← Quay lại trang sách

Vó ngựa

Lời bàn: Tôi cho rằng các thể loại văn chương cũng giống như một chiếc lồng sắt đang nhốt từng đàn chim ngớ ngẩn “tác gia” hoặc “thi nhân”. Tất cả mọi người đều đang bay ở trong chiếc lồng ấy và đang thi đua với nhau xem thử ai bay biến hóa nhất, lỡ có ai đó đâm thẳng vào lưới sắt tất yếu sẽ gặp phải sự chửi bới, trào lộng. Có một ngày, một con chim chín đầu đâm thẳng vào lưới sắt và làm cho không gian trong lồng trở nên rộng hơn, thoáng đãng hơn, tất cả những con chim còn lại bay được thỏa sức hơn. Rồi lại có một ngày, một bầy chim chín đầu húc vỡ toang chiếc lồng, nhưng chúng không thể bay thẳng lên chín tầng mây xanh để rồi lại chui vào một chiếc lồng mới mà thôi. Thơ tứ tuyệt, thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn, thơ tự do, truyền kỳ đời Đường, thoại bản đời Tống, tiểu thuyết Minh Thanh… Một thể loại văn học mới hình thành không phải một sớm một chiều nên sau khi đã hình thành cần phải có một thời gian ổn định, cần phải có một quy phạm thẩm mỹ - chiếc lồng. Những con chim chín đầu không ngừng húc vào đó để nới rộng thêm, nhưng trước khi húc nát chiếc lồng, chúng phải có một thời gian để bay trong ấy. Bên trong ấy có lẽ là có chút ít ý vị triết học Mác!

Những con chim một đầu như chúng tôi, nhờ vào những đại sư phụ chín đầu nới rộng không gian trong lồng, gắng gượng chao đôi cánh mỏi mệt mà tự cảm thấy “tri túc”.

Khi chúng tôi từ nhà hàng ăn uống “Không nói ngoa” trong vùng du lịch sinh thái tận sơn lâm cùng cốc vừa mới khai trương bước ra thì đã giữa trưa. Trong khe núi, mây mù đặc quánh ùn ùn xông lên, những lối đi trên đá gập ghềnh trải đầy một thứ ánh sáng vàng vàng. Không biết mặt trời ở nơi nào, chỉ thấy những chỗ da thịt để lộ ra ngoài như bị muôn ngàn mũi kim châm vào, mồ hôi dâm dấp nhưng không thể chảy thành dòng, toàn thân như bị phủ một lớp keo đặc quánh. Khi gặp nhau vào năm ngoái, anh trai tôi bảo khí hậu Hồ Nam rất nóng, miệng tôi nói huyên thuyên không hề hấn gì và trong lòng cứ nghĩ là anh trai mình quan trọng hóa vấn đề. Nhờ bản tin dự báo thời tiết trên ti vi mà tôi biết nhiệt độ ở Trường Sa không hơn ở Bắc Kinh bao nhiêu (mà ở Bắc Kinh chưa bao giờ tôi cảm thấy khó chịu về nhiệt độ cao cả), bây giờ tôi mới thấm thía, thấm thía ngay trong buổi sáng đầu tiên đặt chân lên thành phố Trường Sa. Những người buôn bán nhỏ trên các đường phố Trường Sa ai ai cũng như những con cua say nắng, người đi đường lặng lẽ cúi đầu lê bước, không đủ sức ngắm nhìn quang cảnh phố phường. Ngồi trên chiếc xe khách cà tàng đi về Thường Đức, khi xe chạy ngang qua chiếc cầu lớn bắc ngang Tương Giang, tôi ngẩn người nhìn dòng nước sông đục như nước đậu xanh nấu nhừ, chỉ có vài chiếc thuyền bé xíu đen ngòm đứng im lìm như chết trên mặt nước. Mặt nước sông bàng bạc một màu vàng đục đặc quánh, tìm đâu ra cảnh nước trong thấy cá lội tung tăng dưới đáy nước, cũng như cảm xúc nghe tiếng cây lá rì rào trong gió mà tiếu ngạo thiên hạ nhỏ bé như trong lòng bàn tay trong bài từ “Tẩm viên xuân” của Mao Trạch Đông, mà tôi đã thuộc lòng từ nhỏ? Hay là thời điểm tôi đến đây không trùng hợp với thời điểm Mao Trạch Đông sáng tác bài từ này? Những khoảnh đất trồng quít uốn lượn trông như một người thiếu nữ không chịu nổi cái nóng thiêu đốt nên đã trút bỏ xiêm y nằm bên bờ sông, thân thể đầm đìa mồ hôi, chờ cho đến mùa thu se sắt, nàng sẽ khoác xiêm y vào và trở mình ngồi dậy. Tôi đang cố gắng tìm tòi và chờ đợi cơ hội đến Hồ Nam vào mùa thu.

