Ngưỡng vọng trời sao
Năm ngoái, sau khi cuốn “Tuệ mộc tương chàng” làm ồn ào dư luận một thời gian đã gợi cho tôi nhiều cảm xúc, do vậy mà tôi bắt chước giọng điệu của nhà văn danh tiếng nọ viết một bài tạm gọi là “tùy bút” có tên là “Ngưỡng vọng trời sao” phát hành nội bộ để tặng cho anh em bạn bè thân thuộc ở quê. Viết đã xong nhưng vẫn cảm thấy có cái gì đó mà mình chưa kịp nói hết, hôm nay giở ra, đem nguyên văn nhuận sắc lại và thêm vào cho nó một “đoạn đuôi”, phun hết những gì “tùy cảm” chất chứa trong lòng mình. Nguyên văn như sau:
Trước đây không lâu, một mảnh vỡ của sao Chổi (to khoảng vài cây số vuông) đã đâm thẳng vào sao Mộc. Trên khối tinh cầu thần bí ấy, một chuyện “kinh thiên động địa” đã phát sinh. Nếu ở trên ấy có loài sinh vật nào đó đang sống, nhất định sinh mệnh của nó phải nhận lấy một kết quả thê thảm. Ngày phát sinh chuyện “Chổi Mộc đâm vào nhau” ấy, hàng triệu đôi mắt ở dưới địa cầu đã chăm chắm nhìn lên vì sao có quan hệ rất mật thiết với trái đất. Nghe đâu là các đài truyền hình ở các nước phương Tây liên tục phát sóng hăm bốn trên hăm bốn những tin tức về sự kiện trọng đại này, nhưng ở đất nước mình, những phương tiện thông tin vẫn thờ ơ và yên lặng tuyệt đối. Chỉ có một vài phương tiện truyền tin thô sơ chẳng khác nào hình thức truyền miệng đã mò mẫm đâu ra những tài liệu từ nước ngoài truyền về và rỉ tai cho nhau nghe là chính. Hình như đối với người Trung Quốc chúng ta. Chuyện sao Chổi và sao Mộc va vào nhau chẳng qua cũng giống như ở một quốc đảo xa xôi nào đó ở tận ngoài khơi Thái Bình Dương xuất hiện một trận bão mà thôi.
Trong những ngày ấy, lúc nào tôi cũng cứ nghĩ, nếu như có một ngày nào đó, số phận tương tự lại giáng xuống trái đất, loài người sẽ ứng phó thế nào đây? Ngày xưa, chuyện “người nước Khởi lo trời sập ăn ngủ không yên” là để nhằm phóng thích những người thích lo lắng chuyện hão huyền nhưng con người hiện đại có cần thiết phải học hỏi nỗi lo sợ trời sập của người nước Khởi không nhỉ? Mảnh vỡ của sao Chổi đã “hôn” vào sao Mộc, ai dám đảm bảo là một ngày nào đó nó sẽ không “hôn” vào trái đất? “Nụ hôn” này sẽ làm băng tan núi lở, đất trời đảo lộn chứ chẳng phải là nụ hôn thân thiết gì đâu!
Có một tác giả tên là Vương Hồng Kỳ đã viết cuốn sách tuyệt vời “Chuyện vui văn hóa về bí mật của các vì sao”, trong ngày sao Chổi va vào sao Mộc, cuốn sách này cùng tôi đi vào những giấc ngủ chập chờn và đã dạy cho tôi rất nhiều điều bổ ích. Vương Hồng Kỳ cho rằng, thời xa xưa, một mảnh vỡ của một hành tinh nhỏ, cũng có thể là mảnh vỡ của sao Chổi đã từng va đập vào trái đất và gần như hủy diệt sự sống ở đây. Vương còn bảo, những thần thoại cổ xưa nhất và nổi tiếng nhất của Trung Quốc chúng ta như Nữ Oa đội đá vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt trời, Thường Nga lên cung trăng, Khoa Phụ đuổi mặt trời… đều có liên quan mật thiết đến những sự kiện trọng đại trên lĩnh vực thiên văn học.
Chuyện Hậu Nghệ bắn mặt trời có thể lý giải như sau: Có một thiên thể to lớn đang vận động nhằm thẳng về phía trái đất. Khi nó lọt vào trong tầng khí quyển, lực ma sát quá lớn khiến nó phát ra ánh sáng, kèm theo là những âm thanh khó có thể hình dung và sau đó vỡ tung ra thành nhiều mảnh (thế mới có mười mặt trời trong truyện này), sau đó là thiên hôn địa ám, đất rung núi lở, núi gào biển réo… Những khái niệm tôi vừa nhắc trên có lẽ là những từ nhằm mục đích tả thực lúc ấy, sau này chúng mới biến thành những tính từ. Sự kiện này đã làm người thời viễn cổ chấn động, bất giác đưa mắt nhìn lên và ngưỡng vọng không gian, tâm trí con người được khai phá, ý thức về lịch sử sản sinh, triết học từ đó mà hình thành.
