Chương 13
Tôi đến cơ quan thăm Trần thì gặp Lê Văn Thành người mà năm 1969 đã đứng đầu liên danh phe Trần Văn Hương tranh cử với Trần.
Trần gọi điện thoại bảo mấy chị phục vụ đem cà phê sữa, thuốc Capstan đầu lọc ra mời Thành. Anh ta uống cà phê hút thuốc lá một cách tự nhiên. Tôi hỏi thăm anh ta về sức khỏe, về giai đoạn trong trại cải tạo. Thành nói những điều tốt đẹp về trại cải tạo, anh ta bảo mình đã học được nhiều thứ ở đó và những điều ấy thực sự ích lợi cho cuộc đời của anh ta. Rồi Thành bảo Trần:
- Bây giờ tôi biết rành nghề mộc.
- Ông làm nghề mộc là làm những thứ gì?
- Ðóng bàn ghế, tủ, giường. Không thua mấy thứ bày bán ở đường Trần Quý Cáp đâu.
Trần nói:
- Bọn mình làm bằng máy, Sản xuất hàng loạt các mặt hàng xuất khẩu. Không kiểu cọ công phu nhưng cần sự chính xác. Nhưng mình nghĩ ông không nên bỏ nghề dạy. Cũng đang thiếu giáo viên lắm. Ông còn nhớ Mộng Hòa không? Chồng cổ bây giờ làm trưởng phòng tổ chức bên Sở giáo dục.
Thành kêu lên:
- Ô, Mộng Hòa. Hồi tranh cử ở đại học sư phạm, hai đứa cãi nhau quá trời. Nhưng mà rất vui. Tôi hồi đó có biết gì đâu. Chẳng biết chị ấy còn giận tôi không.
- Chuyện cũ đã qua rồi, Trần nói, bây giờ ai cũng lo xây dựng đất nước, còn giận hờn làm quái gì. Ông mồi giúp tôi điếu thuốc.
Thành đốt thuốc đưa cho Trần, Trần cầm điếu thuốc khó khăn bằng cả hai bàn tay chụm lại.
- Những ngón tay này đã hóa đá cả rồi. Có khi mình lại thấy chúng nó giống như những cái rễ cây, rễ cây cẩm quỳ trong những minh họa nơi cuốn Le Petit Prince của Saint Exupéry.
- Ông đừng khôi hài nữa Trần ạ, tôi nói, hãy trở lại chuyện đồ gỗ đi.
- Chưa quyết định được, Trần nói trong khói thuốc lá, mình sẽ hội ý với bộ phận kinh doanh. Nhưng chắc chắn mình sẽ giúp ông, Thành ạ. Ông yên tâm đi.
Thành hỏi:
- Bao giờ gặp lại anh?
- Sáng chủ nhật.
Thành ra về rồi tôi mới đem ly tách đi rửa sạch và xếp gọn trên cái bàn nhỏ. Trần nằm xuống giường thuận tay vói lấy một điếu thuốc trong bao.
Tôi hỏi Trần khi ngồi lại bên giường với anh:
- Hình như xưởng gỗ thừa người mà. Sao ông lại tính chuyện đưa nó vô?
- Mình không thể bỏ nó lúc này được, Trần nói mà mắt không rời trần nhà, lúc này nó dễ sa ngã.
- Nó chỉ ngã theo kẻ mạnh chớ không ngã theo ai khác đâu. Tôi biết rõ con người đó.
- Không hẳn thế. Tôi hỏi ông vậy tại sao lúc mới giải phóng nó lại tham gia vào một tổ chức phản động đến nỗi phải bị đưa đi cải tạo?
- Tại vì lúc đó nó nghĩ rằng những kẻ kia còn mạnh.
- Dẫu sao nó cũng đã đến đây, tình cảnh cũng đáng thương, mình không thể không giúp nó được.
- Tình cảnh nó đáng thương, nhưng ông thử nghĩ xem, trong cuộc đời rộng lớn này còn biết bao người đáng được thương hơn thế nhiều. Nguyễn không đáng thương hơn sao? Một thằng tham gia kháng chiến như thế, tâm hồn trong sáng như thế, tài năng như thế, yêu đương như thế, vậy mà người yêu bỏ đi lấy chồng. Vì sao? Ông thấy có kỳ không? Có đáng thương không? Còn nhiều lắm, nhiều kẻ đáng để chúng ta thương hơn Lê Văn Thành chứ. Những người đã hiến một phần thân thể cho cuộc chiến vừa qua, những người tàn tật suốt đời.