Bà chủ quán ăn “Không nói ngoa” đã bỏ ít nhất gần nửa lạng ớt vào trong bát miến hai lạng của tôi, cay xé lưỡi, vừa nếm vào là lưỡi tôi đã co giật như nếm phải thuốc độc. Rời khỏi quán ăn rồi mà tôi vẫn còn cảm giác lục phủ ngũ tạng của mình như đang bị đốt trong lò, những giọt mồ hôi rịn ra có cảm giác đỏ một cách rõ ràng, mỗi lỗ chân lông đều đang phát nhiệt. Đất mới khai phá, đường sá cheo leo, muốn lên được xe thì chúng tôi phải đi bộ hơn năm cây số, may mà con đường dằng dặc ấy xuyên qua một khe núi, phong cảnh trong khe ly kỳ hiểm quái chẳng khác nào trên thiên đường. Chỉ một tiếng gọi “Đi!” là mọi người nhất tề xông lên, tiến thẳng vào khe núi vài trăm mét mới quay đầu vọng về quán “Không nói ngoa”, nhìn tấm vải bố đỏ như lửa trông chẳng khác nào một tấm da bò treo bên thềm mà chạnh nhớ những tấm bảng quảng cáo, nào là những loại thuốc như “Diệu thủ hồi xuân”, “Hoa Đà tái thế”… mà lòng bỗng thấy mênh mang.

Đã từng vượt qua ba con sông tỉnh Hồ Nam, chân đã lê trên những con đường của ba thành phố tỉnh Hồ Nam, trèo lên mấy ngọn núi của tỉnh Hồ Nam, trên những chiếc xe khách lấm láp bụi đường phóng mắt ngắm nhìn đồi núi nhấp nhô hòa với cỏ cây thành một khối, thiên biến vạn hóa, trầm mặc ngạo nghễ chẳng khác nào mãnh hổ đang lim dim mơ màng. Thiên nhiên Hồ Nam có những nét rất riêng, chất riêng ấy lặng lẽ như những đồ gốm cổ thô ráp nặng nề, dâm dấp máu huyết người xưa, xán lạn huy hoàng pha mùi man dã. Nghĩ nhiều về bao bậc phong lưu anh kiệt ra đi từ vùng Tam Tương này để đến với đời, hú gió gọi mây, dời non lấp bể, dưới đôi chân đất bằng nổi sóng, mà trong lòng không thể chế ngự được nỗi buồn phiền, không biết bây giờ các bậc ấy đi về nơi đâu?

Khi đặt chân trên “Thập lý họa lang”, có vài cơn gió hiu hắt thổi đến, những lỗ chân lông trên toàn thân như muốn nở bung ra. Nghe đâu trong “hành lang được trang trí bằng tranh mười dặm” này có sông nhưng đi mãi mà chẳng thấy sông đâu, có chăng là con mương nông choèn bên phải, chen dày dưới đáy mương là những viên đá hình trứng ngỗng, bề mặt phủ một lớp vôi trắng. Có lẽ đây chính là sông. Bên trái là vách đá sừng sững, những giọt nước treo trên lá cỏ như những giọt nước mắt tí tách rơi xuống, một vài bạn đồng hành đưa những chiếc lưỡi hồng hồng ra đón lấy những giọt lệ đá ấy. Tôi bắt chước làm theo. Nước có vị mằn mặn và chất chứa bao nỗi buồn đau của núi rừng. Ban đầu, chúng tôi phải dò dẫm từng bước khó khăn trên những viên đá nằm ghép bên nhau chẳng theo một quy luật nào nên khi giẫm chân trên đường bằng phẳng, dáng đi của chúng tôi vẫn chưa kịp trở lại bình thường, nhìn dáng đi của người phía trước mà nhận ra dáng đi của chính mình, không nín được đành cười lên thành tiếng, cổ họng khô khốc nên tiếng cười phát ra cũng chẳng tròn trịa gì. Quả thật là phong cảnh trong khe núi đẹp vô cùng, những đỉnh núi đột ngột nhô cao với đủ các hình thù kỳ dị, có lẽ ngôn ngữ con người sẽ bất lực khi muốn miêu tả chúng. Người có trí tưởng tượng đưa tay chỉ Đông chỉ Tây tha hồ ví von, nào là ngọn này nên gọi là Chó biển, nào là ngọn kia xứng hiệu Tây Thi… Tôi nhìn theo ngón tay họ mà phản đối thầm. Núi cuối cùng vẫn cứ là núi, gọi tên cho nó chỉ có ý nghĩa phù hiệu, vì một cái tên mà cố nặn ra một chuyện truyền kỳ để gán cho nó chính là một sự miệt thị đối với tự nhiên.

