← Quay lại trang sách

PHẦN II - CHỈ LOÀI LỪA MỚI ĂN CÂY KẾ Chương 9

Năm 1966, sau tám năm dạy ở McKee, tôi thấy đã đến lúc nên làm việc gì khác hơn. Ngày ngày tôi vẫn phải vất vả mới thu hút được sự chú ý học sinh năm lớp, dù tôi đã học được điều hiển nhiên này: anh phải dạy theo cách của anh. Anh phải tự thấy đâu là sở trường của mình. Anh phải phát triển cách dạy của anh. Anh phải nói đúng sự thật kẻo lòi đuôi ngay. Ơ, thưa thầy, tuần trước thầy đâu có nói thế ạ. Đây không phải là chuyện đạo đức hay nhân cách.

Thành ra xin tạm biệt trường Trung học Hướng nghiệp và Kỹ thuật McKee. Với tấm bằng thạc sĩ mới toanh tôi tới dạy ở trường Cao đẳng Cộng đồng New York ở Brooklyn là nơi anh bạn tôi, giáo sư Herbert Miller, đã tìm giúp cho một chân phụ tá giảng viên, bậc thấp nhất ở hệ thống đại học. Tôi sẽ chỉ phải dạy năm hoặc sáu tiết mỗi tuần, chứ không phải mỗi ngày. Thật là thần tiên với biết bao giờ rảnh. Tuy thu nhập chỉ bằng nửa lương thầy giáo trung học nhưng sinh viên gần tuổi trưởng thành sẽ chịu khó nghe và trọng thầy. Họ sẽ không quăng thứ này ném thứ kia trong lớp. Họ không phản đối hay phàn nàn về bài tập phải làm trong lớp hay ở nhà. Hơn nữa họ gọi tôi là giáo sư khiến tôi thấy mình thành quan trọng hẳn. Tôi phải dạy hai môn: Văn học nhập môn và Căn bản sáng tác.

Các sinh viên của tôi là người lớn, đa số chưa tới ba mươi, họ làm việc trong các cửa hàng, nhà máy và văn phòng trên khắp thành phố. Có một lớp tới ba mươi ba lính cứu hỏa, họ mong có bằng đại học để được thăng tiến, toàn da trắng, đa số gốc Ireland.

Còn lại hầu hết là da đen hoặc dây mơ rễ má với gốc gác Tây Ban Nha. Tôi có thể là một người trong bọn họ lắm chứ: ban ngày đi làm, tối đi học. BỞi không còn chuyện kỷ luật trong lớp nữa nên tôi đã phải thích nghi và nghĩ ra một cách dạy mà không cần bảo sinh viên làm ơn ngồi xuống và giữ im lặng. Nếu đến trễ thì họ xin lỗi rồi ngồi vào chỗ, thế thôi. Tiết học đầu tiên thú thật tôi chẳng biết phải làm gì khi sinh viên vào chỗ, chờ nghe tôi giảng. Không ai xin phép ra ngoài. Không ai giơ tay xin nói rồi mách rằng có người nào đấy đã lấy mất khúc bánh mì kẹp hay quyển sách hoặc giành mất chỗ. Không ai tìm cách dụ tôi nói lạc đề bằng cách hỏi chuyện nước Ireland nói chung hay tuổi thơ cơ cực của tôi nói riêng.

Cha nội ơi, anh phải lên đứng trên đó mà giảng bài chứ.

Chú thích ở cuối trang, thưa các anh chị, là để các anh chị cho biết về nguồn tư liệu của mình.

Một bàn tay giơ lên.

Xin mời anh Fernandez.

Sao vậy ạ?

Sao là sao?

Em muốn hỏi rằng khi em viết về đội bóng New York Giants, sao em không thể cứ viết rằng đã đọc trên tờ Daily News , tại sao thế?

Bởi vì, anh Fernandez ạ, đây là một bài chuyên khảo, thành ra anh phải cho biết chính xác đã lấy thông tin từ đâu. Chính xác, anh Fernandez ạ.

Thưa thầy, em hổng có hiểu . Em thấy sao mà rắc rối. Em chỉ viết bài về đội Giants và tại sao mùa bóng này họ thất bại thôi. Em nào có định tập sự để trở thành luật sư hay gì đâu ạ.

Tomas Fernandez hai mươi chín tuổi. Anh là thợ máy của thành phố New York. Anh hy vọng rằng bằng cấp sẽ giúp mình lên chức. Anh có vợ và ba con, thỉnh thoảng vẫn ngủ gục trong giờ học. Khi anh ta ngáy thì những sinh viên khác nhìn xem tôi phản ứng thế nào. Tôi khẽ đặt tay lên vai anh rồi đề nghị anh ra ngoài nghỉ một lúc. Anh nói OK rồi đi ra nhưng không trở lại buổi học tối hôm ấy nữa. Tuần sau anh vắng mặt, rồi khi đi học lại anh bảo rằng không, anh có đau ốm gì đâu. Anh chỉ qua New Jersey để xem đội Giants chơi thôi, thầy hiểu không. Anh nhất định phải xem cho bằng được mỗi khi đội Giants chơi trên sân nhà. Không thể vắng trận nào. Anh bảo rằng thật tiếc, môn học này rơi vào ngày thứ Hai là ngày đội Giants chơi trên sân nhà.

Anh lấy làm tiếc ư, Fernandez?

