Chó, chim và ngựa
1. Mười năm trước, tôi đã từng theo chân một đoàn đại biểu nhà văn đến thăm Cộng hòa Liên bang Đức. Trong ký ức của tôi, ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là các thành phố hoa lệ của đất nước này, bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu chúng ta cũng có thể dễ dàng nhìn thấy những thanh niên nam nữ áo quần lộng lẫy dắt chó đi thong dong trên các đường phố. Từ bắc chí nam qua rất nhiều thành phố, tôi chưa hề thấy một con chó vô chủ nào. Quả thực là ở đây có quá nhiều loài chó, có loài ngốc nghếch như một con trâu, có loài nhỏ bé xinh xắn như một con thỏ, có loài lông dài phất phơ như những phụ nữ xinh đẹp thướt tha, có loài mặt nhăn môi lẹm trông như quỷ sứ… nhưng hầu như bất kỳ con chó nào cũng có mang một sợi xích trông rất chắc chắn trên cổ. Thi thoảng tôi cũng bắt gặp một vài con chó không đeo xích sắt nhưng thay vào đó là một vòng cổ bằng da. Những sợi xích sắt ấy được chủ nhân của chúng đi phía sau giữ chặt và bất cứ lúc nào cũng có thể buộc chúng lại mỗi khi cần thiết. Những con chó không phải mang xích sắt hầu hết đều ngoan ngoãn dễ thương như một đứa trẻ, chạy lon ton quấn chặt lấy chân chủ, chủ đi nhanh thì nó chạy nhanh, chủ đi chậm thì nó chạy chậm, do vậy mà dù không có xích nhưng chẳng khác nào có xích. Trông thấy những cảnh ấy, đoàn đại biểu nhà văn của chúng tôi ai cũng mở miệng trầm trồ thán phục.
Tại thành phố Munich, chúng tôi trông thấy một con vật trông giống chó, nhưng hình như không phải là chó, đang ngật ngưỡng theo sát phía sau lưng một cô gái rất đẹp có mái tóc vàng rực. Cô gái mặc áo hở ngực hở lưng, chiếc đầu kiêu ngạo ngẩng cao, con quái vật ấy theo sau đằng đằng sát khí với những bước đi như hổ báo uy nghi lẫm liệt. Tôi rùng mình sợ hãi vì chưa hề tưởng tượng ra rằng trên thế giới này lại tồn tại một loài quái vật khủng khiếp đến như thế. Lẽ nào nó là một loài tạp chủng, là kết quả giao phối hỗn tạp giữa hổ và cừu? Dường như đã phát hiện ra tôi đang chăm chú nhìn mình, con quái vật ấy cũng nghiêng đầu liếc xéo về phía tôi, đôi mắt ẩn sau những lớp lông dày phát ra một màu xanh lục hung dữ và đe dọa, những bộ móng vuốt có lẽ to hơn nắm tay của tôi nện xuống mặt đường nhựa kêu lên ken két rợn người, chiếc đuôi quét xuống đất trông chẳng khác một chiếc chổi chà. Loài quái vật này nếu xuất hiện ở vùng thâm sơn cùng cốc, nhất định sẽ là đại vương của muôn thú nhưng lúc này nó đang lò dò theo sau một cô gái, trên cổ nó lại là một dây xích sắt, rõ ràng nó chỉ là một con chó không hơn không kém.
