ, chờ Alberta dọn bữa ăn chiều vào xoa bóp cái gáy khốn khổ của tôi. Nếu buổi trò chuyện trở nên nặng nề nguy hiểm thì tôi liền trích dẫn những quyển sách của hắn để thấy mặt hắn sáng lên và dịu lại. Tôi ngạc nhiên sao một kẻ chế ngự được mọi buổi hội họp và gây thù chuốc oán khắp nơi lại dễ dàng trúng kế nịnh bợ đến thế. Tôi cũng ngạc nhiên rằng mình lại đủ ranh ma vạch ra nổi một kế hoạch khiến hắn không nổi trận lôi đình ngay trên ghế. Tôi học được cách giữ mồm giữ miệng và chịu để hắn xỉ vả, vì tôi nghĩ rằng mình có thể học được từ sở học và kiến thức của hắn.

Tôi ganh tị với cuộc đời nhà văn của hắn, một giấc mơ mà tôi không đủ can đảm để liều theo. Tôi khâm phục hắn và bất kể ai kiên định đường hướng riêng của họ. Dù đã lõi đời trên đất Mỹ tôi vẫn cảm thấy như mình mới chân ướt chân ráo từ trên tàu xuống. Khi hắn than thở về cuộc sống khó khăn của nhà văn, về những đau đớn hàng ngày ở bàn viết thì tôi chỉ muốn nói, Dahlberg ơi, khổ cái con khỉ. Ông chẳng làm gì hơn là sáng sáng ngồi gõ máy chữ vài ba giờ, rồi đọc sách cả ngày còn lại trong khi R’lene quanh quẩn, lo phục vụ mọi yêu cầu của ông. Ông chưa từng làm việc vất vả một ngày nào trong đời. Chỉ cần một ngày lo dạy một trăm bảy mươi thiếu niên thôi là đủ khiến ông hộc tốc chạy ngay về với cuộc đời văn học êm ả của ông cho mà xem.

Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp hắn cho đến khi hắn mất ở California, thọ bảy mươi tuổi. Hắn vẫn mời tôi đến ăn tối, bảo nhớ đưa con thú cái [81] đi theo. Tra từ điển thấy “thú cái” nghĩa là “bà xã” [82] . Tôi mới hiểu ra rằng hắn quan tâm đến bà xã của tôi hơn là với tôi, nên khi hắn đề nghị bốn chúng tôi nên nghỉ hè chung, cùng lái xe xuyên khắp nước Mỹ thì tôi biết hắn âm mưu gì: ve vãn Alberta trên đường đi. Tên láu cá này sẽ bày kế bảo tôi đi giải quyết một chuyện vặt vãnh nào đấy, trong khi đó hắn – như con rắn độc – duỗi thẳng người từ trên cây trườn xuống.

Một sáng thứ Bảy hắn gọi điện mời chúng tôi tới ăn chiều, khi tôi đáp rằng tối hôm ấy chúng tôi bận thì hắn hỏi thế hắn phải làm gì với những món ăn hắn đã mua, hở anh bạn Ireland thân mến của tôi? Tôi đáp, Thì ông ăn thôi. Dù sao chăng nữa thì ông cũng đâu có tài cán gì khác hơn.

Lời đốp chát này chẳng hay ho gì mấy song đó là lần cuối cùng tôi nói với hắn. Sau đó hắn không bao giờ gọi lại nữa.

Trong tám năm tôi dạy ở McKee, tháng Sáu nào ban Anh văn cũng họp trong một phòng học để đọc, chấm và đánh giá kỳ thi của bang New York. Học sinh trường McKee đậu chưa được một nửa. Nửa còn lại kia phải được cứu vớt. Chúng tôi tìm cách thêm điểm cho những bài được trên năm mươi để đạt điểm quy định là sáu mươi lăm.

Với những câu hỏi phải chọn câu trả lời trong nhiều phương án thì chúng tôi chịu không giúp gì được, vì câu trả lời hoặc đúng hoặc sai, nhưng chúng tôi giúp được trong các luận văn về văn học hay các đề tài tổng quát. Cho thí sinh thêm mấy điểm vì đã có công đi thi. Thật đấy, giỡn chơi sao. Thay vì đi thi nó có thể lang thang đâu đó rồi gặp rắc rối, làm phiền người khác. Thêm ba điểm có mặt, vì nghĩa vụ công dân mà đã quên mình. Chữ viết rõ ràng, đọc được không? Đọc được. Thêm hai hay ba điểm nữa.