Sách “Hoài Nam Tử - Thiên văn huấn” viết: “Ngày xưa Cung Công cùng với Chuyên Húc tranh nhau làm đế, nổi giận dùng đầu húc vào núi Bất Chu, cột chống trời gãy, dây buộc đất đứt, trời nghiêng về hướng tây bắc, từ đó mà mặt trời mặt trăng và các vì tinh tú mới rời nhau ra, đất lệch về phía đông nam…”. Núi Bất Chu - nơi đánh nhau kịch liệt thuở ấy chính là Vẫn thạch khanh. Vương Hồng Kỳ giải thích, “Bất Chu” là vòng tròn không hoàn chỉnh. Có thể thiên thạch ấy có góc cạnh rất sắc? Sau sự kiện ấy, kết quả đáng sợ là “đất nghiêng về tây bắc, mặt trời mặt trăng và các vì tinh tú mới rời nhau ra. Học giả người Anh gốc Hán nổi tiếng Lý Ước Sắt rất sinh động chỉ ra rằng, đây chính là những tri thức sơ khai nhất có liên quan đến sự vận động của bề mặt trái đất của văn hóa Trung Quốc, đương nhiên cũng là những tri thức sớm nhất về thiên văn học của văn hóa nhân loại. Vương Hồng Kỳ còn cho rằng, nếu người viễn cổ không tự thân kinh lịch qua chuyện này, nhất quyết không thể sáng tạo nên những mẩu thần thoại như thế theo trí tưởng tượng được. Do trái đất biến hóa tự chuyển tự nghiêng cùng với khói bụi sau trận đánh kinh thiên động địa ấy (Hoàng Đế và Xuy Vưu đánh nhau ở đồng hoang Trác Lộc, Xuy Vưu làm khói bao phủ mù mịt cả ba tháng liền); cũng phải kể đến khả năng thiên thạch nóng bỏng rơi xuống biển khiến cho biển gầm gào (Phía đông Phù Tang có một hòn đá, rộng bốn ngàn dặm, nước biển bao phủ không hết), vẫn thạch rơi xuống đất tạo nên những đám cháy lớn… mà hoàn cảnh sinh tồn của người viễn cổ phát sinh những biến động lớn. Trong những trận đại hồng thủy, những đám cháy lớn và kể cả khí hậu khắc nghiệt phát sinh trong quá trình ấy, một bộ phận lớn người viễn cổ đã bị tiêu diệt, những người còn lại chính là những người thắng lợi trong quá trình đấu tranh kiên cường với đại tự nhiên. Do vậy, những thần thoại truyền thuyết về thời kỳ viễn cổ chính là những ghi chép về những đại nạn trong lịch sử nhân loại, cũng chính là những ghi chép về quá trình đấu tranh sinh tồn vô cùng dũng cảm với tự nhiên của tổ tiên chúng ta.
Thiết nghĩ, những Bàn Cổ, Nữ Oa, Hậu Nghệ, Thường Nga, Khoa Phụ, Tinh Vệ… xứng đáng là những đại diện cho quần thể anh hùng của tổ tiên chúng ta thời viễn cổ, hoặc cũng có thể là những anh hùng được sáng tạo từ trong tâm hồn người viễn cổ. Bàn Cổ khai thiên lập địa là hành vi tập thể, Nữ Oa luyện đá vá trời, Hậu Nghệ bắn mặt trời, Khoa Phụ cầm gậy đuổi mặt trời, Tinh Vệ ngậm đá lấp biển… đều có thể lý giải theo cách nhìn nhận ấy. Còn Thường Nga thì được Vương Hồng Kỳ lý giải là một sự hiến tế đối với mặt trăng (là một thiên thể phát ra ánh sáng). Cách lý giải này khiến tôi liên tưởng đến cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Người đàn bà cưỡi ngựa đi ra” của văn học Anh, việc người Indian dùng đàn bà để tế mặt trăng trong truyện này có phải là tàn tích của những tập tục thời viễn cổ? Đương nhiên, những truyền thuyết cực kỳ tinh diệu này khẳng định là xuất hiện sau khi sự kiện trọng đại ấy đã phát sinh, cũng là lúc một môi trường đại tự nhiên mới đã hình thành, con người đã quay lại với cuộc sống an cư lạc nghiệp. Trận đại nạn ấy thông qua truyền thuyết của thời đại này nối tiếp thời đại khác, thậm chí hình thành nên một thứ tiềm thức di truyền cho đời sau để người ta thần thoại hóa những sự kiện lịch sử cho đến khi văn tự xuất hiện mới được ghi chép lại trong “Sơn hải kinh” và những tác phẩm cùng loại khác. Tôi nghĩ, những người sáng tác và lưu truyền những loại kỳ thư kiểu “Sơn hải kinh” - sách trời - đáng để cho người ta phải khom người khâm phục.