Vâng. Kiểu như, thầy biết đấy, em không thể có mặt cùng lúc ở hai nơi.

Nhưng anh Fernandez này, đây là trường đại học. Môn này là bắt buộc.

Vâng, Fernandez đáp. Em hiểu vấn đề của thầy ở chỗ nào.

Vấn đề của tôi? Anh nói đó là vấn đề của tôi ư, anh Fernandez?

Chậc, đại khái thế, thầy phải làm gì đó với em và đội Giants. Đúng không ạ?

Không phải thế đâu, anh Fernandez ạ. Có điều là nếu anh không đi học thì anh sẽ thi rớt.

Anh ta đăm đăm nhìn tôi như cố hiểu sao tôi nói gì lạ lùng vậy. Anh kể cho tôi và cả lớp biết anh đã ủng hộ đội Giants này suốt đời rồi, nên sẽ không thể bỏ rơi chỉ vì đội này vừa chơi kém một mùa bóng. Sẽ chẳng còn ai thèm coi trọng anh nữa. Thằng con bảy tuổi sẽ coi thường anh. Ngay cả cô vợ vốn chẳng quan tâm gì đến đội Giants cũng sẽ không còn nể trọng anh luôn.

Sao thế, anh Fernandez?

Dễ hiểu quá mà, thưa thầy. bao nhiêu ngày Chủ nhật và thứ Hai em đi xem những trận đấu của đội Giants thì cô ấy đợi em ở nhà, chăm sóc tụi nhỏ và lo đủ mọi chuyện, thậm chí tha thứ cả việc em không dự đám tang bà nhạc vì hôm ấy đội Giants phải đấu trận quyết định. Thành ra nếu bây giờ em bỏ rơi đội Giants thì cô ấy sẽ hỏi rằng em chờ anh để làm gì chứ? Cô ấy sẽ bảo thế là công toi hết cả. Cô ấy hết coi trọng em là vì thế, bởi vì có một điều về vợ em, cô ấy khư khư giữ quan điểm của mình, giống như em một dạ trung thành với đội Giants vậy, thầy hiểu em chứ?

Cô Rowena người xứ Barbados bảo rằng tranh luận về chuyện này chỉ phí thì giờ của cả lớp, sao anh không trưởng thành hơn. Sao anh không chọn môn này vào một buổi tối nào khác tối thứ Hai?

Vì những đứa lớp kia đông quá rồi, với lại tôi nghe nói thầy McCourt dễ chịu, thầy không phản đối nếu sau một ngày làm việc cực nhọc tôi đi xem trận bóng. Chị hiểu chứ?

Rowena đáp không hiểu.  Hoặc ị hoặc ra khỏi nhà xí, anh bạn ơi, xin lỗi đã ăn nói lỗ mãng. Chúng tôi cũng đến đây sau một ngày làm việc cực nhọc đấy chứ, nhưng chúng tôi không ngáy trong lớp hay bỏ đi xem trận bóng. Chúng ta nên biểu quyết.

Những cái đầu khắp lớp gật gù, đồng ý biểu quyết. Ba mươi ba người thấy Fernandez nên đi học chứ đừng có Giants. Còn Fernandez bỏ phiếu cho mình. Ưu tiện Giants tuyệt đối.

Tuy tối hôm ấy truyền hình truyền trận của đội Giants nhưng anh đã lịch sự ngồi đến cuối giờ học. Anh bắt tay tôi, cam đoan rằng không giận hờn gì, rằng tôi đúng là dễ mến, nhưng chúng ta ai mà chẳng có khuyết điểm.

Freddie Bell là một anh chàng da đen lịch sự. Anh bán hàng ở khu quần áo đàn ông trong cửa hàng Abraham và Straus. Anh đã chọn giúp tôi một cái áo vest thành thử quan hệ giữa chúng tôi khác hơn mức thầy trò. Phải, em học thầy, nhưng em đã giúp thầy chọn áo vest. Anh thích lối hành văn hoa mỹ với những từ bóng bẩy ít thông dụng anh tìm thấy trong từ điển. Khi tôi phê “hãy mộc mạc, hãy mộc mạc (Thoreau)” thì anh muốn biết Thoreau này là ai và vì sao lại phải hành văn như con nít.

Bởi vì, Freddie ạ, người đọc bài của anh có thể chuộng sự trong sáng. Trong sáng, Freddie ạ, trong sáng.

Anh không đồng ý. Ông thầy dạy tiếng Anh ở trung học bảo anh rằng tiếng Anh là một chiếc đàn ống tuyệt vời. Sao không tận dụng lợi thế của nhạc cụ khổng lồ này? Tận dụng tối đa, nói nôm na là thế.

Bởi vì Freddie ạ, cách anh viết là sai, là gò bó, là giả tạo.

Lẽ ra tôi không nên nói như thế, nhất là trước tai mắt ba mươi sinh viên khác. Gương mặt anh ta sầm lại và tôi biết thế là hỏng rồi. Thế có nghĩa là trong lớp có một người thù ghét mình cho đến cuối khóa, một viễn cảnh đáng buồn cho tôi, bởi vì tôi vẫn còn đang chập chững trong việc dạy giới sinh viên lớn tuổi.