Trong một tiệm ăn nhỏ nằm sát bên con đường cao tốc, tôi quan sát một đôi nam nữ trung niên ăn mặc rất hợp thời trang đang dùng một chiếc đĩa bằng bạc đựng sữa để cho một con chó nhỏ nặng chỉ khoảng một ký uống sữa. Nhìn những động tác và những biểu hiện trên nét mặt dễ dàng nhận ra vẻ yêu mến của cả hai đối với con chó nhỏ, dường như đang nằm trong lòng họ không phải là một con chó mà là một đứa con bé bỏng mới sinh. Con chó đẹp một cách kiêu sa và e lệ khiến tôi ngầm so sánh nó với những người đàn bà đẹp trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Nó dùng chiếc lưỡi xinh xinh hồng hồng liếm sữa một cách lười biếng rồi lắc đầu, người đàn bà nói thì thầm một vài câu tiếng Đức, tất nhiên là tôi không thể hiểu bà ta nói gì nhưng tôi dễ dàng đoán được ý bà ta. Lẽ nào không phải là những câu đại loại như: Bé yêu, con không ăn nữa à? Con ăn ít như vậy sao được? Con chó nhỏ tiếp tục lắc đầu. Người đàn ông lấy ra một chiếc xúc xích đưa đến tận mõm con chó. Tôi cũng đã từng ăn xúc xích, có những loại xúc xích chui vào miệng tôi không được thơm lắm nhưng chiếc xúc xích mà người đàn ông đang đưa cho con chó kia quả thật là rất thơm ngon. Nhưng nó chỉ ngửi, không ăn, khiến lòng tôi bỗng dưng dâng lên một cơn giận dữ vô cớ. Mười năm trước, tư tưởng của chúng ta không cởi mở như bây giờ, cuộc sống cũng không thể so sánh với hiện tại. Tôi nói như thế với mục đích là muốn thừa nhận chiếc xúc xích kia đang khêu gợi ý thức thèm ăn của tôi. Mười năm trước không đủ dũng khí để thừa nhận điều này, mười năm sau tôi thừa nhận nó một cách thản nhiên, kỳ thực là tất cả đều thuộc cái gọi là “danh phận”. Khi tạo ra muôn loài, Thượng đế không hề quy định loại nào dành cho người ăn, loại nào dành cho chó ăn, con chó Đức kia không chịu ăn chiếc xúc xích thơm lừng và điều đó đã khêu gợi ý thức ham ăn của tôi là một điều hoàn toàn bình thường, chính đáng. Nếu là bây giờ, tôi đã yêu cầu người đàn ông Đức kia cho tôi một chiếc xúc xích, cho hay không là quyền của hắn. Hắn cẩn thận dùng giấy bọc chiếc xúc xích lại rồi vứt vào thùng rác. Tôi thấy đau nhói trong lòng. Hắn tiếp tục dùng chiếc khăn mùi xoa trắng tinh lau mõm con chó thật cẩn thận rồi mới ngồi xuống ăn uống cùng với người đàn bà của hắn.
Còn có một lần, chúng tôi đang ngồi trên xe Mercedes chạy bon bon trên đường cao tốc. Rất nhiều những chiếc xe sang trọng vùn vụt lao qua lao lại hai bên xe của chúng tôi. Bỗng nhiên tôi trông thấy, ngồi ở băng ghế sau của một chiếc xe vừa vượt qua mặt xe tôi là một chú “sư tử chó”. Con quái vật này còn hướng về xe chúng tôi sủa oang oang, hình như đang biểu thị sự khinh miệt vì xe chúng tôi chạy quá chậm. Tôi tức tối vô cùng, muốn dùng tận lực đá vào chiếc mõm xấu xí ấy một cú thật mạnh. Nhưng nó vẫn ngạo nghễ vọt đi rồi mất hút trước mắt tôi. Tôi nghĩ: Liệu con chó này có say xe hay không? Nếu có say, nó có thể nôn ọe như con người hay không? Và nếu có nôn, liệu những thứ nó nôn ra có làm bẩn chiếc xe sang trọng ấy hay không?
Lại có một lần khác, tôi không nhớ rõ là ở thành phố nào, bên cạnh một giáo đường có một ông già lang thang, râu tóc đỏ quạch đang nằm, năm con chó như năm đứa con nằm bên cạnh ông ta. Năm con chó đều rất xinh đẹp, không hề có vệt bẩn nào trên lông, thậm chí là bộ lông nào cũng được chải chuốt rất mượt mà. Không thể nhận ra chúng là những con chó không hề được ăn ngon và no, nhìn lại chủ nhân của chúng, mặt vàng bụng lép. Trước mặt ông già và năm con chó có một chiếc khay, trong đó có mấy xu tiền lẻ. Mỗi khi có ai đó đi ngang qua trước mặt, ông già lang thang mở miệng nói mấy câu gì đó, âm thanh khàn đục. Chờ cho ông già nói xong, năm con chó đồng loạt sủa vang lên, âm thanh cũng rất khàn đục. Nói chung, cả chủ lẫn chó đều biểu hiện một thái độ hết sức khiêm nhường và an phận trong cái xã hội phồn hoa này.