Em này đã bao giờ chọc giận thầy giáo chưa? Ờ, hình như đã có lần rồi. Đúng, nhưng có thể nó bị khiêu khích. Hơn nữa, cha nó mất rồi; là phu bến tàu, ông chống lại bọn xã hội đen thành ra đã mất mạng dưới kênh Gowanus. Cho trò này thêm hai điểm vì có ông bố chết dưới kênh Gowanus. Liệu thêm được vài điểm nữa chứ nhỉ?

Thí sinh này có biết chia bài văn thành đoạn không? Có chứ. Xem này, em còn lùi vào ở đầu đoạn văn nữa. Em này đúng là bậc thầy lùi vào ở đầu đoạn văn. Rõ ràng có ba đoạn ở đây.

Em có dễ thương không? Có, dễ thương lắm. Có sẵn sàng giúp thầy trong giờ học không? Có, nó rửa miếng mút lau bảng cho ông thầy môn xã hội học. Có lễ phép ngoài hành lang không? Nó luôn luôn chào hỏi. Xem này, nó đặt tên bài luận là “Tổ quốc tôi; dù đúng hay sai”. Hay chứ nhỉ? Chọn một cái tựa kêu gớm. Ta có thể cho thêm nó ba điểm vì đã chọn một đề tài yêu nước và một điểm cho dấu chấm phẩy được chứ, tuy đúng ra phải dùng dấu hai chấm? Có đúng là dấu chấm phẩy không hay giấy dính phân ruồi đấy? Ở trường này có những đứa không hề biết là có dấu hai chấm đấy, cũng chẳng cần biết luôn, thành ra nếu anh đứng giảng cho chúng sự khác biệt giữa dấu hai chấm và dấu anh em của nó, dấu chấm phẩy, thì chúng sẽ xin ra ngoài ngay.

Sao không cho nó thêm ba điểm nữa? Nó dễ thương, có anh trai tên Stan hiện ở Việt Nam. Bố nó bị bại liệt hồi nó còn bé. Cả đời phải ngồi xe lăn. Cho nó thêm một điểm nữa vì có bố ngồi xe lăn và anh trai ở Việt Nam.

Thế là nó được những sáu mươi tám điểm. Sáu mươi tám chắc ít gây nghi ngờ ở Albany, nơi người ta kiểm lại bài thi. Chắc họ khó mà kiểm kỹ từng bài trong hàng nghìn bài từ khắp bang gửi về. Với lại, nếu người ta thắc mắc thì thầy giáo chúng tôi sẽ sát cánh bảo vệ cách chấm điểm của mình.

Nghỉ ăn trưa thôi.

Ông Bibberstein, thầy giáo hướng dẫn, bảo tôi rằng nếu tôi gặp phiền toái với học sinh nào thì cứ cho ông biết, ông sẽ giải quyết. Ông bảo rằng trong hệ thống này thì thầy giáo mới bị coi như rác rưởi, nếu không nói là tệ hơn. Anh hoặc nổi hoặc chìm.

Tôi không bao giờ kể với ông về bất cứ khó khăn nào với học trò. Làm thế chúng sẽ đồn ầm lên ngay. Mẹ kiếp, lão thầy mới McCourt bắt cậu đi gặp thầy hướng dẫn, rồi lão sẽ gọi cho bố của cậu và cậu biết như thế nghĩa là gì rồi. Ông Bibbertein đùa rằng tôi hẳn phải là một thầy giáo tuyệt vời, hòa hợp rất mực với học trò nên chưa từng bắt một em nào xuống văn phòng ông. Ông bảo hẳn đó là sức quyến rũ Ireland của tôi. Thầy có quái gì để nhìn ngắm đâu mà đám con gái cứ mê khẩu âm Ireland của thầy như điếu đổ. Chính chúng bảo tôi thế mà, thành ra thầy chớ nên bỏ lỡ cơ hội.

Khi chúng tôi cùng với công đoàn giáo viên mới tên là United Federation of Teachers – Liên đoàn Giáo viên Thống nhất – đình công thì ông Bibberttein, ông Tolfsen và cô Gilfillan, giáo viên vẽ, đã phá rào. Chúng tôi la ó: Đừng vào, đừng vào, nhưng họ vẫn cứ vào. CÔ Gilfillan thì khóc. Các thầy cô phá rào này lớn tuổi hơn những người ở ngoài. Có thể họ từng là thành viên của công đoàn cũ đã bị dẹp tan thời McCarthy [83] truy bức Cộng sản. Họ không muốn lại bị truy bức lần nữa, dù chúng tôi bãi công chủ yếu để đòi Công đoàn mới được công nhận mà thôi.