Tất cả các dân tộc trên thế giới đều có kho tàng thần thoại riêng nhưng chúng lại giống nhau đến độ đáng kinh ngạc, đều có chuyện khai thiên lập địa, đều có chuyện mười mặt trời mọc cùng một lúc, đều có những trận đại hồng thủy ngập đến tận trời… Không thể quy kết vào sự ngẫu nhiên được. Suy cho cùng, trái đất này nhỏ lắm, hậu quả của sự kiện thiên văn trọng đại không chỉ ảnh hưởng đến bộ tộc của Nữ Oa, Hậu Nghệ, Thường Nga… Lúc ấy, không thể xác định là nhân loại đã phân chia ranh giới rạch ròi cho những chủng tộc bộ lạc hay chưa, nhân loại liệu có phải là do một loài vượn người tiến hóa mà thành hay không cũng không thể đoan chắc. Tôi nghĩ, khái niệm “thần thoại truyền thuyết viễn cổ” là cực kỳ phức tạp, thần thoại và truyền thuyết vốn không phải là một, cho dù truyền thuyết càng xa xưa thì càng mang sắc thái thần thoại. Chuyện này không phải là một hiện tượng sản sinh vì tổ tiên của chúng ta chưa có đủ những tri thức khoa học để lý giải chúng một cách rạch ròi. Bản thân truyền thuyết là một quá trình thêm dầu tra mỡ, nếu có một văn nhân nào đó bỏ sức gia công là ngay lập tức nó đã biến thái, tam sao thất bổn. Ngay cả Tư Mã Thiên cũng không là một ngoại lệ. Căn cứ vào những phát hiện khảo cổ học, người thời Hán có thân hình nhỏ bé hơn bây giờ nhiều nhưng nhân vật Hạng Vũ dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên đã biến thành một người to lớn thế nào chắc ai cũng biết. Thần thoại có lẽ là sản vật xuất hiện muộn hơn, là sản phẩm mang tính lý tưởng, là sự phản chiếu hiện thực, chẳng hạn như chuyện Ngưu Lang Chức Nữ, còn truyền thuyết, cho dù là truyền thần nhưng nội dung vẫn là phản ảnh một sự kiện chân thực. Do vậy, xem ra Nữ Oa bổ thiên, Thường Nga bôn nguyệt, Hậu Nghệ xạ nhật… vẫn có giá trị lớn về mặt lịch sử; còn Ngưu Lang Chức Nữ, Tiên nữ hạ phàm… vẫn cứ thiên về giá trị văn học và luân lý học.
Sự kiện sao Chổi và sao Mộc va vào nhau (đã quan trắc được) với những chuyện ghi chép trong “Sơn hải kinh”, “Hoài Nam tử” có chỗ giống nhau đến lạ lùng, như: loại ánh sáng này không thể dùng ngôn ngữ để miêu tả, một cột khói cao đến mấy nghìn cây số phá vỡ tầng khí quyển dày của sao Mộc. Thể tích của sao Mộc lớn hơn địa cầu đến hơn 1.300 lần nhưng sau cú va đập, nó cũng chao đảo nghiêng ngả. (Bất giác nghĩ đến câu thơ đầy khí phách hùng tráng của người đời nay: Công nhân dầu khí lên tiếng quát, Địa cầu run rẩy đứng không yên! Tôi không thể không buông một tiếng thở dài thê thiết). Theo ý kiến của Vương Hồng Kỳ, những năm gần đây người ta đã phát hiện trên trái đất có mấy hố vẫn thạch rất to (Thái Hồ cuồn cuộn khói sóng trên đất nước ta nghi là hố vẫn thạch). Từ những suy đoán trên, trái đất đã từng chịu kiếp nạn tương tự như sao Chổi và sao Mộc đâm vào nhau, điều này chứng minh, trái đất hoàn toàn không an toàn, do vậy mà người nước Khởi lo trời sập là có lý và có lẽ thời đại của người Khởi lo trời sập cũng đã bắt đầu trở lại.