Trần chợt cười lên một tiếng khô:
- Còn nữa chứ. Còn cái kẻ đang nằm trước mặt ông đây. Sao ông không kể luôn đi.
- Xin lỗi. Tôi buột miệng nói.
Và tôi muốn lái sang chuyện khác để tránh gây xúc động cho anh nhưng Trần đã nói:
- Nguyễn đáng thương nhưng nó còn những người an ủi. Nó có những khả năng mà người khác không có được. Khi buồn xách cây đàn ra là nó có niềm vui rồi. Còn tôi, tôi có gì? Tôi có gì ngoài những thứ thuốc mỡ thoa khắp mình mẩy mỗi ngày bốn lần, ngoài những đêm mất ngủ nằm lắng nghe nhịp đập kỳ quặc của trái tim, ngoài những khó khăn trong đi đứng sinh hoạt, ngoài những cơn đau nhức kéo dài không phải trong một vài giờ, một vài ngày mà hàng tháng hàng năm? Thực ra nếu tôi không hiểu rằng mình và những đồng chí mình, những người lao động khác đang sống có mục đích rõ ràng và tốt đẹp thì chắc tôi không chịu đựng nổi ba cái thứ này.
Trần lại nhìn bàn chân và những ngón tay mình. Và anh nói tiếp:
- Thằng Nguyễn nó kêu khổ, sao nó không nghĩ đến tôi? Tôi cũng có tuổi thanh xuân của tôi chứ, cũng có những khao khát tình yêu chứ. Tôi cũng mơ ước có một mái ấm gia đình. Và ông hiểu không? Nhiều khi muốn có một đứa con kinh khủng. Thấy chúng nó chạy chơi ngoài sân (lũ con mấy đứa trong cơ quan) cứ thích gọi chúng lại đùa với chúng một tí vuốt ve chúng một tí. Nhưng tôi làm thế sao tiện? Phải không? Chắc gì chúng đã chạy đến khi tôi gọi. Lại phải cứ giữ cái vẻ nghiêm trang xa cách. Kỳ thực tôi có muốn xa cách đâu. Tôi khát khao được gần với tất cả mọi người, mọi cảnh đời hơn bất cứ một người nào khác, thế mà không thể gần được. Ðối với tôi bây giờ thì sự thiết tha cũng trở thành lãnh đạm, sự gần gũi cũng trở thành xa lạ, sự quan tâm đến mỗi anh em trong cơ quan, trở thành những nguyên tắc, những lệnh. Tôi nào có muốn thế đâu, chính bệnh tật đã buộc tôi như thế. Ðó là điều đau xót của tôi. Cũng như ngày mới giải phóng tôi ở trong rừng về mang bên lòng biết bao tình cảm láng giềng chòm xóm. Muốn gặp tất cả mọi người, muốn hỏi han trò chuyện nhưng lại ở im trong nhà, ngại, không tiếp ai. Lúc đó tay chân của tôi cũng đã hóa đá rồi. Tôi cứ nghĩ, tại sao mình lại lâm vào một tình thế như thế này? Mình là kẻ chiến thắng trở về mà? Ðáng lẽ mình tự hào, cười nói, bắt tay, đi thăm chỗ này chỗ nọ. Ðáng lẽ bà con bạn bè cũ tới hỏi han, lắng nghe mình nói, chiêm ngưỡng mình như một người hùng cách mạng… Vậy mà phải lánh mặt, phải ngại khi đón cái nhìn của người khác.
Giá tôi bị cụt tay, cụt chân, hay bị một vết thương trên mặt thì điều đó chẳng có ảnh hưởng gì cả, đôi khi nó có thể là một niềm tự hào nữa. Nhưng đàng này không phải thế. Một người đi kháng chiến đánh Mỹ, trở về với bệnh tật kỳ quặc. Làm sao người ta có thể hiểu được những nguyên nhân sâu xa của bệnh tật này?
Lần khác, đang đi ngoài đường bỗng gặp một người bạn cũ. Anh ta mừng lắm. Mình cũng cảm động trước tình cảm của anh ta nhưng không thể chìa cái bàn tay tàn tật ra cho anh ta bắt mà cứ giấu chúng trong túi quần. Về sau dường như người bạn ấy có than phiền với ai đó rằng "cả gần mười năm xa cách gặp lại nó, nó không thèm bắt tay".
Tôi ngạc nhiên khi bỗng nhiên hôm nay Trần nói nhiều như thế và tôi tưởng anh đã dừng lại, nhưng có lẽ tất cả những gì anh giữ kín trong lòng bấy lâu nay bây giờ đã tới lúc nó vỡ bờ rồi.