Tôi thông cảm với các thầy cô lớn tuổi, nên khi hết đình công tôi muốn xin lỗi họ vì đã lớn tiếng đả đảo họ. Ít ra ở chỗ chúng tôi họ không bị gọi là đồn phản bội như ở các trường khác. Mặc dù vậy vẫn có sự căng thẳng và chia rẽ ở trường Trung học McKee và tôi không biết mình có thể tiếp tục làm bạn với những người đã phá rào được nữa không. Trước khi thành thầy giáo, tôi đã từng ở trong những đội bảo vệ bãi công ở Liên đoàn Công nhân Khách sạn, ở Công đoàn Tài xế Xe tải và Liên đoàn Quốc tế Công nhân Bến tàu và từng bị đuổi việc khỏi một ngân hàng chỉ vì đã trò chuyện với một cán bộ công đoàn. Có cảnh báo trước cả đấy và không ai dám phá rào. Bạn cứ phá rào đi, bọn tớ biết nhà bạn ở đâu, con bạn học trường nào mà.

Đội bảo vệ bãi công của các nhà giáo đâu thể nào ăn nói như thế được. Chúng tôi là những kẻ có học vị mà: thầy giáo, tốt nghiệp đại học. Khi chấm dứt bãi công, gặp những kẻ phá rào trong căn tin thì chúng tôi lạnh nhạt. Họ ngồi ăn với nhau ở một bên căng tin. Một thời gian sau họ không tới nữa, căng tin chỉ còn toàn những thành viên trung thành của Liên đoàn Giáo viên Thống nhất.

Từ đó ông Bibberstein không buồn gật đầu chào tôi trên hành lang và cũng không còn đề nghị giúp tôi xử lý các học sinh bất trị nữa. Nên một bữa nọ tôi thực sự sửng sốt khi ông chặn tôi lại lớn tiếng hỏi chuyện Barbara Sadlar ra làm sao?

Ông hỏi gì chứ?

Nó đến tìm tôi kể rằng thầy đã động viên nó học lên đại học.

Có thế thật.

Có thế thật là nghĩa làm sao?

Có nghĩa là tôi đã gợi ý em học lên đại học.

Tôi xin nhắc nhở thầy rằng đây là một trường trung học hướng nghiệp và kỹ thuật, không phải trường chuẩn bị vào đại học. Học trò trường này sẽ theo đòi ngành nghề của chúng, anh bạn ạ. Chúng không đủ trình độ để lên đại học.

Tôi bảo ông rằng Barbara Sadlar là đứa thông minh nhất trong năm lớp của tôi. Em làm bài giỏi, chịu khó đọc sách, luôn tham gia thảo luận trong lớp và nếu chính tôi, một thầy giáo có chứng chỉ nhà nước, không học trung học mà vẫn có thể học đại học được thì tại sao Barbara lại không? Ai dám bảo rằng em chỉ có thể làm nghề sửa sắc đẹp, thư ký hay gì khác.

Chẳng qua, anh bạn ạ, chỉ vì anh đã nhét vào đầu chúng những ý tưởng mà chúng không nên có. Chúng tôi có thực tế trong trường này, thế mà anh lại đến đây với những ý tưởng điên rồ ngu xuẩn của anh. Tôi sẽ phải nói để nó biết phải trái mới được. Tôi sẽ rất cám ơn nếu anh không xía vào. Anh hãy lo dạy môn Anh văn, còn chuyện hướng dẫn xin hãy để tôi lo. Ông ta dợm bỏ đi nhưng rồi quay lại ngay. Vụ này không phải vỉ Barbara là một cô gái tóc vàng xinh xắn chứ?

Tôi muốn đốp lại thật cay chua. Trong đầu tôi hiện ra từ “đồ phản bội” nhưng tôi im lặng. Ông ta bỏ đi và đó là lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau. Vì vụ bãi công hay thực sự là vì Barbara?

Ông ta bỏ một tấm thiệp vào hộp thư của tôi: “Người ta nên với cao hơn tầm tay mình, nhưng tốt hơn anh nên làm sao để chúng có gì nắm được trong tay. Đừng mớm cho chúng những ước mơ bất khả. Thân chào, Fergus Bibbestein”.