Kiếp nạn từ thời viễn cổ có thể xem là điểm chuyển tiếp của lịch sử loài người, thế thì sao Chổi và sao Mộc đâm sầm vào nhau có thể được xem là một điểm chuyển tiếp mới hay không? Đây chính là “cảnh báo của trời cao”. Tôi nghĩ, loài người cần phải nhận thức được rằng: Trái đất vốn đã rất nhỏ, cương vực giữa quốc gia này với quốc gia khác, sự khác biệt về chế độ xã hội, đấu tranh giai cấp… nếu so với chuyện Chổi - Mộc như đã nói thì chẳng thấm vào đâu, thậm chí là hoang đường, đáng tức cười. Giả sử có một ngày nào đó, có một hành tinh nhỏ nào đó trên bước đường phiêu lãng của mình muốn tiếp cận với trái đất và nó “hôn” vào New York thì chắn chắn Thượng Hải cũng chẳng dễ chịu gì. Con người nên phóng khoáng một tí, nên đại độ một tí. Thêm một tí phóng khoáng đại độ, giảm một tí bụng dạ hẹp hòi kiểu ruột gà; thêm một tí vô tư thanh thản, giảm một tí âm mưu quỷ kế; thêm một tí đường đường chính chính, giảm một tí lòng lang dạ sói… Thiết nghĩ, năm ấy người Mỹ đứng trên cung trăng, chắc họ không chỉ là đại biểu cho “người Mỹ đế quốc” đâu. Giả sử có một ngày, người Trung Quốc có thể làm thay đổi quỹ tích bay của một tiểu hành tinh đang nhắm thẳng vào Bắc Kinh khiến nó chỉ có thể phóng vút qua và chỉ ghé mắt nhìn trái đất, những người được chúng ta cứu chắc chắn không chỉ là người Bắc Kinh và thủ đô Trung Quốc. Do vậy tôi nghĩ, những bá tánh bình thường như chúng ta cũng phải nghĩ thoáng một tí. Cho dù có một loại đá cực quý trong tay như đá ruby thì cuối cùng nó cũng chỉ là đá, trong sa mạc giá trị của nó không bằng một miếng vỏ dưa. Tranh quyền đoạt lợi, đầu cơ cơ hội mà lén lút tố cáo bạn bè, vì chiếc mũ sa trên đầu mà nịnh trên nạt dưới, bán bạn cầu vinh… càng không có ý nghĩa gì hết.
Đương nhiên, nói gì thì nói chúng ta vẫn phải cứ nhìn nhận lại mình. Những quan sát và nghiên cứu về sự kiện Chổi - Mộc khiến tôi phải buột miệng cảm thán về sự vĩ đại của con người, đồng thời cũng khiến tôi than thầm là con người đã hết thuốc chữa trị. Giả sử ngày mai có một vị khách từ bên ngoài vũ trụ “ghé thăm” trái đất, lúa gạo của Nhật Bản cũng không thể mang qua cho không Triều Tiên, biên giới của nước Mỹ cũng không thể mở rộng ra toàn thế giới. Giờ đây, cuộc sống của bá tánh nói chung đã tốt lên một tí, nhưng kỳ thực người ta đối đãi với nhau vẫn cứ giống như suy nghĩ của những nhân vật trong “Câu chuyện nội bộ ban biên tập”, ai cũng muốn ăn thêm một hộp cơm, thế thôi - gì thì gì chứ chuyện chiếu cố cái bụng của chính mình vẫn là ưu tiên số một! Ngay cả các nhà lãnh đạo các nước sẽ làm gì khi chuyện ấy xảy ra, thật khó có thể tưởng tượng ra được. Theo phân tích của một người bạn thì họ sẽ kéo nhau lên một chiếc hỏa tiễn rồi nhắm thẳng mặt trăng mà phóng lên để kết bạn với Thường Nga! Tôi thì không nghĩ như vậy. Địa cầu không còn nữa, bay lên cung trăng thì được tích sự gì? Cho dù đã chuẩn bị đầy đủ dưỡng khí, thực phẩm và nước, nhưng mấy mươi tổng thống ở với nhau thì có ý nghĩa gì đâu. Do vậy mà tôi tin tưởng rằng họ phải tìm ra trăm phương nghìn kế để: Thứ nhất: Phong tỏa mọi tin tức để bách tính không biết gì cả. Thứ hai: Phóng đầu đạn vũ trụ để chắn đường đi của tiểu hành tinh nọ.