Càng đi càng lạc vào cõi thâm u. Tán cây từ hai bên vách núi trùm xuống. Trong rậm rạp những là cây, tôi chỉ nhận ra mỗi một loại cây tùng, còn lại toàn là những loài cây chưa hề thấy qua. Những cây tùng đáng thương như đang chăm chú nhìn tôi, còn những loài cây tôi không quen biết thì đang nhắm mắt dưỡng thần, hình như đang biểu thị một thái độ “khinh miệt lớn lao” đối với tôi. Tôi đang bị thái độ khinh miệt ấy làm cho cong gập người, tiếng thở cũng trở nên hổn hển. Thi thoảng tiếng ve lại nổi râm ran trên cây - thực ra thì tôi không chắc đó là tiếng ve. Cô gái vóc người nhỏ thó mang giá vẽ trên lưng khẳng định đó là tiếng ve - Tiếng ve kêu cũng như tiếng ếch nhái kêu ở bờ ao phương Bắc, ướt át mượt mà, có độ vang rất lớn. Nếu đó là tiếng ve - tôi nghĩ - nó cũng là một loại thanh âm trầm hùng ngạo nghễ. Núi sông Hồ Nam trầm hùng ngạo nghễ tất nhiên cũng sẽ sản sinh một loại tiếng ve mang chất trầm hùng ngạo nghễ. Loại ve có tiếng kêu như ếch nhái phương Bắc này có thể ăn cả bọ ngựa - tôi nghĩ. Tôi lại nghĩ, loài bọ ngựa ở đây lẽ nào lại không trầm hùng ngạo nghễ sao? Chúng có thể dùng càng cắt phăng đầu chim sẻ đấy chứ! Còn chim sẻ ở đây thì sao? Giả sử có loại chim sẻ… Thật không dám tưởng tượng nữa, nhưng nếu không có một dạng thiên nhiên thô ráp như đồ sành sứ giản đơn thấm đẫm máu huyết bao thế hệ, thì làm gì có một nền văn hóa Sở huy hoàng tráng lệ đến thế. Hàn Thiếu Công, một nhà văn Hồ Nam trong sách “Gốc rễ của văn học”, trong khi khảo sát hướng di chuyển của văn hóa Sở, vị này đã nghe một nhà thơ nói rằng văn hóa Sở đã di chuyển lên phía Tây sông Tương. Tôi thiết nghĩ, nếu Tương Tây không phải là một vùng “bế quan tỏa cảng”, nếu Tương Tây lầu cao gác tía mọc lên như nấm rừng, đường ngang ngõ dọc chằng chịt, nông dân nhà nhà có xe hơi, có dương cầm, đại phổ cập văn hóa, đời sống kinh tế nâng cao… văn hóa Sở còn có chỗ dung thân tại đấy không? Chỉ nghĩ đến đó, lòng tôi đã dấy lên một nỗi sợ hãi. Té ra muốn bảo tồn văn hóa truyền thống thì con người phải lấy lạc hậu, ngu muội làm tiền đề sao? Các tập tục truyền thống lâu đời sau những biến động mới về kinh tế chính trị cũng như những thay đổi về môi trường tự nhiên, đại bộ phận đều đã mất đi cái vẻ trang nghiêm huy hoàng vốn có, biến thành một dạng thức có xác nhưng vô hồn. Chẳng hạn như những cuộc đua thuyền rồng tháng năm mà người tham gia đua thuyền lại đeo đồng hồ điện tử trên tay, thử ngẫm xem, nó là một hoạt động quái quỷ gì? Giả sử chuyện ấy đã và sẽ xảy ra, thế thì hỏng bét. Vùng Tương Tây tất nhiên không cam tâm chịu lạc hậu, không cứ phải “bế quan tỏa cảng” mãi, rồi sẽ có một ngày nó trở thành một vùng đất mở, lẽ nào văn hóa Sở tuyệt mệnh hay sao? May thay, tôi vẫn cho rằng văn hóa Sở là một khái niệm có nội hàm vô cùng uyên thâm, một bộ phận của nó đích xác là vẫn được bảo tồn ở một số “vùng trũng” của Tương Tây mà biểu hiện cụ thể là trong một số phong tục tập quán cổ xưa, tục sùng bái totem; một bộ phận khác, như những sáng tác của Khuất Nguyên, tất nhiên đã hòa nhập vào trong dòng chảy cuồn cuộn văn hóa chung, bồi dưỡng nên không biết bao nhiêu thế hệ người Trung Quốc, thậm chí nó đã biến thành một nhân tố có tính di truyền, muốn trốn tránh cũng không trốn tránh được.