Freddie trả miếng qua ngôn ngữ. Anh hành văn phức tạp và gượng ép hơn nữa. Anh rơi từ điểm A xuống B trừ [84] . Chịu không nổi, anh yêu cầu tôi giải thích. Anh bảo rằng đã đưa các bài luận cho ông thầy dạy tiếng Anh cũ, ông thầy này không hiểu nổi tại sao Freddie lại không được điểm A cộng. Văn phong này. Từ vựng này. Mức độ ý nghĩa này. Cấu trúc câu nữa: đa dạng điêu luyện, phong phú.

Chúng tôi gặp nhau ngoài hành lang. Anh nhất định không chấp nhận. Anh bảo đã cố gắng tìm từ mới để tôi khỏi phát chán vì cứ gặp mãi những từ cũ mèm. Ông thầy dạy tiếng Anh cũ của anh bảo rằng không gì chán hơn là đọc cả đống bài làm của học trò mà chẳng bài nào có ý tưởng độc đáo hay vài từ mới. Ông thầy dạy tiếng Anh cũ bảo rằng ông McCourt nên trân trọng nỗ lực của Freddie và cho điểm tương xứng. Chỉ riêng việc Freddie dám xông xáo vào lĩnh vực ngôn ngữ mới, vượt khuôn khổ có sẵn đã đáng được tưởng thưởng rồi. Hơn nữa, Freddie nói, em làm việc ban đêm để có tiền sống và theo học đại học. Thầy biết thế là thế nào chứ.

Tôi không thấy chuyện này liên quan gì đến văn phòng của anh.

Với lại, là người da đen thật không dễ sống trong xã hội này.

Chúa ơi! Anh Freddie ạ, là da gì đi nữa thì trong xã hội này chẳng ai dễ sống cả. Anh muốn điểm A? Được thôi. Thôi không muốn bị trách là cố chấp.

Không, em không muốn thầy làm cho xong chuyện hay vì em da đen. Em muốn được điểm caon hơn vì xứng đáng.

Tôi quay đi. Anh gọi theo: Thầy McCourt, em cám ơn thầy. Em thích lớp của thầy. Thật kỳ quặc, cái lớp này, nhưng em nghĩ có thể em sẽ thành một thầy giáo như thầy.

Môn tôi dạy đòi hỏi phải làm một bài khảo luận. Sinh viên phải chứng tỏ khả năng qua việc chọn đề tài, tìm một số tư liệu đơn giản, ghi chú trên thẻ tư liệu để người hướng dẫn có thể tra cứu nguồn, cũng như ghi chú những nguồn tư liệu chính và phụ.

Tôi dẫn sinh viên tới thư viện để cô thủ thư nhiệt tình chỉ dẫn họ cách tìm tư liệu, cách dùng những công cụ cơ bản. Họ lắng nghe, họ nhìn nhau thì thầm bằng tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp, nhưng khi cô hỏi có thắc mắc gì không thì họ ngó lơ khiến cô bối rối. Sở dĩ cô hỏi chỉ vì tận tình muốn giúp họ.

Tôi thử giải thích nghiên cứu đơn giản là thế nào.

Trước hết ta chọn một đề tài.

Đề tài là gì?

Chẳng hạn chuyện gì đó ta đặc biệt thích, có thể một đề tài mà anh và mọi người cùng lấn cấn. Anh có thể viết về chủ nghĩa tư bản, tôn giáo, phá thai, con cái, chính trị, giáo dục. Một số anh chị gốc Haiti hay Cuba. Hai đề tài hết sức phong phú. Anh chị có thể viết về thuật phù thủy hay [85] sự kiện Vịnh Con Heo [86] . Anh chị có thể xem xét khía cạnh nào đấy ở đất nước mình, chẳng hạn nhân quyền, làm một bài nghiên cứu nho nhỏ, có pro và contra , suy ngẫm rồi kết luận.

Thưa thầy, pro và contra là gì ạ?

Pro là tán thành, contra là phản bác.

Ồ.

Tiếng “ồ” có nghĩa là họ chẳng hiểu tôi nói gì. Thành ra tôi phải thoái bộ, giải thích từ giác độ khác. Tôi hỏi quan điểm của họ đối với án tử hình. Nét mặt họ cho thấy họ chẳng có quan điểm, vì họ không biết tôi đang nói chuyện gì.

Án tử hình là xử tử phạm nhân bằng cách treo cổ, cho điện giật, hơi ngạt, bắn hay xử giảo.

Xử gì ạ?

Kiểu như thắt cổ phổ biến bên Tây Ban Nha ấy mà.

Họ yêu cầu tôi viết từ này [87] lên bảng. Họ ghi vào vở. Tôi liền ghi nhớ trong đầu rằng sau này hễ không khí trong lớp chùng xuống là nên lôi ngay mấy kiểu xử tử ra.

Vivian, nữ sinh viên người Haiti, giơ tay. Thế là sai, tử hình ấy, nhưng em nghĩ với chuyện kia thì Ôkê, chuyện giết trẻ sơ sinh, dạ, chuyện phá thai ấy. Phải bắn bỏ.

Được thôi, Vivian. Sao em không viết vào bài khảo luận?

Em? Viết điều em vừa nói? Ai thèm bận tâm em nói cái gì chứ? Em chẳng là thớ gì hết, thầy ạ. Vô danh tiểu tốt.

Mặt họ không biểu cảm. Họ không hiểu. Làm sao họ hiểu nổi? Vấn đề về mặt trái của câu chuyện thế này là gì đây? Chưa ai từng bảo họ có quyền có quan điểm riêng.