Viết đến đây tôi đột nhiên nghĩ đến Loan Lai Tông và người cháu của ông ta là Loan Cự Khánh ở thôn Hoa Đồng thị trấn Song Dương thuộc thành phố Duy Phường cách quê chúng tôi không xa. Ông cháu nhà họ Loan đã mắc bệnh “cuồng tinh”, dùng hết tinh lực của cả mấy thế hệ để nghiên cứu quỹ tích vận động của năm hành tinh lớn trong thái dương hệ và khí hậu trên địa cầu, công bố hai chuyên khảo “ Hành tinh và dự báo khí hậu dài ngày”, “Sự vận động của các vì sao và dự báo khí hậu, động đất” gây được chú ý trong những năm gần đây. Hai người nông dân chất phác, ăn khoai khô uống nước lã mà lại có tầm nhìn xa cũng như trí tuệ tuyệt vời đến như thế quả là một điều kỳ diệu. Chỉ dựa vào “ngộ tính” mà họ đã lăn xả vào trong một lĩnh vực khoa học cực kỳ cao siêu và thu được những tri thức khó tưởng tượng như thế, đúng là phải khiến các nhà khoa học mặc áo gấm ăn sơn hào hải vị phải cúi đầu nể phục. Trong thời đại của người ông - Loan Lai Tông, thành phố Duy Phường đã cung cấp cho đất nước rất nhiều cử nhân tiến sĩ, nhưng đứng ở góc độ cống hiến cho nhân loại mà nói, cộng tất cả lại vẫn chưa là gì so với cống hiến của Loan Lai Tông, bởi đôi mắt của họ chỉ ngưỡng vọng về vàng bạc châu báu và những chiếc mũ ô sa, còn đôi mắt của Loan Lai Tông chỉ ngước lên nhìn cao mà “ngưỡng vọng trời sao”.
28 - 4 - 1994
Thời điểm viết xong những trang trên chỉ cách đây hơn một năm nhưng sự kiện Chổi - Mộc đã bị tôi nhét vào một xó của ký ức và đã bắt đầu quên. Một năm trở lại đây, những gì cần ăn tôi đã ăn, cần ngủ tôi đã ngủ, cần xem tôi đã xem… nhưng cũng chưa có gì phóng khoáng hơn so với ngày xưa. Từ đó mới thấy, văn chương chỉ là ghi lại một trạng thái tình cảm nhất thời, tác gia mà như tôi đây thật ra cũng chỉ là một loại người sáo rỗng, hư ngụy mà thôi. Người đã như vậy, còn trái đất này thì sao? Giống như vào thế kỷ thứ X, nhà vật lý Galile khi đứng trước tòa án chịu sự phán quyết của giáo hội đã vô cùng tự tin tuyên bố: “Nó vẫn cứ đang quay”. Tiếc thay, khi tôn giáo chuẩn bị cho ông lên giàn hỏa thiêu, Galile đã nhũn. Ông ta sợ bị thiêu cháy thành tro nên đã tuyên bố, trái đất không chuyển động nữa, cho dù trong thâm tâm, ông vẫn biết một cách rõ ràng rằng, trái đất vẫn đang quay! Có lúc tôi đã nghĩ, mềm yếu vốn là đặc tính bình thường của con người, có thể tha thứ cho ông ta thôi!
10 giờ 56 phút ngày 20 tháng 7 năm 1969 (theo giờ địa phương nước Mỹ), phi thuyền vũ trụ Apollo đường hoàng đi vào lịch sử. Phi hành gia đặt bàn chân trái đầu tiên lên mặt trăng, để lại vết chân đầu tiên của con người trên mặt trăng, tiếp theo anh ta nói một câu vĩnh viễn tồn tại trong lịch sử: “Đây là một bước chân thật ngắn của một cá nhân nhưng là một bước cực dài của nhân loại!”.