Lúc ấy có tiếng vó ngựa rầm rập vang lên từ phía sau, vội vàng ngoái đầu nhìn lại, tôi trông thấy bảy tám con ngựa rực rỡ đủ sắc màu, trên lưng mỗi con là một kỵ mã. Mọi người tránh giạt về hai bên đường, nhất thời quên phắt chuyện nóng nực, đưa mắt kinh hãi nhìn đội người ngựa. Có ngựa vàng, có ngựa đen, có ngựa đỏ bầm, không có ngựa trắng. Đột nhiên tôi nhớ đến thuyết “ngựa trắng không phải là ngựa” của Công Tôn Long. Trong sách giáo khoa triết học, Công Tôn Long biến thành kẻ ngụy biện và tất nhiên “ngựa trắng không phải là ngựa” chẳng có giá trị gì. Đằng sau những lời nhận định của sách giáo khoa, tôi lại nhìn thấy một Công Tôn Long ngẩng đầu nhìn trời cao bằng đôi mắt ngạo ngược, kiểu ngồi cũng ngạo ngược, ngay cả trời sập và những tảng đá đổ xuống ào ào trước mặt vẫn không hề nháy mắt. “Ngựa trắng không phải là ngựa” chính là “ngựa trắng không phải là ngựa”, quan tâm làm chi đến chuyện tiên sinh nhầm lẫn logic như thế nào, chỉ một cái mệnh đề rất “oách” này cũng đã khiến tiên sinh trở nên vĩ đại rồi! Mấy mươi năm nay, thực ra là chúng ta đang sử dụng một phương pháp biện chứng quá đơn giản để giải thích thế giới, những kết luận đưa ra tự cho là đầy đủ nhưng thực chất lại đầy rẫy những yếu tố ngụy biện. Công thức hóa văn học, giản đơn hóa văn học lẽ nào không liên can gì đến vấn đề trên sao? Tôi cho rằng, mỗi một tác gia đều phải có tinh thần “ngựa trắng không phải là ngựa”. Dám lập ngôn là điều tốt, Hàn Thiếu Công bảo văn hóa Sở đã chuyển về Tương Tây thì cứ để nó về Tương Tây! Ông ấy có lý lẽ riêng của mình, ẩn tàng trong những con chữ do ông ấy viết ra, người ngoài cuộc khó lòng lý giải thấu đáo, vung bút viết mấy câu bình luận phủ nhận một cách tự tiện là không nên. Những ai phê phán logic hình thức của người khác thì người ấy có chút ngốc nghếch - kỳ thực, tất cả chúng ta đều có thể cất giấu những suy nghĩ riêng trong lòng, thế mới gọi là người có “võ”.