- Một hôm Ngọc Sương đến tìm tôi, Trần nói tiếp, ông còn nhớ Ngọc Sương không? Cô gái đi cái xe PC đỏ, ở trước mặt nhà mình ấy?
- Nhớ, cái xe sáng nào cũng hư chứ gì?
- Lúc ấy tôi đang ngồi đọc sách trong phòng thì đứa cháu gái vào và nói là có cô Ngọc Sương đến tìm. Cái tên ấy làm tôi giật mình. Từ khi ở chiến khu về tôi vẫn thường nghĩ đến nhưng lại không dám gặp mặt. Ðôi khi muốn hỏi người nhà về Sương nhưng lại ngại người khác đọc được ý nghĩ mình. Tôi cứ ở trong sự mâu thuẫn kỳ quặc như thế. Cho nên khi nghe nói có Ngọc Sương đến, tôi gần như hoảng hốt, thiếu điều tìm chỗ chạy trốn. Tôi bảo đứa cháu: Cháu nói với cô Sương là chú đang bệnh, có gì cô Sương viết giấy để lại. Nhưng khi đứa cháu quay đi thì tôi gọi giật lại. Thế rồi không hiểu sao tôi quyết định tiếp cô ấy. Tôi thay quần áo, mặc áo dài tay cài măng-sét và tự bảo mình phải dũng cảm nhìn thẳng vào thực tế, và trước mặt cô bạn cũ mình phải là một người có bản lãnh có nghị lực và không hề mặc cảm về sự tàn tật của mình. Ít ra mình cũng phải để lại trong tâm hồn người con gái mà ngày xưa mình đã tha thiết yêu một ấn tượng đẹp nào đấy về con người của mình, một người chiến sĩ cách mạng.
Tại sao mình không thể kể cho Sương nghe về những gian khổ mà mình đã trải qua trong rừng, trên đất Campuchia và chuyến vượt Trường Sơn ra Bắc giữa bom pháo? Tại sao Sương lại không thể nhìn sự tàn tật của mình bằng một cái nhìn chia sẻ, kính phục với tất cả những tình cảm sâu xa từ ngày xưa? Những ý nghĩ đó làm tôi can đảm và tự tin.
Thế rồi tôi bước ra phòng khách. Thật không ngờ ông ạ. Người đứng lên chào tôi không phải là Ngọc Sương nhỏ nhắn tinh nghịch ngày xưa mà là một người đàn bà mập mạp búi một cục tóc to sau gáy, mặt đầy son phấn và đang mang bầu. "Anh Trần! " Người đàn bà kêu lên khi nhìn thấy tôi. Tôi mĩm cười với bà và mời bà ngồi xuống ghế.
Chính đó là Ngọc Sương chứ không phải ai khác. Cách nhau chưa đầy mười năm mà một cô gái tinh nghịch hồn nhiên đã biến thành một người đàn bà như thế. Sự ngỡ ngàng làm tôi quên bệnh tật của mình. Tôi ngồi im, hai bàn tay để trên đùi. Tôi không biết phải xưng hô với Sương như thế nào. Gọi Sương bằng em như ngày xưa hay bằng chị? Ngay cả gọi cái người đàn bà chững chạc đẫy đà và bệ vệ ấy bằng cái tên Sương, tôi đã thấy cả một cái gì vô cùng gượng ép vô cùng lỳ cục rồi đừng nói là gọi bằng em. Cuối cùng tôi gọi bằng chị. Như thế tạm ổn.
Ở phía Ngọc Sương thì đơn giản hơn. Sau một thoáng ngạc nhiên khi nhìn thấy hai bàn tay bị tàn phá của tôi. Sương lấy lại bình tĩnh rất nhanh. Vẫn xưng em và gọi tôi bằng anh. Sương hỏi vì sao hai bàn tay của tôi lại như thế, tôi chưa kịp trả lời thì cô gái đã nói: Bọn nó tra tấn anh chớ gì. Cái khi anh vừa ra đi được vài hôm là bọn Thiệu có chiếu hình anh trên Ti-vi, nó nói anh là tên Việt cộng nằm vùng đội lốt giáo sư, nó bảo đã bắt được anh trên đường anh trốn ra chiến khu. Nó tra tấn anh cách nào mà hai bàn tay anh tan nát như thế?
Tôi cố tìm cách giải thích cho Sương hiểu rằng đó không phải là do tra tấn mà do… do thế nào? Giải thích sao đây?… thì bỗng nhiên Sương cầm lấy bàn tay tôi, sờ lên những chỗ xương đã hóa đá, và khóc. Ðó là điều quá bất ngờ đối với tôi. Thế đấy, ông ạ. Cái con người mà trong phút đầu gặp lại tôi nghĩ là đã biến chất, đã thành một người nào khác thì vẫn còn mang bên trong một tấm lòng.