Hàng triệu người trên trái đất này đều đã nhìn thấy những bước chân khó quên của phi hành gia qua ti vi, từ trên đài phát thanh có thể nghe thấy tiếng nói của ông ta, người xem và người nghe đông vô tiền khoáng hậu. Ngày ấy, tôi vẫn còn chưa biết ti vi có hình thù như thế nào, đài phát thanh đã có, một chiếc loa sắt cực lớn móc trên cành cây cao dây nhợ lòng thòng, ngày nào cũng kêu oang oang, thi thoảng cũng có một vài đoạn kịch nhưng mở đầu bao giờ cũng là “Đông phương hồng”, kết thúc bao giờ cũng là “Quốc tế ca”. “Mặt trời lên, đông phương hồng, Trung Quốc có Mao Trạch Đông.…Ông là đại cứu tinh của nhân dân”. Lại là một hiện tượng thiên văn, một người ở dưới thế gian đại diện cho một vì sao. Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, hiện tượng này nhan nhản. Phượng Sồ tiên sinh chết trận tại gò Lạc Phượng, Gia Cát Khổng Minh ở Kinh Châu vẫn trông thấy vì sao của tiên sinh rụng xuống: “Chỉ thấy phía chính tây có một vì sao to như cái đấu từ trên trời rơi xuống, ánh sáng tóe khắp bốn phương”. Gia Cát Khổng Minh không chỉ có thể nhìn thấy sao của người khác mà còn có thể xem được sao của chính mình. Tại Ngũ Trượng Nguyên, tiên sinh bị Tư Mã Ý giở chiêu bài cố thủ làm cho tâm trí buồn bực, vô kế khả thi, nửa đêm rời khỏi màn trướng, ngẩng đầu nhìn trời cao, nói: “Trong ba vì sao Tam Thai, sao khách sáng rỡ, sao chủ tối tăm, dựa vào nhau mà sáng nhưng ánh sáng hôn ám. Mệnh trời đã vậy, mệnh ta tự biết!”. Khương Duy khuyên tiên sinh dương sao. Tiên sinh có tài biến ngựa chết thành ngựa sống nên đăng đàn tác pháp, đáng tiếc là bị Ngụy Diên quấy rối, cuối cùng không thể cãi lại mệnh trời. Đối thủ của tiên sinh là Tư Mã Ý cũng là một cao thủ về thiên văn - Vị đại nguyên soái này không thèm đánh nhau mà đêm đêm rời màn trướng ra “ngưỡng vọng trời sao” - “Bỗng một đêm đang ngẩng đầu trông lên trời cao, cả mừng, nói với Hạ Hầu Bá rằng: Ta thấy một vì sao sắp rơi, Khổng Minh đang lâm bệnh nặng, không lâu nữa thì chết”. Gia Cát Lượng tính toán như thần, trước lúc chết dặn Dương Nghi đem thi thể mình đặt lên xe ngồi cho thật vững, trong miệng ngậm bảy hạt gạo - loại gạo Thiểm Tây - dưới chân để một cây đèn thắp lên cho sáng, cứ như thế không cho ngôi sao của mình rơi xuống. Phân phó thỏa đáng xong, “đêm ấy Khổng Minh mệnh lệnh cho mọi người đỡ dậy đi ra ngoài, ngưỡng vọng trời sao, chỉ một ngôi sao xa, nói: Đó là vì sao của ta. Mọi người đều nhìn, thấy ngôi sao ấy màu sắc u ám, rung rung muốn rơi. Khổng Minh vung kiếm chỉ thẳng vào nó, miệng lầm thầm niệm chú. Niệm xong, vội vã quay vào trướng phủ”. Đúng là trình độ tưởng tượng đã đạt đến cực đại. “Lại nói về Tư Mã Ý, đêm ấy xem thiên văn thấy một vì sao cực lớn màu đỏ, ánh sáng lu mờ chuyển từ hướng đông bắc sang tây nam, rơi vào doanh trại quân Thục rồi lại phóng vụt lên đến ba lần, Ý cả mừng, nói: Khổng Minh chết thật rồi!”. Những chuyện tương tự về quan hệ giữa người và sao trong truyền thuyết và văn học nhiều không kể hết được, nói rằng đó hoàn toàn là sự mê tín cũng không hẳn là chính xác, mà đó chính là một loại “sản phẩm phụ” của hành vi “ngưỡng vọng trời sao” có nhiều ý nghĩa khoa học trong lịch sử nhân loại. Ngưng thần ngưỡng vọng bầu trời xán lạn chính là bước đánh dấu sự ra đời của lịch sử khoa học. Đem Mao Trạch Đông so sánh với mặt trời, với tinh tú, về mặt tình cảm có thể lý giải, nhưng nếu chuyên tâm nghiên cứu một cách sâu sắc, ở đây có một chút ý vị trào phúng. Nghe đâu rằng, nguyên soái Bành Đức Hoài, con người cương trực như Trương Phi đã từng đem chuyện này phê phán mấy câu - hậu quả sau đó thế nào ai cũng biết, ông không thể tránh được vận đen. Nếu dũng cảm kiên trì với lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng đến cùng mà nói thì, lúc phi hành gia người Mỹ để lại những bước chân đầu tiên trên mặt trăng cũng là lúc ở Trung Quốc, chủ nghĩa duy tâm đang hoành hành một cách khốc liệt nhất. Chiếc loa sắt to đùng và cổ lỗ ở quê tôi ngày nào cũng giáng những cái tát tá hỏa vào mặt tất cả mọi người: Bắt đầu là “Đông phương hồng”, vẫn là điệp khúc “đại cứu tinh”; kết thúc xướng “Quốc tế ca”, “từ xưa đến nay chẳng có đấng cứu thế nào hết, cũng không dựa vào thần tiên Thượng đế, muốn sáng tạo hạnh phúc cho nhân loại, chỉ có thể dựa vào chính chúng ta”. Chiếc loa sắt cổ lỗ như thế tất nhiên không thể nào thông báo được cho mọi người tin tức về người Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng, chuyện này đến tận mười năm sau chúng tôi mới biết. Sau này chúng tôi cũng biết, lúc ấy ở Bắc Kinh đã có đài truyền hình, người Bắc Kinh đã có ti vi tuy số lượng không nhiều. Tôi cả gan tưởng tượng: Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng với những chiến hữu của ông đang ngồi trước máy thu hình xem người Mỹ lên mặt trăng… Trên mặt họ lúc ấy có biểu hiện gì không nhỉ? Trong lòng họ lúc ấy có suy nghĩ gì không nhỉ? Lúc ấy, hàng triệu người Trung Quốc đang ôm cái bụng đói meo để tổ chức “đấu phê cải”, Lưu Thiếu Kỳ ở trong ngục Khai Phong chờ chết, hàng trăm vạn Giải phóng quân nhân dân đang tập kết ở biên giới Trung Quốc - Liên Xô chuẩn bị đánh nhau với “tân Sa hoàng”!