Đang nghĩ đến “võ” của riêng mình, tôi đưa mắt nhìn những con ngựa. Những khóe miệng sùi đầy bọt trắng, toàn thân mồ hôi lấp lánh, vó giẫm xuống đá viên hình trứng ngỗng, tiếng vó khô khốc vang lên. Trông chúng chạy rất nhẹ và nhanh nhẹn nhưng tôi phát hiện từ bên trong, xương cốt chúng đang biểu lộ sự bất bình, chúng gượng gạo, thẳng đuột và rõ ràng, chúng đã mất đi sự tự do, “cưỡi ngựa mà không phải cưỡi ngựa vậy”. Trang Chu đã từng viết trong thiên “Mã đề” như sau: “ Ngựa, vó có thể đạp sương tuyết, lông có thể chế ngự gió lạnh, gặm cỏ uống nước, ghếch chân mà đứng trên đất; đó là chân tính của ngựa vậy. Dẫu có đài cao, cung đẹp, chúng đâu cần dùng. Bá Nhạc nói: “Ta trị ngựa rất giỏi. Rồi đốt lông cắt bờm, xẻo móng, buộc đầu, mang yên cương cho nó, giam nó vào máng cỏ, thế là ngựa mười phần chết đến hai ba phần. Bỏ nó đói, bắt nó khát, buộc nó chạy, đánh nó quần; đằng trước có cái nạng mang hàm thiếc, đằng sau có cái uy của roi vọt. Thế là ngựa chết hơn một nửa.” Ngựa vốn tiêu dao giữa cõi đất trời, đói ăn cỏ non, khát uống nước ngọt, ăn sương nằm tuyết mà hưởng trọn niềm sung sướng; không bị trói buộc, không bị quản thúc mới đáng được gọi là “chân mã”, không đánh mất bản tướng của ngựa, thế mới có cái khí độ của rồng của hổ. Dưới ngòi bút của Từ Bi Hồng, ngựa không bao giờ đeo hàm thiếc buộc yên cương, có lẽ là do đạo lý ấy mà ra. Nhưng con người lại nhét hàm thiếc vào miệng nó, buộc yên cương trên lưng nó, lúc giận thì đòn roi tới tấp, lúc thương thì thưởng đậu thưởng đường, ân nghĩa và quyền uy đồng thời giáng xuống mình ngựa, cương nhu đồng thời thi thố trên mình ngựa, cho nên ngựa có thể mập mạp cường tráng nhưng làm sao đọ được với hình hài mẫn tiệp săn chắc ban đầu. Con người là loài tàn nhẫn, bá đạo nhất trên địa cầu này… Và bỗng nhiên, tôi cảm thấy căm ghét những kỵ mã đang ngồi trên lưng ngựa vô cùng. Nhưng, ngay lập tức tôi đã phải phủ định chính mình. Thiếu ăn thì sẽ thèm ăn vô cùng, đó là một quy luật của giới tự nhiên, thế giới loài người cũng không là một ngoại lệ. Tôi vẫn thường nghe người ta nói: “Trong xã hội cũ… con người phải chịu một cuộc sống không phải là con người.” Con người mà phải chịu bất kỳ một sự quản thúc của một người khác thì không phải là con người. Như thế thì “ngựa bị người cưỡi không phải là ngựa” có lẽ cũng không phải là một logic sai. Đem ngựa so với người, có lẽ là một sự so sánh khập khiễng về mặt “loại”, nhưng không phải là ngày nào chúng ta cũng đang so sánh như thế sao? Khổng Phu Tử khi nghe Tử Lộ bị muôn ngàn vết thương mà chết, ngài bèn bảo đầu bếp vất bỏ toàn bộ thịt băm trong bếp (thời kỳ phê Khổng đấu Nho đã từng cho chuyện này là bịa đặt); trong tác phẩm văn học những năm gần đây, không phải đã có những sinh linh bé nhỏ được các nhà văn vĩ đại ký thác tinh thần nhân đạo cao cả sao?

Nói ngoài miệng thì dễ nhưng thực hành thì khó vô cùng. Tôi hận bọn kỵ mã vì thực ra tôi không có ngựa để cưỡi, do vậy mà Khổng Phu Tử vất thịt khiến tôi cảm thấy tiếc. Trong số những tác gia nhỏ bé hiện nay liệu có mấy người là hòa thượng? Nói một đường làm một nẻo chính là thiên tính của loài người.