Họ không ngại phát biểu trong lớp, nhưng đặt con chữ lên giấy trắng là một nấc nguy hiểm, nhất là khi ta lớn lên với tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp. Lại nữa, họ đâu có thì giờ cho mấy thứ này. Họ còn con cái phải nuôi dạy, việc làm, phải gửi tiền về cho gia đình ở Haiti và Cuba. Ông thầy ra bài là chuyện quá dễ dàng, nhưng thầy ơi, ngoài kia là một thế giới khác mà Chúa cho một ngày chỉ có hai mươi bốn giờ thôi.

Còn mười phút nữa là hết giờ hướng dẫn, tôi bảo họ được tự do tìm hiểu trong thư viện. Chẳng ai nhúc nhích. Thậm chí chẳng ai thầm thì gì nữa. Họ ngồi đó trong áo khoác mùa đông. Họ ôm sát cặp vào người chờ đến giây phút cuối cùng kết thúc giờ học này.

Trong hành lang tôi kể với ông bạn, giáo sư kỳ cựu Herbert Miller, về những vấn đề của lớp này. Ông bảo, Họ làm việc ngày lẫn đêm. Họ đến lớp. Họ ngồi nghe giảng. Họ làm hết sức của họ. Đám người ở phòng tuyển sinh thu nhận họ, rồi chờ đợi các giáo sư hoặc thi triển phép lạ hoặc vung lưỡi rìu đao quỷ. Tôi không hơi đâu tiếp tay cho phòng tuyển sinh. Khảo luận à? Làm sao họ viết khảo luận khi còn phải đánh vật mới đọc nổi tờ báo?

Các sinh viên hẳn sẽ đồng ý với Miller. Họ sẽ gật đầu rằng, Đúng như thế đấy, đúng thế. Họ nghĩ họ chẳng là cái thớ gì hết cả.

Đấy là cái lẽ ra tôi phải biết ngay từ đầu: sinh viên lớp tôi, toàn những người lớn từ mười tám đến sáu mươi hai tuổi, nghĩ ý kiến của họ chẳng đáng gì. Mọi suy nghĩ mà họ có đều thoát thai từ dòng thác lũ truyền thông trong thế giới của chúng ta. Chưa hề có ai bảo họ có quyền độc lập suy nghĩ.

Tôi bảo họ, Các bạn có quyền độc lập suy nghĩ.

Cả lớp im phăng phắc. Tôi bảo, Các bạn không bắt buộc phải nuốt lấy mọi điều tôi nói. Hay điều người nào khác nói. Các bạn có thể đặt câu hỏi. Nếu tôi không có câu trả lời chúng ta có thể tra cứu trong thư viện hay thảo luận ở đây.

Họ đưa mắt nhìn nhau. Chà! Cái ông thầy này ăn nói mới lộn xộn làm sao. Ông bảo tụi mình không bắt buộc phải tin lời ông nói. Nè, tụi mình đến đây để học, để thi đậu tiếng Anh. Tụi mình phải có được chứng chỉ.

Tôi muốn làm một Ông Thầy Giải Phóng Vĩ Đại, ngõ hầu vực họ dậy sau những ngày làm việc mệt nhọc trong văn phòng hay hãng xưởng, ngõ hầu giúp họ quẳng gông cùm xiềng xích, dẫn dắt họ lên tận đỉnh núi, để thở hít bầu không khí tự do. Một khi đầu óc họ được tẩy sạch những điều không thể vớ vẩn nọ, có lẽ họ sẽ coi tôi là cứu tinh.

Bởi cuộc đời những sinh viên lớp này vốn cơ cực đủ rồi, không cần thêm một ông thầy tiếng Anh rao giảng suy nghĩ độc lập hay đặt hết câu hỏi này tới câu hỏi khác khiến họ nhức đầu.

Thầy ơi, tụi em chỉ muốn học xong lớp này thôi mà.

Bài khảo luận té ra trở thành cóp nhặt điên cuồng từ Bách khoa Toàn thư về Papa Doc Duvalier [88] và Fidel Castro. Bài làm của Vivian về Touissant-L’Ouverture [89] dài những mười bảy trang, vừa tiếng Anh lẫn thứ tiếng Pháp của đảo Haiti; tôi cho điểm B cộng vì công cóp nhặt và đánh máy. Để bù lại, tôi phê trên trang đầu rằng Touisaint đã độc lập suy nghĩ và gánh chịu hậu quả, tôi mong Vivian sẽ noi gương ông, nhưng thoát được phần đau khổ.

Khi trả bài làm, tôi cố gắng động viên họ, khuyến khích đội ngũ tác giả này đi sâu hơn nữa vào những đề tài đã chọn.

Nhưng tôi nói cho tôi nghe. Hôm ấy là giờ cuối trong năm học, họ không ngớt nhìn đồng hồ, chẳng đếm xỉa gì đến tôi. Tôi chán nản đi tới trạm xe điện ngầm, tự trách đã không gần gũi được với họ. Trên sáu trạm xe có bốn cô lớp tôi đang đứng chờ. Họ mỉm cười hỏi có phải tôi ở Manhattan không.

Không. Ở Brooklyn, hai trạm nữa.

Rồi tôi chẳng biết nói gì nữa. Không một lời tán gẫu. Không một lời đùa bỡn của ông thầy.