Hai nhà du hành vũ trụ của Mỹ đã đặt một tấm bia trên bề mặt hoang vắng của mặt trăng, trên đó viết:
Tháng 7 năm 1969 sau Công nguyên
Loài người trên trái đất lần đầu tiên đặt chân lên mặt trăng
Chúng tôi đại diện cho nền hòa bình toàn nhân loại mà đến đây!
Sau đó có người phê bình rằng, người Mỹ lưu bút tích trên mặt trăng là một việc làm hoang đường, nhưng riêng tôi thì nghĩ, việc làm của hai nhà du hành vũ trụ ấy không hề hoang đường, bởi trái đất rộn ràng bề bộn với những sầu hận bi hoan ly hợp trăm nghìn mối đang treo lơ lửng trên không trung, trên đầu họ, yên lặng và trầm mặc như một thiếu phụ khoác bộ cánh màu lam với trăm mối tơ lòng.
Năm 1965, khi Chủ tịch Mao Trạch Đông lên núi Tĩnh Cang đã viết những câu từ vô cùng hùng tráng: “Leo lên trời cao lãm nguyệt, Cúi xuống biển cả đùa ngư”. Lên trời cao để gặp chị Hằng, chuyện kinh thiên động địa này người Mỹ thực hiện đầu tiên, chỉ còn lại một việc chưa làm, đó là xuống biển đùa với cá kình. Hãy suy tưởng về trạng thái tâm lý của một bậc vĩ nhân! Những năm năm mươi, Mao Trạch Đông đã viết những câu thơ tuyệt vời: “Thường Nga cô đơn buông lơi váy áo, Vạn lý trời cao hồn trung thần nhảy múa”… Cảm tình của ông đối với trăng quả có chỗ độc đáo riêng. Khi hai nhà du hành vũ trụ chuẩn bị bước vào không gian, người truyền tin đã thì thầm qua điện thoại: Có một truyền thuyết cổ xưa kể rằng, có một người con gái Trung Quốc xinh đẹp tuyệt trần đã ở trên mặt trăng bốn nghìn năm nay… Nếu không ngại, các anh cứ tìm cô ấy mà thăm hỏi. Ngoài ra, trên mặt trăng còn có một con thỏ Trung Quốc rất to, chắc là tìm không khó bởi chân trước của nó đang giơ lên cao đứng bên cạnh một gốc quế. Được rồi - một phi hành gia nói - Chúng tôi nhất định sẽ tìm ra cô gái và con thỏ ấy!
Hãy suy nghĩ những ý vị từ những câu thơ bộc lộ tâm trạng của Chủ tịch Mao Trạch Đông!
Rất nhanh sau đó, chiếc cầu nối Trung - Mỹ đã được bắc, quà tặng của Nixon cho Mao Trạch Đông lại là đất và nham thạch trên mặt trăng mà các nhà du hành vũ trụ đã mang về.