Khi đội người ngựa đến trước mặt chúng tôi, có lẽ để hỏi đường, cũng có lẽ là do đường đi bên mép nước quá nguy hiểm nên tất cả đều đã xuống ngựa. Tất cả đều trọc đầu, tất cả đều mặt đen, tất cả hoặc là phanh ngực hoặc trên mình chỉ có tấm áo may-ô trống hoác, mang giày cỏ hoặc ủng cao cổ, trên lưng áo đều có một mảnh vải trắng trông như một vầng trăng tròn, trên đó dùng mực đen viết một chữ “dũng” to bằng nắm tay. Có hai người trên lưng đeo cung tên, hai người đeo dao bên hông. Tất cả ngựa đều đóng yên cương, dưới yên treo toòng teng một khẩu súng trường buộc vải đỏ, một thanh đao to bản và một vài hành lý khác, giọng nói khác với người Hồ Nam, không biết nhóm thổ phỉ nào đang xuống núi đây?

Cưỡi trên con ngựa màu tía là tay thanh niên có dáng vẻ đầu mục, thân thể cao gầy, trông rất tuấn tú. Toàn thân con ngựa tía được phủ rất nhiều dây tua, trên cổ lại đeo một chiếc lục lạc, những tiếng kêu leng keng vui tai vang lên không ngớt. Tay trái dắt ngựa, tay phải đè lên chuôi dao giắt trên thắt lưng, với những bước đi như hổ báo, anh ta đi đến trước mặt tôi. Tôi đang lúng túng không biết ứng phó như thế nào thì anh ta đã nở một nụ cười để lộ đôi hàm răng vàng khè hỏi tôi: Đồng chí, về nhà khách có phải đi lối này không? Tôi đáp bừa là đúng. Gã mặt sẹo dắt con ngựa đen, nói: Đại Văn, còn thuốc lá không? Cho vay một điếu, thèm quá! - Vay gì, chỉ thấy vay mà không thấy trả! Nói thế nhưng gã dắt con ngựa tía cũng rời bàn tay khỏi chuôi dao, mò trong túi áo lấy ra hai điếu thuốc, đưa lên miệng mình một điếu, gã vay thuốc đánh lửa châm thuốc cho mình và cho người cho vay thuốc. Từ trong lỗ mũi của cả hai, bốn luồng khói màu lam đậm đặc bay ra khiến những con ngựa khịt khịt những tiếng khô khốc, đạp mạnh vó xuống đường, đuôi phất mạnh đuổi ruồi, mặt nghểnh về phía bờ sông. Dòng sông xanh một màu phỉ thúy đột ngột xuất hiện từ trong khe núi kèm theo là những cơn gió mát mẻ dễ chịu vô cùng. Gã dắt con ngựa tía nói: Các anh em, đi một lát nữa, ráo mồ hôi rồi cho ngựa uống nước! Rồi gã mời tôi hút thuốc, tôi bảo mình không hút. Gã nhìn chăm chú vào chiếc huy hiệu tôi đeo trước ngực rồi không nói năng gì nữa, dắt ngựa đi nhanh về phía trước. Tuy trong khe núi đã có sông như người ta nói và phong cảnh có thể nói là tuyệt mỹ song chúng tôi chẳng có tâm trí đâu mà thưởng thức, mọi người cắm cúi đi theo đội người ngựa và trong những lời bàn tán vu vơ mới biết hãng phim Tiêu Tương quay bộ phim “Thiên quốc ân cừu ký” tại đây. Họ chính là những quần chúng được thuê từ Hà Nam đến đóng vai quân Tương Tây của Tăng Quốc Phiên đánh nhau một trận kinh thiên động địa với quân Thái Bình ở Tây Hải, quân Tương Tây thương vong gần hết, nhưng cũng có một vị đại tướng của quân Thái Bình đang ngồi trên mình ngựa với tư thế hiên ngang vô cùng, nhưng lúng ta lúng túng rơi xuống ngựa, gãy một cánh tay. Chuyện khôi hài quá khiến mọi người đồng loạt cười vang lên. Thấy mọi người hưởng ứng, người kể chuyện - chính là gã thanh niên dắt con ngựa tía càng hăng tiết, bảo rằng hãng phim trả thù lao quá bèo, đi từ Hà Nam đến Hồ Nam trên lưng con ngựa vốn là ngựa kéo cày của gia đình, người ngựa mệt muốn đứt hơi, xương cốt muốn rã rời, nếu không vì muốn kiếm ít tiền nhân lúc nông nhàn thì ngay cả quỷ cũng chẳng thèm tham gia vào bộ phim, vả lại cũng có thể đi đây đó mở rộng tầm mắt. Gã còn nói, vừa khoác lên mình bộ quân phục và trèo lên lưng chiến mã là đã có cảm giác chẳng sợ trời cũng chẳng sợ đất nữa, gặp cả những “quan lớn” ngồi trong xe “ba ba đất” - tức xe tăng - cũng không cảm thấy run tí nào, chả bù cho lúc còn ở quê nhà, chỉ cần thôn trưởng quát một tiếng thôi là đã muốn sụm gối quỳ xuống đất, bây giờ nghĩ lại, tại sao lại phải sợ ông ta nhỉ? Thân phận con người suy cho cùng đâu phải được quyết định bởi anh khoác cái gì bên ngoài, chỉ có cái mông rỗng tuếch mà bước chân vào chốn phồn hoa đô hội thì dẫu cho có làm đại quan cũng không thể biểu hiện cái oai phong của mình ra được. Anh thấy tôi nói có đúng không? - Gã hỏi, tôi trả lời là quá đúng. Gã nói tiếp, thật tiếc là chúng tôi phải đóng vai quân Tương Tây, toàn bị người ta “giết”, phải chi được đóng vai quân Thái Bình mới đã nghiện. Kêu lớn một tiếng: Anh em! Xung phong! Thế là chém giết sướng tay…