Tôi hỏi người phiên dịch: Họ đang nói gì?
Phiên dịch nói: Ông già nói, xin ông bà hãy thương lấy năm con chó vô gia cư rất đáng thương này!
Tôi hỏi: Thế những con chó nói gì?
Phiên dịch cười nói: Tôi không hiểu ngôn ngữ của loài chó!
Tôi nói: Anh không hiểu nhưng tôi thì hiểu. Nhất định chúng đã nói, xin ông bà hãy thương lấy năm con chó vô gia cư rất đáng thương này!
Đây là hành động đẹp đẽ để biểu thị tình thân ái giữa người và vật, giữa người với người, là biểu thị một cách chân chính sự quan tâm lẫn nhau, yêu thương nhau: Cho dù nhà văn Trung Quốc rất nghèo nhưng tất cả mọi người trong đoàn đều lục túi áo túi quần tìm những đồng lẻ và thả vào chiếc khay trước mặt ông già và năm con chó. Ông già cúi đầu nói một câu gì đó mà tôi có thể khẳng định đó là lời cám ơn xuất phát tận đáy lòng, năm con chó cũng đồng loạt sủa vang, tôi cũng khẳng định đó là những lời biểu thị sự cảm tạ. Đột nhiên tôi thoáng nghĩ: Liệu chó Trung Quốc có thể hiểu tiếng nói của chó Đức?
Tôi đã bắt gặp không biết bao nhiêu là loài chó hình thù quái dị ở Đức, do vậy mà tôi nghĩ đến những con chó cũng như không biết bao nhiêu cố sự về chó xảy ra ở quê mình. Tôi có một thói quen vô cùng tệ hại là, khi đi đến bất kỳ một nơi nào đó và bắt gặp một chuyện gì đó thì thường rất thích thú đem ra so sánh với những sự việc đồng loại ở quê mình, so sánh xong thì buột miệng nói những điều đáng ra không nên nói, do vậy mà tôi đã từng đắc tội với rất nhiều người, từ nay về sau phải cải tà quy chính thôi! Ở quê tôi, chó rất hiếm khi có vòng cổ, xích sắt lại càng hiếm, và tất nhiên chó ở quê tôi tìm đâu ra sữa để uống, xúc xích để ăn, nhưng có một điều mà chó Đức không thể có được, đó là tự do. Sữa và xúc xích tất nhiên là rất ngon, nhưng tự do mới là cái vô giá. Bọn chó quê tôi suốt ngày chạy nhảy trên đồng ruộng mênh mông, ban đêm nằm lăn trên những thảm cỏ xanh rì, muốn giữ nhà cho chủ thì sủa lên mấy tiếng, không muốn thì chạy ra ngoài đùa vui với bạn bè. Rõ ràng chó quê tôi có cuộc sống phong phú hơn chó Đức nhiều.
Giữa những năm bảy mươi, tôi đã từng làm một chân bảo vệ ở trại chăn nuôi lợn của công xã, đêm nào cũng đánh nhau với bọn chó đến bắt trộm lợn. Tôi ôm một khẩu súng kíp tự tạo, ngồi mai phục trong những góc tường đất. Trong ánh trăng bàng bạc, tôi chăm chú theo dõi bọn chúng rón rén đến gần. Những đôi mắt chó xanh lè dưới trăng trông chẳng khác những đốm lửa ma trơi. Chờ cho bọn chúng đến gần hơn nữa, tôi phát hỏa. Một tiếng nổ chấn động không gian yên tĩnh về đêm, bọn chó kêu lên thê thảm và hoảng loạn bỏ chạy. Không phải là trình độ bắn súng của tôi kém mà vì tôi không dám bắn chết chúng, bởi tất cả chúng đều là chó trong thôn, bắn chết chúng rất khó ăn nói với mọi người.