Vivian nói, Cám ơn thầy, thầy McCourt, về điểm thầy đã cho. Đó là điểm cao nhất em được trong môn tiếng Anh đấy, thầy biết không, thầy dạy khá lắm.

Những cô kia gật đầu mỉm cười, tôi hiểu rằng tôi chỉ muốn tỏ ra lịch sự thôi. Khi xe tới, họ chào rồi hối hả chạy theo xe.

Sự nghiệp dạy đại học của tôi chấm dứt sau một năm. Ông trưởng khoa bảo tôi rằng người ta tranh nhau chỗ của tôi, thậm chí cả những người có học vị tiến sĩ, thành ra ông sẽ nới rộng điều kiện; nếu tôi muốn được tiếp tục dạy thì tôi phải chứng tỏ được rằng tôi muốn theo học tới cấp tiến sĩ. Tôi đáp rằng tôi chẳng theo đuổi gì hết.

Thế thì rất tiếc, ông trưởng khoa nói.

Không sao, tôi nói, rồi đi tìm một chân giáo sư trung học khác.

Alberta bảo rằng tôi sẽ chẳng bao giờ thành đạt trong đời, tôi khen nàng nhận xét sắc sảo. Nàng bảo, Dẹp cái lối mỉa mai của anh đi. Mình lấy nhau đã sáu năm mà anh chỉ toàn chạy hết trường này đến trường khác. Nếu anh không mau mau tìm công việc nào đó cho ổn định trong khi sắp bốn mươi tuổi rồi thì anh sẽ ngạc nhiên thấy đời mình đi cái ngả nào. Nàng chỉ ra những người sống chung quanh, họ lấy nhau hạnh phúc, làm được chuyện này chuyện nọ, ổn định, hài lòng với cuộc sống, sinh con đẻ cái, xây dựng những quan hệ chín chắn, hướng tới tương lai, đi nghỉ hè, gia nhập câu lạc bộ này đến câu lạc bộ khác, chơi golf, cùng chờ đến tuổi già, thăm họ hàng, mơ về những đứa cháu, ủng hộ Giáo hội, nghĩ tới ngày về hưu.

Tôi đồng ý với nàng nhưng không thể nhìn nhận rằng nàng nói đúng. Tôi thuyết giảng về cuộc đời và nước Mỹ. Tôi bảo nàng đời là một cuộc phiêu lưu và tôi có thể sống nhầm thế kỷ. Lẽ ra tôi phải sống trong thời người ta đi xe ngựa phủ lều bạt, thời các tay đánh xe trong phim Viễn Tây – như các tài tử John Wayne, Randolph Scott, Joel McCrea đã đóng – vung roi ngựa kêu lớn, Nào ta đi thôi, trong lúc ban nhạc của hãng phim say sưa với năm mươi cây violin căng phồng những bài ca yêu nước của vùng thảo nguyên, những điệu nhạc của xe ngựa thuần túy, đàn violin và banjo chào mừng tiếng phong cầm rền rĩ, những người đánh xe ngựa kêu Hấp, hấp, hấp hay những anh chàng đi bộ dắt ngựa với bò, còn các bà vợ ngồi trên xe cầm cương, có mấy bà mang bầu và anh biết, vì anh đã từng qua đây, họ sẽ sinh con ngay giữa cuộc tấn công dữ tợn của các bộ tộc Apache, Sioux, Cheyenne. Họ sẽ quây xe lại thành một chiến lũy hình tròn, chống trả những dũng sĩ da đỏ hò hét đe dọa những bà mẹ da trắng đang trở dạ; ấy nhưng mà những người da đỏ phi ngựa đeo lông chim sặc sỡ kia trông thật đẹp mắt và anh biết rằng người da đỏ sẽ phải bỏ chạy vì mọi người da trắng – đàn ông, đàn bà, trẻ con, kể cả những bà đang trở dạ - sẽ bắn liên tục súng trường, súng ngắn, vung cả ống cán mì và chảo, đánh bại bọn da đỏ quấy nhiễu để đoàn xe lại có thể tiếp tục lên đường cho người da trắng chinh phục lục địa hoang vu này, để việc bành trướng nước Mỹ không bị cào cào châu chấu, hạn hán, rặng Rocky Moutains hay bọn Apache điên cuồng gào thét ngăn trở.

Tôi bảo đó là phần lịch sử nước Mỹ mà tôi thích. Nàng bảo, Ôi dào, bây giờ còn xe ngựa phủ bạt gì nữa, anh hãy đi tìm việc làm đi, tôi đáp lại ngay bằng câu trích dẫn Dylan Thomas rằng việc làm là cái chết không phẩm giá. Nàng bảo, Anh muốn chọn phẩm giá thì đừng chọn em. Bạn thấy đấy, cuộc sống vợ chồng này quả không có mảy may hy vọng.

Ông chủ nhiệm khoa Học thuật ở trường Trung học Kỹ nghệ Thời trang không có cảm tình với tôi, nhưng trường đang thiếu người, không ai muốn dạy trường trung học hướng nghiệp, trong khi tôi sẵn sàng, lại sẵn kinh nghiệm McKee nữa. Ông ta ngồi sau bàn giấy, không thèm bắt tay tôi, bảo rằng ông ta điều hành một khoa năng động, nhấp nhô hai vai như một võ sĩ quyền Anh để chứng tỏ mình đầy nghị lực và quyết tâm. Ông bảo rằng học trò trường Trung học Kỹ nghệ Thời trang không tài cán xuất chúng gì nhưng chúng hiền lành, học những nghề hữu dụng như cắt may, đóng giày, bọc ghế và, khỉ thật, đâu có gì là không nên, nhỉ? Chúng sẽ trở nên những thành viên quý báu của xã hội và tôi đừng bao giờ nên mắc sai lầm nhìn học trò trường trung học hướng nghiệp bằng nửa con mắt.