Tôi đã đi càng lúc càng xa trên con đường sai lầm của cổ nhân và vĩ nhân mà bình luận lung tung rồi, phải dừng lại thôi để tránh những lời phạm húy. Nhưng lại có một vĩ nhân xuất hiện ngay trước mắt: Người ấy toàn thân bị tê liệt, chỉ có mấy ngón tay là có thể cử động được. Ông ta dùng mấy ngón tay ấy để điều khiển chiếc ghế điện chạy chầm chậm trong khuôn viên trường đại học Cambridge, những người gặp ông ta đều thể hiện sự cung kính một cách tự nhiên. Ông ta chính là người được toàn thế giới tôn là truyền nhân xuất sắc nhất của Einstein, là nhà vật lý xuất sắc nhất của thế kỷ XX - Giáo sư Stephan Howkin. Những nghiên cứu của Howkin có liên quan đến hiện tượng thần bí nhất của vũ trụ - những ngôi sao đã tắt. Những ngôi sao đã tắt cũng là sao. Những ngôi sao sáng nhất thì nhìn không thấy, bởi dẫn lực của những vì sao này quá lớn. Tôi đã xem danh tác của Howkin “Thời gian giản sử”, xem mà không hiểu gì cả, xem hiểu được sách này thì ai còn làm văn học nữa! Một học trò của Howkin kể, có một năm, cả nhà Howkin đưa anh ta về biệt thự của gia đình. Biệt thự này nằm trên núi, có một con đường rất phẳng dẫn đến tận nhà. Khi đi lên, chiếc ghế điện của ông chạy trước anh ta một đoạn không xa, một lúc sau ông rẽ ngoặt vào nhà, nhưng chiếc ghế lại đột ngột dừng lại, chạy lui rồi lật ngửa ra phía sau. Anh ta vội vàng chạy lại định đỡ lấy nhưng không kịp nữa. Howkin bị ngã ngửa ra sau và lăn vào lùm cây. Trông thấy vị đại sư chuyên nghiên cứu về dẫn lực lại bị lực hấp dẫn yếu ớt của trái đất chinh phục khiến anh ta cảm thấy hoảng sợ vô cùng. Trông thấy cảnh ấy, ai mà chẳng hoảng kinh? Howkin bị ngã ngửa, điều này chứng minh rằng, cho dù đầu óc con người có vĩ đại đến đâu cũng không thể thoát khỏi những ước chế của quy luật khách quan. Tất cả mọi người đều phải thần phục trước khoa học và chân lý (ngay cả Giáo hoàng cũng đã đầu hàng, Howkin cũng phải ngã ngửa), bởi chân lý và khoa học là những quy luật khách quan trung thực nhất.
Lúc này mới nghĩ ra, do sao Chổi và sao Mộc đâm vào nhau mới cổ súy mọi người quan tâm đến trời là không được. Con người vừa là nô lệ, vừa là chủ nhân của tự nhiên. “Trong vũ trụ điều không thể lý giải chính là vũ trụ có thể lý giải” (lời Einstein). Đại tự nhiên muốn nhận thức chính mình nên đã đem nhiệm vụ vinh quang ấy giao phó cho con người. Khoa học và kỹ thuật mới là chiếc cầu duy nhất dẫn đến chủ nghĩa cộng sản. Trên một ý nghĩa nào đó mà nói, người Mỹ lập một tấm bia kỷ niệm trên mặt trăng chính là đặt một viên đá tảng chủ nghĩa cộng sản, nó đã làm cho trái đất trở nên thu nhỏ lại, nó khai thông tầm nhìn của nhân loại, nó khiến nhân loại một lần nữa “ngưỡng vọng trời sao”, nó khêu gợi cảm giác làm người của con người. Tôi tự tin là mình không xa rời nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin, ngay cả tư bản lũng đoạn cũng là cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội khoa học thôi!
Ngày 18 tháng 10 năm 1989, phi thuyền vũ trụ Atlantic đã bắn một trạm quan trắc giá trị hàng tỉ đô la Mỹ vào không gian. Theo quỹ tích dự định, đến năm 1995 nó sẽ bay đến sát sao Mộc để chúng ta lại một lần nữa “ngưỡng vọng trời sao” để quan sát diện mạo xinh đẹp của một trong những vệ tinh của mặt trời, để xem mảnh vỡ của sao Chổi chính là Chu sơn hay Bất Chu sơn, để xem những hiện tượng thần kỳ mà cho đến ngày nay chúng ta vẫn chưa thể lý giải được. Mỗi thành quả nghiên cứu về vũ trụ đều phải là niềm kiêu hãnh của toàn thể nhân loại. Chúng ta có thể trở thành một con người quả là một niềm vinh quang vô bờ bến. Chúng ta nhỏ bé đến độ đáng thương, chúng ta vĩ đại đến khôn cùng. Nghìn vạn năm sau, khi mà con cháu của chúng ta được sống trên những vì tinh tú khác nhau, liệu chúng sẽ mông lung hỏi nhau như thế này không:
- Nghe nói chúng ta đến đây từ trái đất, nhưng trái đất ở đâu nhỉ?
Do đó, chúng ta đã có thể kề vai thích cánh với những Bàn Cổ, Nữ Oa, Hậu Nghệ, Khoa Phụ… để biến thành những anh hùng!
Tháng 8 - 1995