Những hoạt động về văn hóa tinh thần ở quê hương tôi rất hiếm, vả lại trình độ nhận thức cũng còn khá ấu trĩ nên mỗi lần nhìn thấy hai con chó một đực một cái “dính” vào nhau là chúng tôi vui như tết, chờ cho chúng “dính” thật chặt là chúng tôi hè nhau, đứa thì gậy, kẻ thì gạch đá nhất tề xông đến. Cái cách mà chúng tôi đối xử với những đôi chó lúc ấy chẳng khác gì năm xưa trên bãi biển cha ông chúng tôi đã từng ùa ra vây bắt quân địch nhảy dù từ trên trời xuống. Ở quê tôi có một câu đố: “Bốn tai vểnh lên trời, tám chân đạp xuống đất, chính giữa có một trục xoay, hai chiếc đầu thở phì phò” là gì? Câu trả lời là một đôi chó đang hành sự! Hai con dính liền với nhau và đang cố sức rướn về hai phía và tất nhiên là bị bọn trẻ chúng tôi đánh hoặc ném đá đến độ ngửa mặt lên trời kêu khổ. Mà cũng không phải là chỉ có bọn nhóc chúng tôi làm việc này, nhiều khi cả người lớn cũng tham gia vào trò vui tàn khốc ấy. Lúc ấy chúng tôi nào có biết đó là một chuyện “đại nghịch bất đạo”, bởi từ lâu người quê tôi đã cho rằng, chó mà “dính” vào nhau, không đánh thì không thể rời nhau ra được nữa, mà một ngày không dứt ra được thì chó cái sẽ chết, hai ngày sau chó đực cũng chết nốt. Với nhận thức ấy, chúng tôi đánh chó sau khi chúng hành sự xong lại được cho là một công việc “tích đức hành thiện”. Sau này lên thành phố, được học hành tôi mới biết đó chỉ là những quan niệm vô cùng ấu trĩ và tàn bạo.
Bây giờ nghĩ lại mới thấy, chó Đức hình như không thích kêu, nếu có kêu chăng nữa cũng kêu rất nhỏ. Dường như chúng sợ phải làm kinh động người khác. Chúng tôi đã đến Đức, tất nhiên chúng tôi là người nước ngoài nhưng hầu như không có con chó Đức nào quan tâm đến chúng tôi. Tôi nhớ rằng khi sắp hàng một để bước vào nhà thăm một nhà văn Đức ở ngoại ô thành phố Munich, con chó to lớn như một con trâu nghé nằm trong góc nhà đã lười nhác đến độ chẳng thèm ngẩng đầu, thậm chí một cái liếc mắt nhìn những người khách trong đoàn là ai cũng chẳng có, nhưng khi trông thấy tôi đi ở cuối đoàn thì lông tóc nó xù lên và sủa vang nhà. Có một ông bạn đồng hành nói: Ngay cả chó cũng nhận ra ông không phải là người tốt! Vì câu nói này mà tôi dương dương đắc ý đến mấy ngày. Lý do để tôi dương dương đắc ý là: Trừ tôi ra, tất cả những người còn lại trong đoàn đều không còn gì đáng để ý, ngay cả một con chó cũng nhận ra điều đó!
Mấy năm trước đây, một nhà văn Đức đã ghé về thăm quê tôi, bọn chó trong thôn truyền tin cho nhau rất nhanh, một truyền mười, mười truyền trăm và tất cả bọn chó trong thôn đã tề tựu đông đủ ở ngoài sân phơi lương thực của hợp tác xã, đồng thanh ca một khúc ca muôn đời của loài chó khiến cho vị khách Đức này mặt như đổ chàm, sợ đến độ chân muốn sụm xuống. Tôi nói với ông ta: Đừng sợ, bọn chúng đang ca hát để đón mừng ngài đã đến với chúng tôi!
Có lẽ xuất phát từ một niềm “thiên ái”, cho nên tôi vẫn cho rằng chó ở quê tôi tốt hơn chó Đức. Chó Đức quá ngạo mạn, chó quê tôi nhiệt tình; chó Đức là vật yêu của người Đức, chó ở quê tôi là bạn của chúng tôi. Chó quê tôi có thể chạy nhảy, sủa rống lên tùy thích, thích gì thì sủa nấy, khác với kiểu dáng thâm trầm của loài chó Đức. Đương nhiên chó ở quê tôi cũng có thể vẫy đuôi cụp tai cụp mắt trước chủ nhân, nhưng chuyện chó nịnh nọt chủ nhân tất nhiên là hợp đạo lý hơn hẳn chuyện chủ nhân nịnh nọt chó. Đương nhiên chó quê tôi cũng không hẳn là chó chân chính, chó chân chính phải là loài sói trong thế giới hoang dã.