Tôi trả lời rằng tôi mới nghỉ dạy trường trung học hướng nghiệp sau tám năm, thành ra tôi không đời nào coi thường ai cả.

Thế à. Trường nào vậy?

Trường McKee ở Staten Island.

Ông khịt mũi. Hừ, đâu có tiếng tăm gì mấy, đúng không?

Tôi cần việc nên không muốn làm ông bực mình. Tôi bảo rằng hết thảy kinh nghiệm dạy học có được của tôi là từ trường McKee mà ra cả. Ông bảo, Để xem. Tôi định bảo nói thế thì ông đừng nên làm nghề này nữa, nhưng như vậy thì sự nghiệp dạy học của tôi sẽ chấm dứt ngay.

Rõ ràng là tương lai của tôi không phải ở trường này. Tôi tự hỏi việc mình dạy ở đây có triển vọng gì không. Ông bảo rằng có bốn thầy giáo trong khoa của ông đang theo học khóa giám sát và hành chính nên tôi đừng ngạc nhiên nếu một ngày nào đó họ giữ những chức vụ cao hơn ở các trường khác trong thành phố.

Chúng tôi đâu có ngồi bám rễ ở đây, ông nói. Chúng tôi phải thăng tiến chứ. Thế dự tính dài hạn của thầy là gì?

Tôi không biết. Tôi chỉ nghĩ đến đây để làm thầy giáo, thế thôi. Tôi đáp.

Ông lắc đầu, không hiểu nổi sao tôi thiếu tham vọng. Tôi không đủ năng động. Nhờ ông mà bốn ông thầy đang học khóa bồi dưỡng kia sẽ thăng tiến và đi trường khác. Ông nói thế. Tại sao họ lại phải phí cả đời trong lớp học với đám nhóc tì, khi đường hoạn lộ mở rộng thênh thang?

Tôi đánh bạo hỏi, Nếu ai cũng thăng tiến và đi trường khác thì ai sẽ dạy lũ trẻ ở đây?

Ông không thèm đáp, chỉ khẽ thả ra một nụ cười, nhưng là cười mím miệng.

Tôi dạy được một khóa, từ tháng Chín đến tháng Giêng, rồi ông đẩy tôi ra. Có thể vì vụ dây giày hay vụ tờ tạp chí cuộn tròn hoặc cũng có thể vì tôi thiếu năng động và tham vọng. Tuy vậy ông đã khen ngợi tôi trong một buổi họp của khoa, vì khi giảng về các thành phần của câu tôi đã dùng một cây bút bi làm học cụ trực quan.

Đây là cái ruột bằng chất dẻo đựng mực. Nếu các em lấy đi cái ruột thì sẽ sao nào?

Đám học trò nhìn tôi như thể không hiểu được sao tôi lại ngớ ngẩn thế. Thầy ơi, sẽ không viết được nữa chứ còn gì.

OK. Thế tôi đang cầm gì trong tay đây?

Lại thèm một cái nhìn nhẫn nại. Đó là cái lò xo, thưa thầy.

Nếu lấy mất lò xo thì sao?

Khi ta bấm thì bút không viết được vì không có lò xo đẩy ruột bút ra ngoài và giữ đầu bút thò ra ngoài để viết, ta sẽ bị rắc rối to vì ta không làm được bài tập và thầy giáo sẽ cho rằng ta điên khi đến lớp kể lể chuyện mất lò xo hay ruột bút.

Bây giờ các em hãy nhìn câu này tôi viết trên bảng. “Cái lò xo làm cho cây bút bi viết được.” Đâu là chủ từ câu này? Nói khác đi, câu này nói gì?

Về cây bút bi.

Không phải. Không phải. Ở đây có một từ diễn tả hành động. Nó được gọi là động từ. Đó là từ nào?

A, phải rồi. Cái lò xo.

Không phải. Không phải. Lò xo là một vật.

Phải rồi, phải rồi. Lò xo là một vật. Đúng rồi.

Cái lò xo làm gì?

Nó làm cho cây bút bi viết được.

Đúng. Cái lò xo làm một hành động. Chúng ta đang nói về lò xo, đúng không?

Chúng có vẻ nghi hoặc.

Giả thử chúng ta nói “Cây bút bi làm cho cái lò xo viết được” thì có ổn không?

Không. Cái lò xo làm cho cây bút bi viết được. Ai cũng thấy.

Thế thì từ nào chỉ hành động?

Từ làm cho.

Đúng. Và từ nào cần từ chỉ hành động này?

Cái lò xo.

Vậy là các em thấy cây bút bi giống một câu văn như thế nào. Nó cần gì để có nghĩa. Nó cần từ chỉ hành động, cần động từ. Các em hiểu không?