Gã cùng với đồng bọn dắt ngựa xuống mép sông cho uống nước. Nước lạnh đến độ bọn ngựa cứ ngoác mõm lên trời. Ngựa uống nước xong, tất cả nhảy tót lên mình ngựa, ưỡn ngực, ngẩng đầu, đội mũ rộng vành lên đầu rồi bắt chước cách chào hỏi trong phim cổ, chắp tay vái chúng tôi nói lời cáo biệt rồi quát to một tiếng, hai đầu gối thúc mạnh vào hông ngựa. Những chú ngựa lồng lên, chạy đi. Đường đá gồ ghề lởm chởm nên bọn ngựa chạy một cách thận trọng, nhưng dù sao vẫn cứ nhanh hơn người đi bộ nhiều, chúng tôi chỉ có thể đưa mắt nhìn theo.

Khi khoảng cách giữa chúng tôi và đội kỵ mã đã vừa một tầm tên bay, chúng tôi trông thấy con ngựa màu tía bỗng nhiên lảo đảo rồi ngã vật xuống đường, hất gã thanh niên trên lưng lăn mấy vòng đến tận lùm cây ven đường và mất hút. Những kỵ mã khác đồng loạt nhảy xuống ngựa, gã cưỡi con ngựa tía đang lom khom bò ra khỏi lùm cây, bộ dạng trông thật thê thảm chẳng khác nào một binh sĩ thất trận. Chúng tôi cũng vội vàng chạy đến. Những kỵ mã đang đứng chung quanh con ngựa tía gương mặt ai cũng biểu lộ vẻ buồn thảm. Gã cưỡi con ngựa tía đang ngồi dưới đất, hai tay ôm lấy đầu, không trông thấy nét mặt gã như thế nào. Con ngựa tía đang gắng gượng đứng dậy, nhưng hình như nó không còn chút sức lực nào nữa, một chân của nó lọt xuống khe hẹp giữa hai viên đá và đã gãy lìa, máu đang tuôn xối xả. Bỗng nhiên tôi chạnh nhớ đến năm 1976, khi đang tại ngũ ở huyện Hoàng, tôi cùng với tiểu đội trưởng cũng dắt một con ngựa màu tía vận chuyển than từ mỏ về, trên đường đi khi đạp lên một đống giá đỡ bằng sắt phế thải, một thanh sắt đã đập mạnh vào chân trước của nó. Mặc dù chiếc chân đã gãy lìa nhưng con ngựa của chúng tôi vẫn đứng yên, đoạn chân gãy nằm chơ vơ trên mặt đất như một khúc gỗ. Lúc ấy, tiểu đội trưởng của tôi đã òa lên khóc nức nở. Đoạn chân của con ngựa hằn sâu trong tâm trí tôi và từ đó tôi hạ quyết tâm là sẽ viết một truyện vừa về nó, đầu đề sẽ là “Vó ngựa”.

Tháng 9-1985