Năm mươi phần trăm chó Đức không có đuôi. Lấy làm kỳ, tôi bèn đem đi hỏi thì mới hay là đuôi của chó đã bị con người cắt phăng. Tôi hỏi các vị đồng hành: Quý ngài có biết vì sao người ta cắt đuôi chó đi không? Có người nói không biết, có người nói là vì cái đẹp… Tôi nói: Các ngài đều nói không đúng. Ở quê tôi có một câu yết hậu: “Chó không đuôi trèo tường… nhanh”, như vậy cắt đuôi chó là để chúng… trèo tường một cách thuận lợi mà thôi!
2. Nước Đức có dòng sông Rhine. Những năm tháng miệt mài học tập những trước tác của chủ nghĩa Mác, tôi mới biết ở Đức có một dòng sông mang tên ấy. Trong tưởng tượng của tôi, nước của dòng sông ấy rất trong, nhưng thực ra là đã có một số người Đức từng la ó rùm trời với chính quyền rằng, nước của dòng sông này ô nhiễm nghiêm trọng. Cũng giống như bất kỳ một dòng sông lớn nào trên thế giới, hai bên bờ sông Rhine cũng có rất nhiều thành phố lớn. Có một thành phố tên là Born, vốn là thủ đô của Cộng hòa Liên bang Đức, thành phố rất đông người và cũng rất nhiều chim, nhưng chim không hề sợ người.
Tôi ngồi trên bờ sông và quan sát dòng nước lượn lờ. Một chú vịt hoang nhẹ nhàng bơi qua trước mặt tôi, ngước đôi mắt đen láy nhìn tôi rồi kêu lên cạc cạc. Tiếp theo đó là cả một bầy bơi qua, tất cả đều nhướng đôi mắt hiếu kỳ lên nhìn tôi. Chỉ cần vươn tay ra là tôi đã có thể vuốt ve được đầu chúng, lúc ấy tôi bỗng nảy ra ý định túm lấy một con đem về nướng nhưng chỉ ngại một nỗi người ta mà bắt được thì mất mặt người Trung Quốc. Tôi đã từng viết một tiểu thuyết ngắn về một người đàn ông nghèo chuyên đi săn vịt trời. Anh ta ẩn mình trong một lùm cao lương rậm rạp, ngắm nhìn mặt trời chìm xuống sau rặng núi xa xa, ngắm nhìn từng đàn vịt trời đáp xuống bờ đầm trước mặt. Vì muốn bắn được nhiều con một lúc, anh ta nhét thuốc thật đầy vào nòng súng. Kết quả cuối cùng không hoàn toàn như anh ta mong muốn, vì lòng tham quá lớn nên nhồi thuốc quá nhiều, nòng khẩu súng săn bị vỡ toác, vịt trời chẳng chết con nào mà người đi săn vịt trời lại thế cái mạng nghèo của mình vào đó.
Mấy năm gần đây, ý thức bảo vệ môi trường sống của người Trung Quốc ngày càng được nâng cao, Nhà nước cũng đã ban hành những quy định về luật bảo vệ môi trường nhưng chuyện săn bắn động vật quý hiếm vẫn cứ thường xuyên tiếp diễn. Săn bắn vịt trời chỉ là chuyện nhỏ, có người còn săn cả gấu để lấy bao tử, lấy mật, còn lại thịt thì đem làm nhân bánh bao. Xem ra phá luật không có tác dụng gì. Nếu bá tánh không có mỡ trong bụng, chẳng có luật pháp nào có thể ngăn cấm được những cái miệng quỷ lúc nào cũng cảm thấy đói ăn. Ăn no mới nghĩ đến chuyện sống có văn minh, bụng căng đầy mới nghĩ đến chuyện học văn hóa. Tôi không tin rằng, trong khi bụng của người Đức trống rỗng mà họ vẫn quan tâm đến chuyện bảo vệ động vật hoang dã. Có thể bảo vệ được thiên nga nhưng liệu những con vịt hoang này, ai thèm quan tâm bảo vệ?