Chúng trả lời hiểu. Ông chủ nhiệm khoa ngồi cuối lớp ghi chú nom có vẻ hoang mang. Ở buổi họp sau đó ông bảo ông có thể hiểu được mối tương quan giữa cấu trúc của cây bút với cấu trúc của câu văn. Ông không chắc tôi có thành công trong việc làm cho học trò hiểu không, nhưng cách này đúng là sáng tạo. Ông chắc chắn rằng, ha ha, nếu một vài ông thầy Anh văn lâu năm của ông thử dùng kinh nghiệm này thì họ có thể còn kiện toàn nó thêm nữa, nhưng đúng đây là một sáng kiến hay.

Một sáng nọ tôi làm đứt dây giày trong lúc đang buộc, tôi nói, Khỉ thật.

Alberta lầm bầm trên gối, chuyện gì thế anh?

Anh làm đứt dây giày.

Anh lúc nào chả làm đứt.

Không đúng, anh đâu có lúc nào cũng làm đứt. Mấy năm rồi có đứt gì đâu.

Nếu anh không kéo quá căng thì đâu có đứt.

Em nói cái quái gì lạ vậy? Sợi dây giày anh mang đã hai năm rồi, bốn mùa mưa nắng, hỏi sao không đứt? Anh kéo giống như em kéo ngăn bàn khi nó bị kẹt thôi.

Không, em chẳng dùng sức để kéo ngăn bàn bao giờ.

Có. Em điên tiết lên theo kiểu dân Yankee Thanh giáo như thể ngăn bàn là kẻ thù của em vậy.

Ít ra em không làm hư ngăn bàn.

Không, em chỉ giật mạnh khiến nó mắc kẹt luôn đến nỗi phải trả bộn tiền cho ông thợ mộc sửa lại.

Nếu mình không mua thứ bàn ghế rẻ tiền này thì em đã không phải đánh vật với ngăn bàn. Lạy Chúa, lẽ ra em nên nghe lời bạn bè khuyên đừng lấy chồng người Ireland.

Tôi chẳng bao giờ thắng nổi khi cãi cọ trong gia đình. Nàng không bao giờ chịu dừng lại ở vấn đề, trong trường hợp này là dây giày và ngăn kéo bàn. Không, nàng phải kéo cả gốc gác Ireland của tôi vào, vì đây là cái lý lẽ quyết định, lý lẽ để xử treo cổ bị cáo.

Tôi điên tiết đi đến trường, chẳng thích thú gì chuyện dạy hay dỗ ngon dỗ ngọt học trò nữa. Thôi mà, Stan, ngồi xuống đi; Joanna, làm ơn cất ba cái thứ son phấn đi. Các em có nghe không đấy? Mở tạp chí Anh ngữ thực hành , trang chín, phần đố từ vựng, điền vào những chỗ trống rồi chúng ta sẽ thảo luận về giải đáp của các em.

Chúng nói vâng, vâng, vâng. Làm cho thầy vui lòng đi. Chúng mở tờ tạp chí như thể mỗi trang nặng cả tấn. Chúng câu giờ. Giở trang chín là một việc khó nhọc nên chúng còn phải thảo luận với lũ bạn ngồi trước, ngồi sau, ngồi cạnh. Có thể chúng phải trò chuyện về chương trình xem trên truyền hình tối hôm qua, Chúa ơi, rùng rợn hé, à này bạn biết Miriam chứ gì, phải rồi, cô nàng trong lớp vẽ của bọn mình đấy, có bầu rồi, bạn biết chứ? Không, tớ không biết. Wow ! Thế vị nào là bố? Bạn không tin nổi đâu. Thề không kể cho ai nhé. Ông thầy mới dạy môn xã hội học đấy. Thật không? Tớ tưởng lão là thứ đồng tính nam chứ. Không, lão giả vờ đấy.

Các em có vui lòng mở trang chín không?

Đã hết mười lăm phút mà chúng vẫn tiếp tục lật những trang giấy nặng như chì. Hector, mở trang chín.

Nó có mái tóc đen thẳng và một khuôn mặt gầy gò rất trắng. Nó nhìn đăm đăm phía trước như không thấy tôi nói.

Hector. Mở trang chín.

Nó lắc đầu.

Tôi đi tới chỗ nó ngồi, tay cầm một tờ Anh ngữ thực hành cuốn tròn. Hector, mở tạp chí ra. Mở ra.

Nó lại lắc đầu. Tôi đập tờ tạp chí sượt mặt nó. Một vết đỏ trên chiếc má trắng trẻo. Nó bật dậy. Cút đi, nó nói, giọng nghẹn ngào. Nó đi ra cửa, tôi gọi theo. Hector, ngồi xuống, nhưng nó đã ra khỏi lớp rồi. Tôi muốn chạy theo xin lỗi nhưng lại thôi. Khi nó bớt giận và tôi sáng suốt lại thì có thể tôi sẽ thủ thỉ với nó.

Tôi quẳng tờ tạp chí lên bàn mình rồi ngồi đó đăm đăm nhìn phía trước cho đến cuối giờ, giống như Hector. Đám học trò không buồn làm ra vẻ lật mở trang chín nữa. Chúng ngó tôi, ngó nhau hay nhìn ra ngoài cửa sổ và im lặng.