Tôi không nghĩ là Sương yêu tôi đâu ông ạ, nhưng đó là biểu hiện của một tâm hồn, một tấm lòng tình nghĩa. Suốt đời tôi sẽ cám ơn Sương về những giọt nước mắt ấy. Những giọt nước mắt tôi chưa thấy ở ai ngoài mẹ tôi. Kể cả chuyện cầm tay nữa. Bạn bè chiến đấu vui buồn có nhau suốt bao nhiêu năm nhưng khi đến thăm tôi đã có mấy ai cầm tay tôi để xem bệnh tật thế nào, vậy mà Ngọc Sương đã cầm, đã vuốt ve những cái vảy nến trên lớp da bị tàn phá.
Tôi xúc động quá nhưng tôi muốn giấu nó đi, tôi nó: Cám ơn chị vô cùng, chị Sương ạ. Nhưng thôi những chuyện cũ hãy cho nó qua đi. Cuộc chiến tranh quá dài, làm sao tránh khỏi những đau xót. Còn có biết bao nhiêu nỗi khổ đau lớn hơn thế này nữa. Sương lấy khăn thấm nước mắt và lấy trong xách tay ra một hộp thuốc bổ cho tôi. Tôi cám ơn Sương và hỏi: Sương còn đi chiếc PC hồi trước không? Không anh ạ. Hồi nào có chuyện đi xa thì em nhờ ông xã chở. Chiếc PC em bán rồi. Hư hoài. Thế chị được mấy cháu rồi? Sương có vẻ ngượng. Bảy đứa anh à, nuôi không nổi. Chợt nhớ, Sương tiếp: Em có nhận được của anh một lá thơ đóng dấu bưu điện ở Sa Ðéc. Cầm cái thư mà em cứ nghĩ hoài, chẳng lẽ bây giờ anh lại ở Sa Ðéc sao. Em nghĩ ngây thơ rằng chắc những người ở trong rừng muốn liên lạc về nhà thì phải lén ra thành phố mới bỏ thư được. Tôi cười, nói: Hồi đó căn cứ của bọn tôi cách thành phố không xa lắm. Mỗi ngày có giao liên, có khách ra vô, đôi khi có thể gửi nhờ một cái thư được. Sương nói: Vậy mà khi nhận được thơ anh, đọc thơ anh vẫn cứ tưởng như một cái thơ bình thường. Từ đó về sau em chẳng hề biết một tin gì về anh.
Buổi gặp ấy không hiểu sao làm tôi rất vui ông ạ. Gần như nó đã làm thay đổi một cái gì đó trong tôi. Không biết khi ra về, Sương có thán phục tôi như tôi mong ước không, nhưng còn tôi, tôi thán phục Sương quá. Sương đã làm cho tôi tin tưởng ở con người hơn, tin tưởng ở chính mình hơn và tôi từ bỏ được mặc cảm của một người bệnh tật. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm như người vừa trút được một gánh nặng. Bệnh tật đối với tôi dần dà trở thành một cái gì rất bình thường. Tôi nói về nó, mô tả nó cho người khác một cách tự nhiên và tôi sống cũng dễ chịu hơn.
Trần tiếp lấy ly nước trong tay tôi, uống một hơi dài.
Nắng bên ngoài chỉ còn ánh lên một chút vàng trên khung cửa kính. Tôi bỏ ra ngoài ban công. Thành phố buổi chiều bỗng nhiên mới hẳn. Tôi như vừa từ một cõi nào khác bước vào cuộc đời và chợt thấy như những người đang đi dưới đường kia, những xe cộ đang chạy vùn vụt kia không hề nghĩ đến thời gian. Họ sống vô tư, dễ dàng và sung sướng. Thế sao trần, sao tôi, sao Nguyễn không tìm được chút thanh thản cho cuộc sống mình?
Tôi gom những chiếc lá khô lại ném xuống dưới sân. Những chiếc lá nhẹ tênh rải xuống bãi cỏ. Cỏ xanh đến lạ lùng. Ngày sắp hết mà cỏ vẫn tươi xanh như trong buổi mai rực rỡ.
Trần đến phía sau lưng tôi. Anh cười, hỏi tôi đang nhìn gì. Tôi bảo anh hãy đến, hãy đến và nhìn xuống đường xem người ta đi qua đi lại rất hồn nhiên, hãy đến để xem họ sống dễ dãi và hạnh phúc biết chừng nào.