Đương nhiên cũng không nên quy kết toàn bộ mọi chuyện vào việc ăn no hay không no. Trong khi tham gia quân đội đóng dưới chân núi Lang Nha, cuộc sống của anh em bộ đội rất tốt, bữa cơm nào cũng có mỡ có thịt, nhưng trong cơ quan bộ vẫn có một tay cán sự ngày nào cũng xách súng đi bắn chim. Vàng anh, đỗ quyên, hỉ thước, quạ đen, gõ kiến… chẳng con chim nào thoát khỏi họng súng của anh ta. Kể ra thì trình độ xạ kích của anh ta rất khá, bách phát bách trúng cho dù mục tiêu lớn nhỏ xa gần khác nhau. Mỗi ngày phải đến vài chục con chim trở thành oan hồn dưới bàn tay của anh ta. Lúc ấy tôi mới biết là chim gõ kiến sau khi chết thì lưỡi thè ra khỏi miệng giống như người treo cổ vậy, đầu lưỡi như một cái mũi dùi bằng thịt. Anh ta giết chết không biết bao nhiêu là chim nhưng rất ít khi ăn, vất lăn lóc ở khắp nơi cho kiến ăn, tôi đã từng khuyên anh ta là không nên bắn chim nữa nhưng anh ta không nghe, thế là tôi lẳng lặng tố cáo việc làm của anh ta lên cấp trên, cuối cùng là bị kiểm điểm một trận ra trò.
Con người là một loại động vật cực kỳ phức tạp. Con người là lương thiện nhất nhưng cũng tàn bạo nhất; nhu nhược nhất nhưng cũng bá đạo nhất. Có lẽ rồi sẽ có một ngày, con người sẽ rời bỏ vai trò bá chủ trên địa cầu này, nhưng chờ đến lúc ấy xương thịt của tôi đã chuyển hóa thành một dạng vật chất khác; có thể đã biến thành một đóa hoa, cũng có thể biến thành một đống cứt chó, nhưng tôi vẫn cứ hy vọng là mình sẽ biến thành một con chim, có thể là một con vịt hoang bơi lội trên dòng sông Rhine cũng được.
Không ngờ là trong thành phố Born cũng có rất nhiều chim sẻ, hình dáng không khác mấy so với chim sẻ Trung Quốc. Có một tổ chim sẻ nằm đường hoàng đĩnh đạc trên bảng hiệu của một quán cà phê, rất thấp, chỉ cần vươn tay là sờ được. Nghe loáng thoáng người ta đọc tên bảng hiệu, tôi mới biết chữ viết trên đó là Betthoven. Chim sẻ đẻ con, đái ỉa trên đầu Betthoven, quá hay!
Ở Trung Quốc, chim sẻ đang gặp đại nạn. Chỉ cần một mệnh lệnh thiếu suy nghĩ là súng nổ lưới giăng, thanh la trống thiếc vang lên dồn dập như muốn tiêu diệt sự tồn tại của chúng trên quả đất này. Một quốc gia rộng lớn với hàng tỉ con người đang hợp sức với nhau để đối phó với một trong những loài chim nhỏ bé nhất trong tổng số các loài chim, hành vi này quả thật vừa hoang đường vừa vui vẻ và có lẽ là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tồn tại của loài người. Tôi đã đọc một số tài liệu chép rằng đã từng có một số nhà khoa học cùng viết chung một kiến nghị gửi đến Mao Trạch Đông về việc giải cứu cho chim sẻ mới biết rằng việc này không hề là đơn giản. Không có cái gọi là “diệt trừ bốn nguồn hại” vào những năm năm mươi - trong đó có diệt trừ chim sẻ - đại khái sẽ không có cái gọi là “đả phá bốn cái cũ” trong cao trào đại cách mạng văn hóa những năm sáu mươi, cũng rất có thể sẽ không có chuyện tiêu diệt “tứ nhân bang”. Nghĩ lại, chuyện nghiền nát “tứ nhân bang” quả thực là đáng sợ, cho dù tất cả đều là những kẻ xấu. Tôi đã đọc một cuốn truyện ngụ ngôn của một tác giả rất nổi tiếng viết về một gia đình chim sẻ, hai chim sẻ già và hai chim sẻ non trong đại nạn tiêu diệt “bốn nguồn hại” “gặp” lại nhau trong nước mắt. Hai con chim non, một con thì bị tên bắn chết, một con bay chưa thuần thục nên rơi xuống đất và bị bắt sống. Chim sẻ bố hốt hoảng bay nên đập vào đường dây điện cao áp, chết tươi; chỉ còn lại chim sẻ mẹ không dễ dàng gì mà quay về được với tổ của mình. Ban đêm, nó nằm trong tổ mà khóc nhưng rồi một luồng ánh sáng cực mạnh chiếu đến, cuối cùng nó cũng bị một đứa trẻ con giết chết. Vị nhà văn viết truyện này với mục đích là nhằm tuyên truyền cho cuộc vận động của con người, nhưng ông ta không hề hiểu ý nghĩa chân chính của cuộc vận động này là gì.