Tôi có nên nói với chúng, nói rằng tôi ân hận lắm chăng? Không, không được. Thầy giáo không thể đứng đó thú nhận sai lầm. Thầy giáo không khi nào nhìn nhận những điều mình không biết. Thầy trò chờ chuông reo rồi chúng túa ra ngoài. Sofia, cô bé ngồi cạnh Hector nói lẽ ra thầy không nên làm thế. Thầy là người tốt nhưng lẽ ra thầy không nên xử sự như thế, Hector cũng dễ thương lắm. Hector. Cậu ấy gặp nhiều chuyện không vui, giờ thầy lại làm khó khăn thêm.

Bây giờ thì lớp học hẳn sẽ coi thường tôi, đặc biệt là nhóm các em gốc Cuba, nhóm của Hector. Có mười ba em gốc Cuba, là sắc tộc đông nhất lớp. Chúng tự xem là thông minh hơn mọi nhóm nói tiếng Tây Ban Nha khác; thứ Sáu nào cũng mặc áo trắng, ca vát xanh, quần đen để khỏi bị nhầm với những nhóm khác, nhất là nhóm gốc Puerto Rico.

Lúc ấy đang giữa tháng Chín, nếu tôi không tìm được cách nào để thu phục lại cảm tình của nhóm Cuba thì tôi sẽ bị chúng làm tình làm tội cho tới cuối khóa, nghĩa là tới tháng Giêng.

Vào giờ ăn trưa một thầy hướng dẫn bưng khay lại bàn tôi. Chào anh. Có chuyện gì giữa anh và Hector thế?

Tôi kể ông nghe đầu đuôi.

Ông gật đầu. Bậy quá. Tôi xếp nó vào lớp anh là vì vấn đề sắc tộc.

Vấn đề sắc tộc nào? Nó gốc Cuba, còn tôi gốc Ireland.

Nó chỉ là Cuba một nửa thôi. Họ của mẹ nó là Considine, nhưng nó xấu hổ vì cái họ này.

Tại sao thầy xếp nó vào lớp tôi?

Tôi biết nói ra nghe thật cải lương, nhưng mẹ nó vốn là điếm thượng lưu ở Havana [90] . Nó thắc mắc nhiều về người Ireland nên tôi mới nghĩ những chuyện này có thể sẽ được đề cập đến trong lớp của anh. Ngoài ra, nó gặp phải vấn đề về giới tính.

Nó trông ra dáng con trai mà.

Phải rồi, nhưng… anh hiểu đấy. Chuyện đồng tính luyến ái ấy mà. Nay nó nghĩ rằng anh ghét người đồng tính luyến ái nên nó nói, Được thôi, nó sẽ thù ghét mọi người Ireland và mọi đứa bạn Cuba của nó cũng sẽ ghét người Ireland luôn. Ấy không, không phải thế. Nó không có bạn bè Cuba nào. Bọn này gọi nó là maricon [91] và xa lánh nó. Gia đình nó xấu hổ vì nó.

Khỉ thật. Nó không nghe lời tôi. Không chịu mở tờ tạp chí. Tôi không muốn dính vào chuyện lộn xộn về giới tính và sắc tộc.

Ông Melvin đề nghị tôi gặp ông lẫn Hector trong phòng giáo viên hướng dẫn.

Hector, thầy McCourt muốn thầy ấy và em hiểu nhau.

Em không cần biết thầy McCourt muốn gì. Em không muốn ngồi chung lớp với dân Ireland. Họ nhậu nhẹt. Đánh người vô cớ.

Hector, tại em không chịu mở tờ tạp chí dù thầy đã bảo.

Đôi mắt đen của nó lạnh lùng nhìn tôi chòng chọc. Ra thế, em không mở tạp chí là thầy đập và mặt em ư? Hừ, thầy không phải nhà giáo. Mẹ em từng là một nhà giáo.

Mẹ em từng là… tôi suýt buột miệng, nhưng nó đã bỏ đi, lần thứ hai. Ông Melvin lắc đầu, nhún vai và tôi hiểu rằng thời gian dạy ở trường Trung học Thời trang sắp chấm dứt. Ông Melvin bảo rằng Hector có thể kiện tôi về tội hành hung, lúc ấy tôi sẽ “chết mất ngáp”. Ông cố đùa. Nếu anh thích đập học trò thì hãy xin vào dạy ở trường Công giáo. Những ông cha cố và thầy dòng hợm hĩnh, thậm chí cả các bà sơ, vẫn còn đánh học trò đấy. Có thể ở đó anh sẽ thoải mái hơn.

Tất nhiên ông chủ nhiệm khoa có nghe về vụ tôi với Hector. Ông không nói gì hết cho đến mãi cuối khóa, ông bỏ một bức thư vào hộp thư của tôi cho biết rằng không có chỗ cho tôi trong khóa tới. Ông chúc tôi may mắn và sẵn sàng cấp cho tôi giấy chứng nhận tốt. Gặp nhau trên hành lang, ông bảo ông đã phải dối trá một chút khi phê chứng nhận tốt cho tôi đấy, ha ha. Tuy nhiên, nếu cố gắng theo đuổi nghề nhà giáo thì tôi có thể sẽ thành công, vì thỉnh thoảng qua quan sát ông thấy tôi chạm tới được mỏ vàng sư phạm. Ông mỉm cười và ta thấy ông thích sự ví von này. Ông nói đôi điều về buổi học mà tôi đã làm cho học trò dễ hình dung về các thành phần của câu văn bằng cách tách rời các bộ phận của một cây bút bi. Đúng vậy, tôi đã chạm tới được mỏ vàng sư phạm.