3. Ngựa ở nước Đức cũng giống như chó ở nước Đức, rùng mình biến hóa từ tư liệu sản xuất sang loài động vật yêu từ rất sớm, nói cách khác, thời kỳ huy hoàng của ngựa Đức đã kết thúc - kỳ thực ngựa Trung Quốc cũng sắp sửa rơi vào tình trạng này. Đây là một chuyện không thể nào tránh được. Lịch sử văn minh nhân loại trộn lẫn không biết cơ man nào là phân ngựa và phân chó. Ngựa đã từng là trợ thủ đắc lực nhất, trọng yếu nhất trong lịch sử phát triển của loài người, nhưng trong thời hiện đại này, vai trò của chúng đã hoàn toàn trở nên thứ yếu. Lúc nào tôi cũng nghĩ về cách miêu tả vô cùng tinh luyện về ngựa của Solokhov trong “Sông Đông êm đềm”. Ông ấy viết về con ngựa mà Acxinhia đã cưỡi trước khi chết, con ngựa này có tật xấu là thường cúi xuống cắn vào đầu gối người cưỡi nó. Rõ ràng đây là một tính cách “rất ngựa”! Tôi cũng rất hay nghĩ về một cuốn sách bán rất chạy là “Mã ngữ giả”, nhưng chỉ cần đọc qua là tôi biết ngay đấy là một người không hề hiểu gì về ngựa viết ra, và tôi đã từng viết một bài để trao đổi về cuốn sách này, trong bài viết đó có một câu làm tôi thỏa mãn vô cùng: “Kỳ thực, từ trước đến nay con người chưa hề dám nhìn thẳng vào đôi mắt màu lam của ngựa”.
Ở nước Đức, tôi đã từng đến một trại nuôi ngựa ở ngoại ô một thành phố nhỏ. Chủ nhân của trại nuôi ngựa là một gã đại Hán mặt đỏ, toàn thân toát ra mùi vị thân thiết của phân ngựa. Nghe nói rằng, anh ta rất hiểu ngựa, lại cưỡi ngựa rất giỏi, đã từng giật giải quán quân trong một cuộc đua ngựa quốc tế. Anh ta có một cô vợ nhỏ nhắn xinh đẹp, mặc quần bò, dáng vẻ cực kỳ nhanh nhẹn, không cần tìm hiểu cũng biết là một kỵ sĩ thực thụ. Đứa con trai nhỏ của anh ta đang gửi trong nhà trẻ thành phố, đứa con gái nhỏ rất bụ bẫm lon ton chạy sau lưng mẹ. Mẹ anh ta hãy còn tráng kiện lắm, lúc nào cũng có vẻ tất bật. Nói tóm lại, đây là một gia đình hạnh phúc.
Chúng tôi bước vào trại nuôi ngựa của gã mặt đỏ. Có khoảng mười con ngựa cao lớn mập mạp đến độ lông trơn mượt như được bôi một lớp dầu mỡ, ngoài ra còn có một chú ngựa non khiến chúng tôi giật mình. Nó không to hơn con cừu là mấy, nhưng rõ ràng nó không phải là một con ngựa bình thường. Người phiên dịch của chúng tôi bảo rằng, đấy là loài ngựa quý hiếm, chỉ lớn có chừng ấy thôi. Đây lại là ngựa sao? Loài “ngựa” này là kết quả của đời sống văn minh của con người mang lại đấy sao? Trong lòng tôi đầy những câu hỏi đau đớn sẵn sàng tuôn ra bất cứ lúc nào.
Gã chủ trại ngựa nhờ người vào thành phố đón con trai về để nó biểu diễn kỹ thuật cưỡi ngựa cho chúng tôi xem. Thằng bé mặc bộ quần áo đi ngựa vào người, dắt con ngựa quý hiếm trông giống như con cừu ấy ra và rất thành thục móc yên cương vào. Đứa con gái mới biết đi lẫm chẫm chụp lấy chiếc đuôi của con ngựa, việc này khiến chúng tôi rất lấy làm lạ nhưng bố mẹ nó hình như chẳng thèm quan tâm. Khi con ngựa nhỏ đã được dắt ra bãi tập, con bé đuổi theo sau đuôi khóc thét lên, lúc này mẹ nó mới bồng nó vất lên lưng ngựa và nụ cười đã nở trên gương mặt mũm mĩm.
Cho phép tôi kể về đứa bé gái trước. Nó mặc một chiếc quần ngắn bằng da màu đỏ, một đôi giày da đỏ, một chiếc áo pull cũng màu đỏ, mái tóc màu bạch kim được bện thành hai chiếc bím. Da thịt nó nõn nà trông chẳng khác nào một giọt sữa, đôi mắt xanh biêng biếc như mặt nước hồ, đôi môi đỏ chẳng khác hoa đào. Nó đẹp như một thiên thần!
Thằng bé bắt đầu thúc ngựa chạy vòng tròn trong bãi tập, ban đầu còn chậm nhưng mỗi lúc một nhanh. Bốn chiếc vó ngựa loang loáng khiến tôi liên tưởng đến những ngón tay siêu tốc khi đếm tiền của những cô nhân viên ở các quầy giao dịch trong những ngân hàng lớn. Con ngựa nhỏ vượt qua những chướng ngại trên đường chạy như bay lên không, có lúc bụng của nó như cạ vào các thanh gỗ nằm ngang khiến chúng tôi giật mình. Nhưng không có chuyện gì xảy ra cả, chúng tôi vỗ tay…, rồi lại vỗ tay.
Khi ở trên nước Đức, tôi luôn luôn thường trực một cảm giác: Giả mà giống như thật, thật mà giống như giả! Chẳng hạn, trong chợ rau quả, đủ các sắc màu tươi thắm, bao bì sạch sẽ tinh tươm khiến người mua nghi ngại - Đây là do nhựa hay sáp chế thành? Hoặc như một bình hoa đang đặt trên bàn, tuy biết đó là đồ giả nhưng anh không thể dằn lòng được mà phải đưa mũi vào sát cánh hoa để ngửi mùi hương của nó. Ngựa Đức cũng chẳng khác nào ngựa giả, quá sạch sẽ, quá thuần thục, quá bóng mượt và tất nhiên là không thể tìm đâu ra được cái chất phóng túng hoang dã vốn là bản chất của ngựa trên thân thể của chúng.
Tôi lại nghĩ về ngựa ở quê hương mình. Khi băng tuyết đã lấp kín mặt đất, ngựa được thả ra ngoài đồng để kiếm tìm một ít mầm lúa mạch ngọn cỏ. Một vầng mặt trời đỏ to tướng treo lững lờ, cánh đồng hoang sơ trắng xóa lấp loáng một màu đỏ, những mầm lúa mạch mới nhú cũng đeo những giọt sương băng màu đỏ. Con ngựa màu tía của nhà tôi toàn thân túa mồ hôi, lặng lẽ dùng mõm ngắt những mầm lúa mạch mới nhú, chiếc đuôi phe phẩy lười biếng nhẹ nhàng. Đôi mắt ngựa sáng trưng như một viên thủy tinh màu lam. Tôi rét lắm, hai vành tai đỏ lựng đứng trên bờ đê, cao giọng gọi: Ngựa, quay lại, về thôi!… Từ đằng xa, con ngựa nhà tôi ngẩng đầu lên, lắc lắc bờm lông trên cổ, chạy như bay về phía tôi. Và dưới sự dẫn đầu của nó, mấy chục con ngựa tung vó trên cánh đồng hoang sơ như một dòng sông nhiều màu sắc đang ầm ầm nổi sóng…